12/10/17
Trong bài "Tất cả chính trị đều là ‘thực tế’ được
dàn dựng", cựu Dân biểu Robert Linlithgow đã viết : "Chính trị được
dàn dựng. Nó không phải là thực tế". (Politics is staged. It’s not
reality). Quả đúng như vậy. Nhìn lại đống tài liệu về cuộc chiến Việt Nam từ
1954 đến 1975 dày khoảng 150.000 trang đã được Mỹ giải mã, chúng ta thấy các biến
cố quan trọng đều do Mỹ dàn dựng rất công phu, từ việc lèo lái chính phủ Ngô
Đình Diệm đi theo đường lối của Mỹ đến vụ giết hai tổng thống Ngô Đình Diệm và
John Kennedy để đổ quân vào Việt Nam, thực hiệc mục tiêu của cuộc chiến rồi bỏ
rơi Miền Nam… đều đã được tính toán rất tỉ mỉ và chính xác.
Averell Harriman (phải), kẻ ra lệnh giết ông Diệm
và ông Nhu
Mặc dầu đống tài liệu được giải mã cao ngất còn nằm
sờ sờ trước mắt, từ 1975 đến nay, Mỹ đã cho dàn dựng lại cuộc chiến Việt Nam với
nhiều tình tiết rất khác xa với thực tế và sử liệu đã được công bố, để phục vụ
cho các chính sách và mục tiêu từng giai đoạn của Mỹ.
Những nổ
lực đáng buồn
Có 4 bộ phim dàn dựng lại cuộc chiến Việt Nam đã được
người Việt hải ngoại quan tâm và phản đối vì cho rằng không trung thực.
Bộ thứ nhất : "Vietnam The Ten Thousand
Days War" (Việt Nam cuộc chiến 10.000 ngày), trọn bộ 13 tập, của Michael
Maclear phổ biến 1980.
Bộ thứ hai : "Vietnam : A Television
History" (Việt Nam : một Lịch sử Truyền hình), gồm 13 tập, do hãng WGBH-TV
(thuộc PBS) ở Boston phổ biến năm 1983.
Bộ thứ ba : "Last days in Vietnam"
(Những ngày cuối cùng ở Việt Nam), do đạo diễn Rory Kennedy thực hiện và phổ biến
năm 2014.
Bộ thứ tư : "The Vietnam War" (Cuộc
chiến Việt Nam), gồm 10 tập, do hai nhà đạo diễn Ken Burnes và Lynn Novick thực
hiện, PBS mới phổ biến (2017).
Bộ thứ tư này quan trọng nhất, được mấy chục tổ chức
tài chánh và truyền hình Mỹ tài trợ, đứng đầu là Bank of America,
Corporation for Public Broadcasting (CPB), The Public Broadcasting Service
(PBS), The Park Foundation, The Arthur Vining Davis Foundations… Đạo diễn Ken
Burns khoe đã phỏng vấn gần 80 nhân chứng, bao gồm cả những người Mỹ từng tham
chiến và những người phản chiến, những người lính chiến và dân thường của cả
hai phía Việt Nam, người thắng và người bại trong cuộc chiến. Ông nói
: Hơn bốn mươi năm đã trôi qua kể từ khi cuộc chiến kết thúc, chúng ta vẫn
chưa thể quên Việt Nam. Và chúng ta vẫn còn tranh luận vì sao cuộc
chiến này lại đi đến sai lầm, trách nhiệm thuộc về ai và có đáng có một cuộc
chiến như thế này không".
Như chúng tôi đã nói, những thông tin được thu lợm
kiểu này chỉ có thể được dùng để nói lên cách nhìn của một số cá nhân về cuộc
chiến, hay đưa tới những kết luận mà người phỏng vấn muốn, chứ không thể dùng
làm sử liệu được, vì việc chọn người được phỏng vấn nhiều khi thiếu khách quan,
những điều họ biết nhiều khi chỉ là một phần nhỏ của vấn đề và cảm tính thường
xen lấn vào…
Ngoài dùng phim ảnh, Mỹ còn tổ chức các cuộc hội thảo
để vẽ lại cuộc chiến Việt Nam.
Trong ba ngày 26, 27 và 28/4/2016, "Hội nghị
Thượng đỉnh về Chiến tranh Việt Nam" (Vietnam War Summit) đã được Hoa Kỳ tổ
chức tại Thư viện LBJ, Austin, Texas, để vẽ lại lịch sử cuộc chiến Việt Nam và
đưa chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào thay chỗ của Việt Nam Cộng
Hòa trước 1975. Nhân vật chính trong hội nghị là cựu ngoại trưởng Kissinger đã
tuyên bố : "Không có ai muốn chiến tranh, không có ai muốn leo thang chiến
tranh. Họ đều muốn hòa bình. Nhưng câu hỏi là, "Trong những điều kiện nào
bạn có thể làm điều đó ?". Theo ông, thất bại của Hoa Kỳ ở Việt
Nam là do chính người Mỹ tự gây ra, và trước hết là đã đánh giá thấp sự kiên
trì của giới lãnh đạo Bắc Việt !
Khó gỡ
thì tìm cách đạp xuống
Khi vẽ lại chiến tranh Việt Nam để biến đen thành trắng
và trắng thành đen, điều mà Mỹ gặp khó khăn nhất là việc lật đổ và giết Tổng thống
Ngô Đình Diệm. Trong cuốn hồi ký mang tên "The memoirs of Richard
Nixon", Tổng thống Nixon có kể lại rằng khi đến Pakistan, ông đã gặp lại
người bạn cũ là Tổng thống Ayub Khan. Tổng thống Khan đã nói một cách đau buồn
về việc hạ sát Tổng thống Ngô Đình Diệm như sau :
"Tôi không thể nói-lẽ ra các ông đừng bao giờ ủng
hộ ông Diệm ngay từ đầu. Nhưng các ông đã ủng hộ ông ta trong một thời gian dài
và mọi người ở Á Châu đều biết điều đó. Dù họ có tán thành hay không tán
thành điều đó, họ biết điều đó. Rồi đột nhiên các ông ngừng ủng hộ ông ta-và
ông Diệm đã bị giết". Ông ta lắc đầu và kết luận : "Việc hạ sát
ông Diệm có ba ý nghĩa đối với các nhà lãnh đạo Á Châu : làm một người bạn
với Hoa Kỳ là nguy hiểm ; trung lập phải trả cái giá của nó ; và đôi khi làm kẻ
thù (của Hoa Kỳ) lại tốt hơn ! Lòng tin cậy như một sợi chỉ mong manh và một
khi nó đã đứt, rất khó mà nối lại".
Đó là một thực tế không thể phủ nhận được. Để làm giảm
nhẹ bớt ảnh hưởng của biến cố tai hại này. khi vẽ lại lịch sử, Mỹ gần như không
muốn nói về những gì đã xảy ra dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chỉ đưa ra vài lời
"chúc dữ" ông Diệm với ẩn ý giải thích tại sao Mỹ phải lật đổ và giết
ông ta. Trong bộ phim "Vietnam: A Television History", Mỹ đặt tên tập
3 là "America's Mandarin (1954–1963)" (Vị Quan lại của Hoa Kỳ)
trong đó mô tả ông Diệm đã áp dụng chế độ gia đình trị, nên Việt Cộng nổi lên
chống Diệm và trở thành một sự đe dọa nghiêm trọng khiến Mỹ phải đưa quân vào để
cứu Miền Nam. Trong bộ "The Vietnam War" Mỹ lại cho rằng
ông Diệm "kiêu căng" và "ngạo mạn" một "đấng cứu thế
không có thông điệp"…
Tuy nhiên, mặc dầu đã lấp liếm và đạp Đệ Nhất Cộng
Hòa xuống như vậy, hiện nay không một nước nào ở Đông Nam Á chịu đi theo Mỹ
như Việt Nam Cộng Hòa trước đây, một số đứng hẳn về phía Trung Quốc và một số bắt
cá hai tay. Để ngăn chặn Việt Nam đứng hẵn về phía Trung Quốc, Mỹ phải ký tuyên
bố "đối tác toàn diện" với Việt Nam và đang vẽ lại lịch sử chiến
tranh Việt Nam để tiến tới "hòa giải hòa hợp".
Để làm sáng tỏ lịch sử trong giai đoạn này, trong phạm
vi bài này chúng tôi sẽ căn cứ vào sử liệu do Mỹ công bố, trình bày khái lược
những thủ đoạn Mỹ đã sử dụng khi xây dựng rồi phá sập chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa để
tạo lý do đổ quân vào Việt Nam, thực hiện cuộc chiến mà Mỹ muốn.
Chuyện
'Khi Đồng Minh Nhảy Vào'
Cầm cuốn "Khi Đồng Minh nhảy vào" của Tiến
sĩ Nguyễn Tiến Hưng, tôi mở ra và tìm ngay có Nghị quyết số NSC 5429/2 ngày
20/8/1954 của Hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ hay không.
Ông Diệm mới chấp chánh ngày 7/7/1954 thì ngày
20/8/1954, tức chỉ 43 ngày sau, Hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ đã họp và ban
hành nghị quyết nói về chính sách của Hoa Kỳ sau Hiệp định Genève (US policies
toward post-Geneva Vietnam), đồng thời phái Trung Tá Lansdale thuộc cơ quan OSS
(tiền thân của CIA) đến hướng dẫn ông Diệm làm. Ông Diệm và ông Nhu không hay
biết gì cả. Nghị quyết này được in trong bộ Foreign Relations of the
United States (FRUS), 1952–1954, East Asia and the Pacific,
Vol. XII, Part 1. p. 769-976.
Đại tá Lansdale được phái đển giúp ông Diệm
Tôi rất mừng khi thấy sách Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng
có nghị quyết đó đăng ở trang 198–200. Nhưng tôi thất vọng khi thấy Tiến
sĩ Hưng chỉ tóm lược phần phân tích và nhận định của nghị quyết mà thôi,
còn phần các kế hoạch hành động cụ thể không được nói đến. Có lẽ Tiến sĩ
Hưng chưa đọc hết các tài liệu liên quan, nên không biết kế hoạch đó nằm trong
phần Phụ đính, không in trong bộ FRUS 1952-1954, mà in trong The
Pentagon Papers !
Về phương diện chính trị, kế hoạch này đã ấn định
như sau :
"Chính trị : Pháp phải trao trả độc lập
hoàn toàn (gồm cả quyền rút lui khỏi Liên Hiệp Pháp) cho Nam Việt Nam và và yểm
trợ một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government). Diệm
phải mở rộng căn bản chính phủ, bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến pháp và truất
phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao Dai). Sự hợp tác
và hỗ trợ của Pháp cho những chính sách này là cần thiết ; duy trì
FEC (French Expeditionary Corps - Quân Đội Viễn Chinh Pháp), là chủ yếu
đối với an ninh Nam Việt Nam".
(Gravel Edition, The Pentagon Papers,
Volume I, Beacon Press, Boston, 1971, p. 204)
Chỉ với những câu viết vắn gọn như vậy, khi được triển
khai, nó trở thành những biến cố lớn. Đọc các sử liệu tiếp theo, chúng ta sẽ hiểu
tại sao ông Diệm phải truất phế Bảo Đại đến hai lần, việc dẹp tan các giáo
phái, thống nhất quân đội và hình thành một chính phủ bản xứ mạnh (a
strong indigenous government) bằng cách tiến tới một chế độ độc đảng giống
Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan.
Tướng Lansdale đã tranh luận rất gay gắt với ông
Frederick Reinhardt, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Hòa (1955-1957) lúc
đó về việc thành lập Đảng Cần Lao. Nhưng Đại sứ Reinhardt bảo : "Vì
ông Diệm nay là Tổng thống được bầu, ông ấy cần có một đảng riêng của
ông". Tướng Lansdale cho biết thêm : "Ông Reinhardt nói với tôi
một cách cương quyết rằng quyết định về chính sách của Hoa Kỳ đã được ấn định
và tôi phải hướng các hành động của tôi theo nó". Trong bản
phúc trình 17/1/1961, Tướng Lansdale nói rõ : "Đảng Cần Lao không phải là
ý kiến của nhà Ngô, trước tiên nó được đề xướng bởi Bộ ngoại giao Hoa Kỳ để loại
bỏ cộng sản ra khỏi đất nước (the CLP was not their idea ; it "was
originally promoted by the U.S. State Department" to rid the country of
communists).
Tuy nhiên, khi Mỹ muốn đem quân vào Việt Nam để thực
hiện mục tiêu mà Mỹ muốn, ông Diệm không đồng ý, Mỹ liền đảo ngược kế hoach lại.
Khi Mỹ
quyết phá sập Đệ Nhất Cộng Hòa
Ngày 14/3/1957, ông Elbridge Durbrow được bổ nhiệm
làm Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Cộng Hòa thay thế Đại sứ G. Frederick Reinhardt. Kế
hoạch phá sập chế độ Ngô Đình Diệm bắt đầu.
Đại sứ Durbrow được phái đến để phá sập Đệ
Nhất Cộng Hòa.
Nếu khởi đầu Mỹ muốn ông Diệm hình thành tại miền
Nam một chế độ gióng các chế độ chuyên chế của Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan, của
Park Chung Hee ở Nam Hàn, của Sukarno và Suharto ở Nam Đương hay của Lý Quang
Diệu ở Singapore... để loại bỏ cộng sản khỏi đất nước (to rid the country of
communists), thì nay Đại sứ Durbrow yêu cầu ông Diệm "thực hiện dân
chủ để được lòng dân và thắng cộng sản". Tướng Lansdale đã phản đối vì cho
ràng việc thay đổi nhanh như thế sẽ làm Miền Nam trở thành bất ổn.
Năm 1960 Đại Sứ Durbrow đã yểm trợ thành lập Khối
Tự Do Tiến Bộ, thường được gọi là nhóm Caravelle, do ông Phan Khắc Sửu làm
Trưởng Khối, để vận động thay thế ông Diệm. Tướng Lansdale đã viết giác thư đề
ngày 20.9.1960 phân tích những sai lầm của Đại Sứ Durbrow. Nhưng Washington im
lặng.
Một cuộc đảo chánh đã xảy ra ngày 11/11/1960, có nhiều
thành phần của nhóm Caravelle tham dự. Cuộc đảo chánh thất bại. Hôm
4/12/1960, Đại sứ Durbrow đã phải cho Luật sư Hoàng Cơ Thụy ngồi co gối
trong thùng ngoại giao (valise diplomatique) để đưa ra khỏi Việt Nam.
Vì Đại sứ Durbrow có nhiều bất đồng với chính phủ
Ngô Đình Diệm và tai tiếng trong vụ đảo chánh ngày 11/11/1960, ngày 15/3/1961 Tổng
thống Kennedy đã quyết định cử ông Federick E. Nolting làm Đại sứ Hoa Kỳ tại
Sài Gòn thay thế Durbrow. Nhưng ngày 17/8/1963 Bộ ngoại giao đã cử ông Henry
Cabot Lodge đến làm đại sứ tại Sài Gòn để tổ chức lật đổ và giết Tổng thống Diệm.
Mở đường
cho Bắc Việt Nam xâm nhập vào miền Nam
Từ ngày 12 đến 22/1/1959, Ban chấp hành trung ương Đảng
cộng sản Việt Nam đã họp Hội nghị lần thứ 15 tại Hà Nội dưa ra nghị quyết
"giải phóng miền Nam". Tháng 5 năm 1959, Hà Nội quyết định mở đường
Trường Sơn Tây trên đất Lào để xâm nhập vào Miền Nam, lấy tên là Đường
559, thường được gọi là đường Hồ Chí Minh.
Muốn đi vào Nam, bộ đội Bắc Việt phải từ Quảng Bình
theo quốc lộ 12 đi qua Lào bằng đèo Mụ Giạ rồi tiến vào Nam. Cái trở ngại
lớn mà Cộng quân gặp phải là con đường số 9 nối liền Đồng Hà với tỉnh Savannakhet,
nơi có quân đội Việt Nam Cộng Hòa tuần phòng thường xuyên. Cộng quân phải lập mật
khu 601 gần Tchépone, nằm cách biên giới Việt-Lào khoảng 40 cây số để làm nơi
trú quân. Từ đó Cộng quân vượt qua đường số 9 rồi đi lên cao nguyên Boloven để
xuống ngã ba Tam Biên.
Chính phủ Ngô Đình Diệm đã ký hiệp ước với Lào cho
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đóng chốt ở Tchépone và Mường Phín, đồng thời giao
cho Thiếu tá Trần Khắc Kính, Phó Giám đốc Sở Liên Lạc, mở các cuộc hành quân
trên đất Lào để ngăn chặn Cộng quân xâm nhập vào miền Nam. Số quân Việt Nam Cộng
Hòa đóng chốt và hành quân ở Lào có lúc lên đến khoảng 170.000 người. Cộng quân
khó xâm nhập được.
Đùng một cái, ngày 25/1/1963, Tổng thống Kennedy
tuyên bố ông muốn biến Lào thành "một nước độc lập, hòa bình và
không liên kết". Averell Harriman, Thứ trưởng ngoại giao về chính trị, được
coi là người có quyền hành nhất lúc đó tại Tòa Bạch Ốc, cho rằng phải
trung lập hóa Lào để ngăn chặn Cộng quân dùng đất Lào xâm nhập vào Miền Nam.
Ngày 16/5/1961, một Hội nghị quốc tế Giải quyết vấn đề Lào được triệu tập tại
Genève. Chính phủ Ngô Đình Diệm phản đối rất mạnh, nhưng Harriman cứ tiến tới.
Ngày 23/7/1962, Hiệp Ước Hòa Bình tại Lào đã được ký kết, 666 cố vấn Mỹ và toàn
bộ quân đội của Việt Nam Cộng Hòa phải rút khỏi Lào. Bắc Việt cũng cam kết như
thế. Nhưng thực tế không như Harriman tuyên bố. Theo báo cáo của CIA, sau khi
Lào tuyên bố trung lập, khoảng 7.000 bộ đội Bắc Việt chẳng những không chịu rút
khỏi Lào mà còn bành trướng thêm.
Henry Cabot Lodge, kẻ thi hành lệnh đảo chánh, giết
ông Diệm và ông Nhu
Nhiều người tin rằng Harriman đã mở đường cho Bắc Việt
tràn vào Miền Nam rồi viện vào lý do đó tuyên bố phải đổ quân vào để "cứu
Miền Nam"!
Lịch sử
vẫn là lịch sử…
Trên đây là những nét đại cương về tình hình Miền
Nam dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa được tìm thấy trong sử liệu của Mỹ, nhưng khi vẽ
lại lịch sử chiến tranh Việt Nam để phục vụ mục tiêu mới, Mỹ đã tìm cách bôi
bác để che giấu sự thật.
Robert F. Turner, Giáo sư Luật tại Đại học Virginia
và cũng là một học giả nổi tiếng về chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, đã từng nhận định
rằng đa số những gì về chiến tranh Việt Nam đang được giảng dạy tại các
trường trung học và đại học ở Mỹ lại gần với thần thoại hơn là lịch sử.
Như Dalai Latma đã nói : "History is history.
And my statement will not change past history". Lịch sử là lịch sử.
Và lời tuyên bố của tôi không thay đổi được lịch sử đã qua.
Ngày 12/10/2017
Lữ
Giang
No comments:
Post a Comment