Cứ
mỗi lần có cuốn phim, hay quyển sách nào đó nói về chiến tranh Việt Nam được
trình làng, thì cứ y như vậy, người Việt, bất kể là sử gia, chính trị gia, nhà
nghiên cứu… lại bàn tán sôi nổi chung quanh. Kẻ phản đối, người ủng hộ. Đến nay
đã có hàng chục tập phim lịch sử (của các quốc gia như Pháp, Mỹ…) đã trình chiếu,
hàng trăm cuốn sách, cùng với hàng ngàn bài báo (với hàng tấn tài liệu được bạch
hóa) đã công bố hay xuất bản. Vấn đề là không thấy (hay ít thấy) cuốn phim hay
cuốn sách nào làm hài lòng tất cả các phía.
Mục
đích ra đời tập phim là nhằm chuẩn bị dư luận, một thủ tục "dọn sân"
cho "đồng minh nhảy vào". Lãnh đạo Quân khu 5, và vùng 3 Hải
quân Việt Nam tặng hoa chào đón Hạm trưởng và thủy thủ đoàn tàu USS John S.
McCain ngày 7/4/2016
Tập
phim "The Vietnam War" vừa phát hành cũng vậy. Nhiều tiếng nói phê
bình trong và ngoài nước đã cất lên, hầu hết để biểu lộ sự không đồng tình. Đa
số ý kiến phát biểu đều tỏ vẻ thất vọng (thậm chí cay đắng). Thật vậy, nếu có
xem những tập phim đã từng xuất bản, hay có đọc những tập tài liệu của các tác
giả viết về chiến tranh Việt Nam, ta thấy rằng tập phim "The Vietnam
War" thành hình trên những sự kiện lịch sử được chọn lựa trước. Rất nhiều
những sự kiện lịch sử quan trọng khác thì bị bỏ sót, hay đơn giản hóa.
Tập
phim khó có thể trở thành một tập phim "lịch sử", như tham vọng của
các nhà đạo diễn. Trong chừng mực nó (có thể trở thành) một bộ phim chủ về
tuyên truyền, "định hướng dư luận". Nói theo ý của một nhà báo lão
thành hải ngoại, mục đích ra đời tập phim là nhằm chuẩn bị dư luận, một thủ tục
"dọn sân" cho "đồng minh nhảy vào".
Thời
gian làm phim kéo dài tới 10 năm là quá dài. Tất cả hình ảnh trong phim, kể cả
ý kiến phần lớn những nhân chứng, khán giả nào có quan tâm đến thời cuộc, nếu
không đã từng xem qua (déjà vu), bằng không là đọc qua, ở một phim, hay một cuốn
sách nào đó đã xuất bản trước đó. Theo dõi từ đầu đến cuối ta không thấy một dữ
kiện nào mới.
Về
phía đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, thay vì giữ thái độ im lặng hay
"mạnh mẽ phản đối" như thói quen, đã có "phát biểu đáp từ".
Báo chí ghi nhận lời phát biểu của phát ngôn nhân Lê Thị Thu Hằng hồi đầu tuần
trước như sau :
"Cuộc kháng chiến
chống Mỹ của nhân dân Việt Nam là cuộc kháng chiến mang tính chính nghĩa, đã
phát huy được sự đoàn kết và sức mạnh của toàn dân tộc, được bạn bè và nhân dân
trên toàn thế giới hết lòng ủng hộ… Những bước phát triển tích cực trong quan hệ
đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ vừa qua là kết quả của những nỗ lực to lớn
của hai nước và chủ trương của Việt Nam về việc gác lại quá khứ, vượt qua khác
biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai".
Thật
là "nhịp nhàng" ăn khớp. Tập phim một mặt nhằm chứng minh thiện chí của
Mỹ "vượt qua khác biệt", "gác lại quá khứ"... mặt khác, (mặc
nhiên) nhìn nhận tính "chính nghĩa" của cuộc chiến thuộc về phe cộng
sản Việt Nam. Việc này củng cố ý kiến cho rằng phía Hoa Kỳ cho xuất bản bộ phim
này là để chuẩn bị tâm lý nhân dân hai nước Việt Mỹ không bị chới với "khi
đồng minh nhảy vào".
Nhưng
vấn đề đâu có đơn giản như vậy. Đâu là "chính nghĩa" của cộng sản Việt
Nam trong "cuộc kháng chiến chống Mỹ" ?
Về
cuộc chiến, người Mỹ gọi là "chiến tranh Việt Nam". Tên gọi trung
dung, như thói quen đặt tên các cuộc chiến như "chiến tranh Triều
Tiên", "chiến tranh vùng Vịnh", "chiến tranh Iraq",
"chiến tranh Koweit"... Người Mỹ đổ quân vào Việt Nam, cũng tương tự
đã đổ quân vào Tây Đức, Nhật, Nam Hàn, hay ở các cuộc chiến khác, với những
"lý lẽ pháp lý" khác nhau. Mục đích để biện minh sự can dự của Mỹ vào
cuộc chiến phù hợp với tinh thần "jus ad bellum - quyền can dự vào chiến
tranh", theo định nghĩa các công ước quốc tế (về chiến tranh). Điều này sẽ
trở lại phần dưới.
Mở
đầu tập phim, như để chứng minh "chính nghĩa" thuộc về phe cộng sản Bắc
Việt, các đạo diễn đã "tuyển chọn" những tài liệu "thuận lợi"
nhằm giới thiệu nhân vật Hồ Chí Minh, ca ngợi tài năng và đức độ của ông này.
Trong khi nhiều tài liệu (quan trọng) khác, mô tả ông Hồ như là một kẻ "thời
cơ chủ nghĩa", thì các đạo diễn bỏ qua.
Lá
thư gởi Tổng thống Pháp ngày 9/11/1911 xin vào học ở trường Hành chánh thuộc địa
của Pháp là một thí dụ. Lá thư này cho thấy mục đích của ông Hồ lúc "xuống
tàu ở bến Nhà Rồng" không phải là "tìm đường cứu nưóc" như đã
tuyên truyền, mà sự thật là tìm lối thoát cho bản thân, bằng cách xin được làm
tay sai cho Pháp để cai trị dân bản xứ. Nhiều tài liệu khác (cũng bị bỏ qua) chứng
minh ông Hồ chỉ mà một cán bộ "xách động và tuyên truyền - agiprop" của
cộng sản quốc tế do Liên Xô lãnh đạo. Tài liệu khác của Trung Quốc mới công bố
cho thấy ông Hồ là một sĩ quan (thiếu tá) trong đạo hồng quân của Mao Trạch
Đông.
Một
người "đa diện", "quốc tế" như vậy thì không thế là
"nhà ái quốc" rồi !
Tập
đầu "Déjà vu" có nghĩa là "đã xem qua, đã thấy rồi". Tựa đề
như vậy nhưng các đạo diễn lại không thấy chiến thắng Điện Biên Phủ là do công
lao của Trung Quốc. Vũ khí, đạn dược, quân lính, cố vấn... đều đến từ Trung Quốc.
Hiệp định Genève, nói là Pháp đàm phán với phe ông Hồ, mà thực ra là Pháp đàm
phán với Châu Ân Lai. Chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17 là ý kiến của họ Châu chớ
đâu phải ý kiến của ông Hồ.
Tài
liệu từ nhiều phía (có can dự) viết về chiến thắng Điện Biên Phủ, như Trung Quốc,
nhưng các đạo diễn chỉ chọn tài liệu từ phía cộng sản Việt Nam.
Còn
về phía Việt Nam Cộng Hòa, không ai chịu so sánh ông Diệm, ông Thiệu thời đó với
những lãnh tụ đồng thời ở các nước Châu Á. Ông Thiệu, ông Diệm làm gì độc tài
hay tham nhũng bằng Marcos của Phi, bằng Sukarno của Indonesia ?
Nếu
ông Thiệu, ông Kỳ, các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa tham nhũng, tiền bạc đầy
túi như cán bộ Việt Cộng hôm nay, thì sau khi tan hàng 1975, mấy ông này ra sống
nước ngoài, đâu phải làm "cu li", làm "thúi móng tay" để có
nhà ở cơm ăn như vậy. Không ai có thể đưa danh tánh ông nào "sống an nhàn,
phủ phê" ở nước ngoài hết cả.
Trong
một đất nước bị chiến tranh, trí thức "phản chiến" chỉ chú mắt vào
các hành vi "bảo vệ an ninh nội địa" để lên án phía Việt Nam Cộng Hòa
là "độc tài", vi phạm nhân quyền. Các nước như Thái Lan, Miến Điện,
Singapore, Mã Lai, Indonesia… ngay thời điểm bây giờ, nếu so sánh với Việt Nam
Cộng Hòa ngày trước, thì chế độ Việt Nam Cộng Hòa thời đó vẫn "tự do"
và "dân chủ" gấp nhiều lần hơn.
Dân
chúng miền Nam ngày xưa muốn biểu tình là biểu tình, nhà báo muốn chửi (chửi tổng
thống Thiệu là Thiệu chó) là chửi. Chẳng có ai bắt bớ, đánh đập, bỏ tù… Việt
Nam Cộng Hòa ngày đó làm gì có các điều 79, 88, 258… như Việt Nam bây giờ ?
Không
một ai thử đặt vấn đề về tình trạng dân chủ, nhân quyền ở miền Bắc thời đó.
Ngay cả bây giờ cũng không thấy ai đặt vấn đề về chế độ độc tài công an trị hiện
tại ở Việt Nam.
Trong
chiến tranh, các đạo diễn đề cao tinh thần chiến đấu của bộ độ miền Bắc đồng thời
mạt sát quân Việt Nam Cộng Hòa là "hèn nhát".
Rõ
ràng đây là một "thành kiến". Với một thành kiến như vậy thì còn gì
là tính "khoa học, khách quan" để có thể xếp tập phim này là tập phim
"lịch sử" ?
Bởi
vì nếu so sánh "tinh thần chiến đấu" của quân đội Việt Nam Cộng Hòa với
các quân đội các nước mà Mỹ từng sánh vai chiến đấu như quân đội Nam Hàn (trong
cuộc chiến 1951-1953), quân đội Afghanistan (sau khi đánh Taliban), quân đội của
Iraq (sau khi lật đổ Sadam Hussein)... thì rõ ràng quân Việt Nam Cộng Hòa vượt
trội cả cái đầu.
Chiến
tranh Triều Tiên, lúc đầu quân Nam Hàn đã bị quân Bắc cộng đánh tơi bời, rượt
chạy "sút quần", cho tới Pusan (kiểu mũi Cà Mau của Việt Nam). Nếu
không có Mỹ và Liên Hiệp Quốc đổ quân kịp thời "cứu giá" thì Nam Hàn
coi như "đứt bóng".
Trong
khi tinh thần quân Mỹ ở các cuộc chiến "chống khủng bố" ở Iraq hay
Afghanistan, kể cả quân đội của hai nước này, cũng không hơn gì lính Việt Nam Cộng
Hòa hồi đó (nếu không nói là thua xa).
Đánh
với một bọn du kính Hồi giáo được trang bị AK47, không có Tàu, Nga ủng hộ sau
lưng mà đánh hoài không thắng. Ở Iraq và Afghanistan, Mỹ cũng theo sách vở ở Việt
Nam "đồng minh tháo chạy", bỏ lại biết bao nhiêu vũ khí, quân trang,
quân dụng để chạy lấy người. Mỹ vừa rút thì các quốc gia này tức thời bị sụp đổ.
Quân IS vào tới đâu lính ở đây bỏ súng chạy tới đó. Bọn "Nhà nước Hồi
giáo" (tức IS) hôm nay, họ "đánh Mỹ" bằng vũ khí của Mỹ bỏ lại.
Quân đội Iraq và Afghanistan do Mỹ đào tạo dựng lên, sụp đổ trong một thời gian
ngắn kỹ lục.
Nhìn
các quốc gia Iraq, Afghanistan đang bị "giải thể", các thành phố cổ
kính bị tan nát bởi chiến tranh, hàng chục triệu nạn nhân chiến tranh… ta mới
thấy sự bất lực của "sức mạnh Mỹ" cũng như sự vô trách nhiệm của giới
lãnh đạo Mỹ.
Quân
Việt Cộng hồi đó có khác chi với quân IS bây giờ ? Họ đánh bằng lòng thù hận,
dám "thí mạng cùi".
Vấn
đề là người Mỹ không chỉ bỏ chạy, mà lại còn "trói tay" Việt Nam Cộng
Hòa bằng cách không viện trợ quân sự. Kết luận rằng quân cộng sản Việt Nam vào
tới đâu thì lính Việt Nam Cộng Hòa bỏ chạy tới đó là một sự phỉ nhổ vào lịch sử.
Cuộc chiến tăng cường độ thì Liên Xô và Trung Quốc càng tăng nhịp điệu viện trợ.
Quân Việt Nam Cộng Hòa bắn hết đạn thì phải tháo chạy thôi.
Vấn
đề là người Mỹ "tháo chạy" giao dân tộc Việt Nam lại cho "Đảng cộng
sản Việt Nam". Bây giờ nhìn lại, cả dân tộc Việt Nam đang chịu nạn "nội
xâm". Chúng ăn của dân không từ một thứ gì.
Giải
phóng "ách kềm kẹp của Mỹ Ngụy" rốt cục cả nước lọt vào gông cùm của
cộng sản phi nhân.
"Chính
nghĩa" nào trong cuộc chiến, cho phía cộng sản Việt Nam, nếu không phải là
Mỹ đã trịnh trọng dâng cho họ vòng nguyệt quế ?
Các
đạo diễn lựa chọn các hình ảnh chiến tranh, biểu hiện đủ các mặt tội ác. Nhưng
họ chỉ lựa chọn các mặt thấy được gây ra do lính Mỹ, lính Việt Nam Cộng Hòa,
trình chiếu cho khán giả.
Bộ
mặt tội ác phía bên kia, nào là đào mô đắp đường, giựt mìn xe đò, pháo kích vào
chợ búa trường học, đặt chất nổ ở nhà hàng, đặt bom trong rạp hát, ném lựu đạn
vào đám đông, ám sát v.v… thì không nói tới.
Những
"tội ác" do lính Mỹ gây ra, không phải viết ra là để biện hộ, nhưng
nguyên nhân là do du kích Việt Cộng trà trộn trong dân, núp trong dân bắn lén
vào lính Mỹ. Hầu hết các đợt càn quét, các cuộc "thảm sát" (Mỹ Lai, Bến
Tre…) đều xảy ra đúng như vậy.
Nhìn
lại cuộc chiến mà bọn khủng bố IS đang (thua) ở Iraq, Syria… ta thấy quân IS
không khác một mảy may nào với Việt Cộng. Nhân chứng cuộc chiến là nhà văn
Nguyên Ngọc có thố lộ là quân Việt Cộng trà trộn vào trong dân, sử dụng dân
chúng như là tấm bia đỡ đạn.
Về
"chính nghĩa", nếu phía cộng sản miền Bắc có "chính nghĩa",
tại sao không có người miền Nam nào chạy ra miền Bắc xin "tị nạn" ?
Người
ta chỉ thấy ngược lại, các chiến binh miền Bắc xin "hồi chánh" ở lại
miền Nam.
Cũng
vậy, mỗi lần quân cộng sản ra chiến dịch tấn công, là mỗi lần dân chúng chạy về
phía "quốc gia", không ai chạy về "vùng giải phóng".
Sau
khi chiếm được miền Nam, hàng triệu người dân miền Nam thà chết trong bụng cá
chớ không chịu ở lại với cộng sản. Cho đến bây giờ, 99% người dân Việt Nam, kể
cả cán bộ đảng viên cộng sản, mong muốn của họ là bỏ nước Việt Nam qua Mỹ, Úc,
Canada hay các xứ Châu Âu để sống.
Nếu
"có chính nghĩa" thì tại sao dân chỉ muốn bỏ nước ra đi ?
Về
"chiến tranh", trên quan điểm quốc tế, một số học giả gọi chiến tranh
Việt Nam là một cuộc "chiến tranh ý thức hệ", mang tính "quốc tế".
Phía miền Bắc được khối cộng sản yễm trợ, phía miền Nam được khối tư bản, do
Hoa Kỳ đại diện chống lưng. Chiến tranh Việt Nam là thí điểm nóng của "chiến
tranh lạnh".
Vậy
"chính nghĩa" đứng ở phía nào, trong khi khối cộng sản thế giới đã sụp
đổ ?
Cuộc
chiến Việt Nam còn được các sử gia quốc tế gọi dưới tên khác là "chiến
tranh ủy nhiệm".
Trong
chiến tranh, miền Bắc được phe xã hội chủ nghĩa giúp từ "a đến z", thực
phẩm, thuốc men, cây súng, viên đạn, xe tăng, đại pháo, hỏa tiễn… cho đến nhân
sự (như chuyên gia kỹ thuật), phần lớn từ Liên Xô, Trung Quốc.
Miền
Nam thì súng đạn, tiền bạc của Hoa Kỳ. Cả hai phía Việt Nam chỉ cung cấp xương
và máu cho cuộc chiến.
Mục
đích chiến tranh (ủy nhiệm), lãnh đạo cộng sản Việt Nam có nói : "ta đánh
Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc".
Rõ
ràng đây là lý lẽ của một tập đoàn "đánh thuê".
"Chính
nghĩa" nào cho bọn "đánh thuê" ?
Sau
1975, Việt Nam trở mặt với Trung Quốc, quay đầu về Moscow, trở thành tên xung
kích sừng sỏ của Liên Xô, chống lại Trung Quốc.
Theo
quan điểm của Trung Quốc, Việt Nam trở thành "Cuba của phương Đông".
Chính
nghĩa nào cho một tập đoàn làm "tay sai", theo phe này chống lại phe
kia ?
Phía
miền Bắc gọi đó là cuộc "chiến tranh giải phóng", "đánh Mỹ cứu
nước". Phía miền Nam thì gọi đó là cuộc chiến bảo vệ tự do. Mà chiến
tranh, theo Machiavel, chiến tranh là một "phương tiện" để chinh phục
và chiếm hữu quyền lực.
Nếu
các đạo diễn nhìn nhận cuộc chiến "chống Mỹ cứu nước" là có
"chính nghĩa". Điều này thừa nhận quân Mỹ là đạo quân "xâm lược".
Nếu
vậy thì quân Mỹ hiện diện ở Nhật, Nam Hàn, ở Tây Đức trước kia, hay ở các nước
"đồng minh" trên khắp thế giới… cũng là "đạo quân xâm lược"
?
Không
biết dư luận Mỹ, các lãnh đạo nước Mỹ, có "gánh vác" nỗi vụ này hay
không ?
Hơn
40 năm sau, cộng sản Việt Nam nhân danh có công "giải phóng miền Nam thống
nhứt đất nước" để giành độc quyền cai trị đất nước.
Về
"thống nhứt đất nước", có hàng chục thí dụ "thống nhứt đất nước"
không tốn một giọt máu, không cần phải "đốt cháy Trường sơn, tát cạn Biển
Đông".
Đổ
máu trên 4 triệu người, đất nước tan hoang, dân tình ly tán. Cuộc chiến vì vậy
là "phi nghĩa"
Còn
về mục tiêu "giải phóng miền Nam", lịch sử đã bạch hóa mà các đạo diễn
không thấy, có người dân nào ở miền Nam mong đợi được "giải phóng" ?
Như trên đã nói, người dân miền Nam đã bỏ phiếu bằng chân, quân Việt Cộng vào tới
đâu dân chạy trốn tới đó. Sau 1975, dân Việt Nam có câu ví von "nếu cây cột
đèn có chân nó cũng vượt biên". Rõ ràng đây là "chân lý". Mặt thật
của cuộc chiến là cuộc "xâm lăng" được bọc dưới mỹ từ giải phóng.
Chính
nghĩa nào cho cuộc chiến "xâm lăng" ?
Về
phía Mỹ, lý do nào họ can dự vào Việt Nam ?
Các
cuộc chiến cận đại như chiến tranh Kuwait, chiến tranh Iraq, người Mỹ chỉ
"tham gia" cuộc chiến sau khi đã được Liên Hiệp Quốc "bật đèn
xanh". Trong cuộc chiến Koweit, Iraq đã "xâm lược" Koweit, vi phạm
nguyên tắc nền tảng của Liên Hiệp Quốc. Mỹ và nhiều nước khác, theo tinh thần một
nghị quyết của Liên Hiệp Quốc, đổ quân vào Kuwait để "tống cổ" quân
Iraq ra khỏi nước này. Đây rõ ràng là một cuộc chiến "giải phóng".
Cuộc
chiến Iraq, Mỹ đưa ra những bằng chứng cho thấy nước này đang "chế tạo"
vũ khí hạt nhân. Như vậy Iraq vi phạm hiệp ước "không phổ biến vũ khí
nguyên tử" mà họ đã ký.
Nhưng
chiến tranh, nói theo triết gia Alembert, "nghệ thuật chiến tranh nhằm
tiêu diệt con người đồng thời cũng là nghệ thuật chính trị nhằm lường gạt con
người".
Bây
giờ ta mới biết rằng cuộc chiến Iraq, Mỹ đã "dựng" lên những bằng chứng
giả để có cớ đánh Saddam Hussein.
Còn
quan điểm mácxít, qua các lý thuyết của Lenin và Mao Trạch Đông, tất cả các cuộc
chiến tranh cách mạng là chiến tranh "có chính nghĩa" (chính đáng).
Chiến tranh "phản động" là chiến tranh không chính đáng.
Vấn
đề là trước khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam không có một kết ước nào với lãnh đạo
Việt Nam (như kết ước đồng minh).
Chỉ
khi quân Mỹ vào Đà Nẵng, trước chuyện đã rồi, chính quyền Sài Gòn chỉ đưa ra một
thông báo, giảm thiểu mọi thủ tục, nhìn nhận sự hiện diện của Mỹ ở miền Nam.
Trước
đó, thời ông Diệm, các đời tổng thống Mỹ đã hứa hẹn "giúp miền nam xây dựng
một quốc gia độc lập, có chủ quyền". Người Mỹ gọi "quốc gia" đó
là "South Vietnam", nhằm chống lại sự xâm lăng của một quốc gia (độc
lập có chủ quyền) khác ở miền Bắc, là quốc gia North Vietnam.
Vận
động "xây dựng South Việt Nam" thành một "quốc gia độc lập có chủ
quyền" của Mỹ là cần thiết, trên phương diện công pháp quốc tế. Vì chỉ khi
Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia độc lập, có chủ quyền thì Mỹ (và các nước có
quan hệ khác) mới có quyền can thiệp (bằng chiến tranh), với lý do "quốc
gia South Vietnam" bị một quốc gia khác là "North Việt Nam" xâm
lược.
Sự
can thiệp của Mỹ vào Việt Nam "chính đáng - jus ad bellum" vì dựa
trên "quyền tự vệ chính đáng đa phương" của Liên Hiệp Quốc. Vì vậy
theo chân Mỹ, các quốc gia "đồng minh" của Mỹ như Úc, Canada, Tân Tây
Lan, Thái, Nam Hàn, Phi… cũng đổ quân vào Việt Nam.
Nhưng
khi có sự hiện diện của quân đội Mỹ và các nước đồng minh, cuộc "nội chiến
Bắc Nam", miền Bắc muốn "thôn tính" miền Nam, trở thành cuộc chiến
"chống Mỹ cứu nước".
Rốt
cục cuộc vận động của Mỹ (xây dựng Việt Nam Cộng Hòa thành một quốc gia độc lập
có chủ quyền) đã thất bại. Mỹ phải ký hiệp định Paris 1973 nội dung công nhận
hiệu lực của Hiệp định Genève 1954, tức là nhìn nhận Việt Nam là một "quốc
gia duy nhứt, thống nhứt ba miền, lãnh thổ bất khả phân".
Tức
là trên phương diện "pháp lý" Mỹ đã thua, thứ nhứt vì không thuyết phục
được lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa (nhứt là ông Diệm) tuyên bố Việt Nam Cộng Hòa
"quốc gia độc lập có chủ quyền". Bởi vì lãnh đạo miền Nam hầu hết xuất
thân từ miền Bắc. Thứ hai, thua cộng sản Việt Nam và các lực lượng trí thức
thiên tả ở Paris về tuyên truyền, vận động dư luận quốc tế.
Cộng
sản Việt Nam "giao cấu" với cộng sản Tàu "đẻ" ra Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam. Tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam lại được Pháp cho bú
mớm. Tổ chức này "lớn lên", mục tiêu "giải phóng miền Nam"
được "quốc tế" ủng hộ. Rốt cục các đồng minh của Mỹ phải "tháo
lui" vì thấy cuộc chiến không còn chính đáng.
Nguyên
nhân Mỹ thua là vì Mỹ vào miền Nam mà không hỏi ý kiến dân miền Nam (thông qua
một cuộc trưng cầu dân ý, thí dụ vậy). Vì nếu có một "kết ước" hợp
pháp giữa dân miền Nam và Mỹ, thì cuộc chiến đã quay theo chiều hướng khác.
Chiến
tranh Việt Nam lý ra giống y chang chiến tranh Triều Tiên.
Vấn
đề là ngưòi Mỹ "bao thầu" mọi thứ, trong khi Pháp thì chống Mỹ (vì bị
Mỹ đã hất chân), ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Khi quân cộng sản vào gần
tới Sài Gòn, Dương Văn Minh lên làm tổng thống.
Sự
việc đã rồi, Mỹ đã nhìn nhận Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, gián tiếp nhìn nhận
Mỹ đã "xâm lược" miền Nam. Không có kết ước nào gắn bó Việt Nam Cộng
Hòa với Mỹ. Liên Hiệp Quốc "bó tay", không làm được việc gì.
Việt
Nam Cộng Hòa là phía "có chính nghĩa", vì lãnh đạo thiếu viễn kiến,
đành phải chết tức tưỡi.
Cuối
cùng lẽ phải luôn thuộc về phía chiến thắng.
No comments:
Post a Comment