28/03/2019
Viễn ảnh Việt Nam trở thành một nền kinh tế dựa vào
công nghệ và sáng tạo thường được thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ca ngợi, nhưng ước
mơ công nghệ hóa đất nước của những người cộng sản càng ngày càng xa rời thực tế.
Thực tế Việt Nam vẫn là một nước với nền kinh tế tiểu
thương, tiểu nông, ngày càng lệ thuộc vào các công ty đa quốc gia và vào nhập cảng
hàng hóa tiêu dùng từ nước ngoài.
Doanh nhân Việt Nam chịu nhiều bất công từ chính
sách, luật pháp đến môi trường kinh doanh nên không thể phát triển, các doanh
nghiệp tư nhân đóng góp chưa đến 10% GDP, 96% các doanh nghiệp đều nhỏ hay rất
nhỏ chỉ được xem là tiểu thương hay tiểu doanh nhân.
Kinh tế hộ gia đình bao gồm tiểu thương, tiểu thủ
công nghệ, buôn bán bán bưng và tiểu nông vẫn chiếm tới 32% GDP.
Doanh
nghiệp nhà nước (DNNN)
Khu vực kinh tế quốc doanh theo thống kê vẫn chiếm
27% GDP, trên thực tế tỷ lệ có thể lớn hơn rất nhiều vì định nghĩa DNNN chưa được
rõ ràng.
Các BOT bẩn có vốn đầu tư từ các ngân hàng nhà nước
lên đến 90% như thế có thuộc DNNN không?
Các doanh nghiệp cổ phần hóa, nhà nước vẫn giữ cổ phần
như thế có thuộc DNNN không?
Đã có 3 ngân hàng cổ phần được Ngân hàng Nhà nước
mua lại toàn bộ cổ phần với giá 0 đồng, như vậy các ngân hàng cổ phần khác có
thuộc DNNN không?
Các doanh nghiệp làm sân sau cho các nhóm lợi ích có
thuộc DNNN không?
Trên chỉ là vài thí dụ, theo chủ trương của đảng Cộng
sản kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, DNNN vẫn được nhà nước tiếp tục
nuôi dưỡng mặc dầu tham nhũng, lợi ích nhóm, lãng phí của công, thiếu hiệu quả
tràn lan trong khu vực này.
Trong khi đó muốn có một môi trường kinh doanh công
bằng cho việc phát triển đất nước, Hà Nội phải chấm dứt can thiệp vào hoạt động
của DNNN, chấm dứt mọi trợ cấp, cho vay ưu đãi, bảo lãnh vay, xóa nợ, ưu đãi
nguồn lực đất và tài nguyên.
Hà Nội phải để các DNNN tuân thủ nguyên tắc thị trường
không được bù lỗ, không giảm trừ thuế và DNNN phải bình đẳng cạnh tranh kinh
doanh với khu vực tư nhân.
Những hiệp định thương mãi quốc tế buộc Hà Nội phải
tiếp tục cổ phần hóa các DNNN cũng như mở cửa khu vực dịch vụ công cộng cho các
doanh nghiệp nước ngoài vào khai thác.
Trong việc cổ phần hóa các DNNN cần được “xã hội
hóa” bằng cách bán cổ phần cho dân chúng, từ trẻ đến già mỗi người một ít, như
nhiều quốc gia trên thế giới vẫn làm, thay vì bán cho người nước ngoài. Trường
hợp công ty bia Sài Gòn Sabeco bán tới 53,59% cổ phần cho tỷ phú Thái Charoen
Sirivadhanabhakdi.
Doanh
nghiệp có nguồn vốn đầu tư nước ngoài (DNVĐTNN)
Trên 30 năm nay, Hà Nội theo đuổi chiến lược tăng
trưởng kinh tế dựa trên đầu tư nước ngoài vào công nghiệp phục vụ xuất cảng.
Các DNVĐTNN và các tập đoàn đa quốc gia được ưu đãi
mọi mặt, từ thủ tục hành chánh, thuê mướn đất đai, thuê mướn nhân công, miễn giảm
thuế má, trợ giúp xuất nhập cảng, trợ giúp vay thêm vốn, cạnh tranh thu hút đầu
tư giữa các địa phương, cho đến các chính sách vĩ mô về hối đoái, tiền tệ hay
ký kết các Hiệp Định Thương Mãi Quốc Tế để mở rộng xuất cảng.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm trên 20%
GDP, trong khi khu vực doanh nghiệp tư nhân chưa được 10% và khoảng cách chênh
lệch ngày một gia tăng.
Trong khi thuế thu nhập doanh nghiệp các DNVĐTNN
bình quân chỉ 10%, thì doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trung bình đóng 20%. Nghịch
lý đã xảy ra khu vực DNVĐTNN to gấp đôi nhưng giao nộp ngân sách chỉ bằng nửa
(51%) khu vực tư nhân.
Các công ty đa quốc gia như Samsung năm 2018 lợi nhuận
lên tới 5 tỷ Mỹ Kim trong khi thuế đóng góp cho ngân sách chỉ chừng trên 300
triệu Mỹ Kim.
Theo Kinh tế trưởng World Bank tại Việt Nam Tiến sỹ
Sebastian Eckardt việc cắt giảm thuế thu nhập từ doanh nghiệp và các ưu đãi để
thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một nguyên nhân gây ra việc thu ngân sách từ mức
gần 30% GDP trong nhiều năm đã hạ xuống khoảng 26-28% trong giai đoạn 2006-2009
và có xu hướng giảm đi vào giai đoạn 2015-2018 trung bình chỉ còn khoảng hơn
23% GDP.
Chiến lược ưu đãi DNCVĐTNN chỉ thu hút được các
doanh nghiệp khai thác lợi nhuận trước mắt. Samsung đã từng rút khỏi Nam Hàn, rời
sang Trung Quốc rồi vào Việt Nam, khi tình hình chính trị Bắc Hàn cho phép
Samsung sẽ lại tiếp tục dời đi.
Trong khi các DNVĐTNN được luật pháp quốc tế bảo vệ
còn DNTN phải dựa vào luật pháp Việt Nam, mà luật pháp Việt Nam thì thật khác với
thế giới.
Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu
quản lý kinh tế Trung ương cho biết chính sách và pháp luật dù có cải thiện
nhưng vẫn chưa khắc phục được “8 không” là không rõ ràng, không cụ thể, không
minh bạch, không hợp lý, không ổn định, không tiên liệu trước, không hiệu quả
và không hiệu lực.
Các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vì thế khó có thể
cạnh tranh một cách hiệu quả ngay tại Việt Nam thì nói gì đến việc vươn ra biển
cạnh tranh ở xứ người.
Nhiều quốc gia bao gồm Mỹ, Úc, Canada, Âu châu cấp
các Visa đầu tư cho những doanh nhân với số vốn nhỏ chỉ chừng 1 triệu Mỹ kim nhằm
thu hút các doanh nhân đến định cư tại các quốc gia này.
Các doanh nhân này vừa mang tiền đến đầu tư, vừa
mang kinh nghiệm làm ăn buôn bán, vừa thực hiện ước muốn được định cư trên 1 xứ
sở họ được đối xử công bằng.
Sau làn sóng tỵ nạn chính trị là làn sóng người Việt
liên tục bỏ nước ra đi, tại Việt Nam họ bị đối xử bất công về mọi mặt, họ phải
tìm đến một chân trời mới, nơi đất lành chim đậu.
Doanh
nghiệp tư nhân (DNTN)
Việt Nam hiện có trên 600 ngàn doanh nghiệp, với 500
ngàn DNTN, nhưng có tới hơn 96% là DN nhỏ và rất nhỏ, 2% DN quy mô vừa và 2% DN
lớn.
Mặc dù không tới 10% GDP, DNTN lại tạo công ăn việc
làm cho hằng chục triệu người lao động, mỗi năm tạo thêm vài trăm ngàn công việc
làm mới. Đồng tiền đầu tư vào DNTN luôn tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn các
khu vực khác.
Nhưng có tới 48% DNTN bị thua lỗ, chỉ riêng năm
2018, con số DNTN không đủ vốn, không đủ sức cạnh tranh phải ngừng kinh doanh
đã lên đến 90.000.
Nghịch lý là tỷ lệ đóng góp vào thuế của các DNTN
chiếm đến hơn 41% vẫn cao hơn tỷ lệ đóng góp của các khu vực khác.
Chưa kể các DNTN còn phải đóng phí cho cửa quyền cho
tham nhũng để được yên ổn làm ăn.
Một môi trường kinh doanh như thế các DNTN không thể
tự đề ra những chính sách và chiến lược để có thể cạnh tranh và phát triển. Rất
ít các DNTN đủ lớn để có khả năng hướng tới đầu tư sản xuất hàng công nghiệp.
Bước sâu vào sân chơi quốc tế Việt Nam sẽ phải cắt
giảm thuế quan, dỡ bỏ rào cản thương mại và mở cửa thị trường sâu hơn, sức ép cạnh
tranh ngày càng gay gắt hơn, nếu Hà Nội không đưa ra các chính sách thích hợp
thì các DNTN khó có thể sống còn.
Bởi thế thay vì đầu tư trong nước, nhiều doanh nhân
đã bán lại doanh nghiệp trong nước, dùng tiền vốn đầu tư và định cư nước ngoài
như đã nói phần trên.
Nhiều gia đình cũng sẵn sàng chi trả hàng trăm nghìn
Mỹ Kim cho con em đi du học và khi tốt nghiệp con em họ định cư ở nước ngoài, rồi
cả gia đình bán doanh nghiệp di dân.
Hiện tượng tìm cơ hội tốt hơn nơi xứ người đang càng
ngày càng trở nên rầm rộ nhưng vẫn chưa được Hà Nội đánh giá đúng mức để điều
chỉnh “chiến lược” dựa trên tư bản nước ngoài.
Hộ
Gia Đình
Cũng cần nói qua về kinh tế hộ gia đình một hình thức
kinh doanh còn chiếm trên 32% GDP, gồm những tiểu thương, tiểu thủ công nghệ,
buôn gánh bán bưng, các tiểu nông.
Nhiều hộ kinh doanh tránh thành lập doanh nghiệp tư
nhân vì quá nhiều rào cản lại không mang lại lợi ích trong việc phát triển kinh
doanh. Nhiều hộ kinh doanh phải hoạt động trong nền kinh tế “ngầm” tránh việc
quản lý của công quyền.
Gần đây Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giao cho Tổng cục
Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá, rà soát lại quy mô GDP và phải “đưa
kinh tế ngầm vào GDP”, nhiều người cho rằng nhằm mục đích thu thuế.
Tại sao các hộ gia đình trốn hay tránh bị đóng thuế?
Và nếu biết rõ nền kinh tế “ngầm” liệu Hà Nội có thể thu được thêm thuế không?
là những câu hỏi khá thích thú hẹn bạn đọc dịp khác sẽ bình luận.
Thay
đổi thể chế
Phát triển quốc gia lẽ ra phải dựa vào nội lực đất
nước, phải dựa vào doanh nghiệp tư nhân thì Hà Nội lại chạy theo chiến lược dựa
vào tư bản nước ngoài.
Chiến lược sai lầm kết quả là doanh nghiệp tư nhân
ngừng phát triển, đất nước và xã hội bị kéo theo trở thành chậm phát triển, bởi
thế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế dựa trên tiểu thương và tiểu nông.
Muốn phát triển điều kiện cần là Hà Nội phải thay đổi
chiến lược, chính sách và luật pháp sao cho phù hợp, rõ ràng, minh bạch, cụ thể,
hợp lý, tạo ổn định, để mọi doanh nghiệp được cạnh tranh một cách bình đẳng.
Điều kiện đủ là Việt Nam phải có tự do kinh doanh,
quyền tư hữu tài sản và đất đai phải được Chính Phủ bảo đảm và tầng lớp doanh
nhân phải có quyền tự do chọn người đại diện trong Quốc Hội và Chính Phủ để bảo
vệ quyền lợi cho chính họ.
Nguyễn
Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
26/03/2019
No comments:
Post a Comment