Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận
Đăng
ngày: 17.08.2014
VRNs
(17.08.2014) – Tự do ngôn luận – Một trong những bài
hát đáng khinh tởm nhất dưới chế độ CSVN là bài “Đảng đã cho ta mùa Xuân” của
Phạm Tuyên, con trai ông Phạm Quỳnh, người đã bị Hồ Chí Minh giết chết cách tàn
độc.
Xin
ghi lại toàn văn để đồng bào thấy tất cả tính mỉa mai cùng tột của cái ca khúc
xứng đáng đi vào lịch sử như một đối ảnh khốn khiếp của các thiên hùng ca Bình
Ngô Đại Cáo, Hịch Tướng Sĩ…:
“Đảng đã cho ta một
mùa Xuân đầy ước vọng. Một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi. Đảng đã
mang về tuổi Xuân cho nước non. Vang tiếng hát ca chứa chan niềm yêu đời. Bao
năm khổ đau đất nước ta không mùa Xuân. Cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn
căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng. Bóng tối lui dần tiếng chim
vui hót vang. Và rồi từ đây ánh dương soi đời mới. Tiến theo cờ Đảng là thấy
tương lai sáng tươi. Đảng đã cho ta cả mùa Xuân cả cuộc đời. Đảng truyền cho ta
một niềm tin ở tương lai. Đảng đã đem lại tuổi Xuân cho nước non. Thế giới
quanh ta ngân vang ngàn tiếng cười. Xua đi màn đêm chiến tranh gieo bao khổ
đau. Cuộc đời từ nay sẽ sáng tươi như mùa Xuân. Vượt mọi gian khó ta tiến lên
đi theo Đảng. Bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Bạn ơi mùa Xuân khắp nơi
tươi đẹp quá. Khi lý tưởng Đảng rực sáng trong tim chúng ta”.
Không
khó để thấy rằng hơn nửa thế kỷ qua, từ khi Hồ Chí Minh du nhập vào VN cái chủ
thuyết, cái chế độ và cái chính đảng hết sức phi nhân bản và phản dân tộc nhưng
lại trá hình dưới vỏ bọc “đấu tranh cho tự do độc lập”, “thủ tiêu cảnh áp bức
bóc lột” và “xây dựng thế giới đại đồng” hòng mê hoặc quần chúng, thì thực tế
hoàn toàn trái ngược với những gì diễn tả trong bài hát khốn nạn trên đây. Khắp
nơi, người ta chỉ thấy một mùa xuân sau song sắt (của nhà tù lớn mang tên Cộng
hòa XHCNVN). Mọi chốn, người ta chỉ thấy tuổi xuân con người bị đày đọa (do tâm
trí bị đầu độc, do thể xác suy dinh dưỡng, do tương lai ra mịt mờ…), chỉ thấy
tuổi xuân đất nước bị bầm dập (do văn hóa suy đồi, do đạo đức băng hoại, do môi
trường nhiễm độc, do kinh tế tụt hậu, do chính trị hà khắc, do ngoại giao yếu
hèn…). Khắp nơi, người ta chỉ thấy bóng tối của những cuộc chiến kinh hoàng do
chính đảng CS gây ra chứ không ai khác. Mọi chốn, người ta chỉ thấy bóng tối
của một tương lai vô định vì cái “lý tưởng” xã hội chủ nghĩa không tưởng lường
gạt, vì cái nguy cơ rơi lại vào tròng nô lệ kẻ thù truyền kiếp bắc phương. Ta
hãy nghe chính những người Cộng sản đã tạm mở mắt đang tố cáo thực trạng bi đát
này:
“Từ
nhiều năm nay, đảng CSVN dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng
chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa
Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường
lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn
trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy
cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi
ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn
diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh. Trong khi đó, giới lãnh
đạo Trung Quốc (TQ) từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc,
phục vụ lợi ích của TQ. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay, VN đã có nhiều
nhân nhượng trong quan hệ với TQ, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, TQ càng
lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, TQ có nhiều hành vi leo
thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi VN là mắt xích yếu
nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức
hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã
tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng TQ đã đi được những bước quan
trọng trong mưu đồ biến VN thành “chư hầu kiểu mới” của họ” (Trích Thư ngỏ ngày
28-07-2014 của 61 đảng viên gởi Ban Chấp hành TW và toàn thể đảng CSVN).
Quả
là CSVN đã hiện nguyên hình như một chế độ bất công, bất nhân, bất lực và như
một chính đảng áp bức, độc tài, hèn nhát, bạc nhược (hiện nguyên hình chứ không
phải thoái hóa bản chất, vì bản chất của nó vốn đã xấu tự thân và ngay từ đầu,
chỉ khéo che đậy và ngụy biện mà thôi).
Tuy
nhiên, gần đây, nhiều dấu hiệu mới cho thấy việc hiện nguyên hình này của CSVN
chưa phải là trọn vẹn và cả toàn dân cần phải buộc cho nó lộ diện hoàn toàn hầu
dễ bề đối phó, không thì chết cả đám, tiêu vong cả dân tộc. Đó là trong cuộc
họp thượng đỉnh tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên bên Tàu vào tháng 9-1990,
giữa lãnh đạo hai đảng lẫn hai nhà nước (phía TQ là Giang Trạch Dân, TBT đảng
và Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện; phía VN là Nguyễn Văn Linh, TBT đảng, Đỗ
Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, Cố vấn), hai bên đã ký kết
một văn bản mang tên “Kỷ yếu Hội nghị” để chính thức bình thường hóa quan hệ 2
nước (vốn đã trở thành thù địch sau các cuộc chiến biên giới năm 1979 rồi 1984)
và cùng nhau thực hiện những thỏa thuận đạt được giữa lãnh đạo 2 nhà nước và 2
đảng. Cuộc gặp thượng đỉnh này cũng như nội dung các thỏa thuận lần ấy từ đó
đến nay vẫn luôn nằm trong bí mật, chưa được chính thức công bố cho nhân dân VN
lẫn TQ và cộng đồng quốc tế được biết! Gần đây, có nhiều đồn đoán trong nhân
dân -phát xuất từ những tiết lộ của Tân Hoa xã, Hoàn Cầu Thời báo, Wikileaks-
rằng tại Hội nghị Thành Đô ấy, đám chóp bu Ba Đình đã ngang nhiên đem giang sơn
đất Việt mà bán cho Tàu qua cam kết: “VN bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận
làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như TQ đã
dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…” Đây là một tin sét đánh chấn động cả
ngàn năm lịch sử Dân tộc và làm cho lòng dân Việt hôm nay hết sức hoang mang,
sôi sục cũng như phẫn nộ.
Để
biết thực hư vấn đề đó ra sao, chúng ta hãy nhìn lại bối cảnh của Hội nghị
Thành Đô bấy giờ. Lúc ấy, hàng loạt các đảng CS và hệ thống XHCN -như quân bài
domino- nối tiếp nhau tan rã và sụp đổ ở Đông Âu, vì mang mầm tự hủy trong bản
chất của chúng. Mầm mống tự hủy này chính là chủ trương cai trị bằng bạo lực và
dối trá, hai điều mà bản tính con người dị ứng một cách triệt để. Đầu tiên là
Ba Lan (6-1989), tiếp theo là Hungari (10-1989), Đông Đức (11-1989), đoạn tới
Tiệp Khắc (12-1989), Rumani (12-1989), rồi Bulgari (1-1990). Muộn hơn là Albani
(3-1991), rồi Nam Tư (6-1991) và cuối cùng là Liên bang Xô viết (19-8-1991).
Đặc biệt, những sự kiện dồn dập xảy ra tại sáu nước Đông Âu trong vòng không
đầy một năm đã gây bồn chồn lo lắng, âu sầu sợ hãi cho TBT Nguyễn Văn Linh (kẻ
từng rất tâm đầu ý hợp với lãnh tụ bị hành quyết của Rumani là Ceaucescu trong
chuyện cứu vãn Xã hội chủ nghĩa) cũng như bộ sậu chóp bu Hà Nội.
Nắm
bắt được tâm trạng hoảng hốt đó của lãnh đạo đảng và nhà nước VN, đồng thời
biết chắc đám này sẵn sàng nhân nhượng tất cả để khôi phục quan hệ đảng và nhà
nước với TQ nhằm có đồng minh và chỗ dựa trong việc bảo vệ đảng và chế độ,
Trung Nam Hải quyết định hành động! Bắc Kinh thấy đây là cơ hội ngàn năm một
thuở để đưa lãnh đạo đảng và nhà nước VN nằm trọn trong quỹ đạo phụ thuộc toàn
diện vào mình, để từ đó tiến tới việc thôn tính mảnh đất phía nam mà cả ngàn
năm, tổ tiên Hán tộc đã bao phen thất bại trong việc xâm lược. Và cơ quan Tàu
cộng được giao thực hiện quỷ kế này chính là Hoa Nam Tình Báo, kẻ mà theo dư
luận, đã tạo ra một Hồ Chí Minh giả để cai trị đất Việt. Hoa Nam Tình Báo đã
chọn được ba con cờ đắc dụng: một Nguyễn Văn Linh ngây thơ khờ khạo, một Đỗ
Mười ngu dốt háo danh và một Phạm Văn Đồng tay đã nhúng chàm việc dâng hai quần
đảo tiền đồn của đất nước. Dĩ nhiên với đầu óc cuồng tín vào tình hữu nghị cộng
đảng, với tâm địa khốn khiếp vô tổ quốc và vô đồng bào, với tham vọng điên khùng
muốn thống trị mãi trên đất Việt (như chúng học từ chủ nghĩa CS do HCM giảng
dạy), ba tên bán nước ấy đã sẵn sàng xóa đi ngàn năm kiêu hùng của Dân tộc, chà
đạp xương máu của bao anh hùng liệt nữ, nhắm mắt trước cảnh đọa đày của các tộc
Mông, Mãn, Hồi, Tạng. Việc chúng cùng đám đàn em giấu giếm nội dung những thỏa
thuận sinh tử đối với đất nước ấy suốt 24 năm trời là bằng chứng chúng sợ nhân
dân tuyên án là lũ phản quốc, một lũ phản quốc chưa từng có trong lịch sử dân
tộc.
Hội nghị Thành Đô
Nhưng
dù chúng không công bố mật ước Thành Đô, nhân dân cũng thấy được những hậu quả
và hệ luận từ đó. Chẳng hạn cuộc chiến tranh xâm lược của Tàu ở 6 tỉnh biên
giới phía Bắc VN (1979) không còn được nhắc đến, thậm chí những hoạt động tưởng
niệm và vinh danh các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến này đều bị cấm cản! Biến
cố xâm lược ấy cũng như việc Tàu dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa
(1974) và đảo Gạc Ma ở Trường Sa (1988) không được tổng kết và đưa vào lịch sử
và giáo khoa để giáo dục lòng yêu nước cho giới trẻ. Chẳng hạn những cuộc biểu
tình yêu nước chống Tàu xâm phạm biển đảo, sát hại ngư dân ta đều bị đàn áp tàn
bạo. Chẳng hạn việc cho phép Tàu thuê hàng trăm ngàn héc ta rừng đầu nguồn,
rừng quốc phòng ở các tỉnh biên giới chiến lược phía Bắc với thời hạn lâu dài
50-70 năm. Chẳng hạn việc để cho Tàu đưa hàng ngàn công nhân đến Tây Nguyên,
một yếu huyệt rất quan trọng về an ninh quốc phòng để thực hiện dự án bauxite
đầy nghi ngờ và đáng tranh cãi. Chẳng hạn việc các công ty Tàu trúng đến 80-90%
các gói thầu trọn gói EPC (thiết kế-mua sắm-xây dựng) trong các dự án về kinh
tế-xã hội, đặc biệt là các dự án nhiệt điện, với hàng chục ngàn lao động phổ
thông Tàu (có phép và không phép) thực hiện các dự án đó? Chẳng hạn việc thương
nhân và doanh nghiệp Tàu tung hoành trên khắp lãnh thổ nước ta, lừa đảo nông
dân, áp bức công nhân, lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế đất nước một cách hết
sức dễ dàng. Gần đây nhất là vụ Tàu ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trong thềm
lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN mà Hà Nội vẫn không dám nhân cơ hội đó
kiện TQ ra trước tòa án quốc tế như Philippin đã làm.
Do
đó, đồn đoán của công luận về “đại họa mất nước năm 2020” do tay Tàu cộng và
Việt cộng là phần nào có cơ sở. Nó buộc mọi con Hồng cháu Lạc phải đứng lên
biểu tình rầm rộ, trước hết là đòi hỏi Ba Đình phải bạch hóa mọi chuyện ở Thành
Đô, bắt chúng lộ diện đầy đủ để hiện trọn vẹn nguyên hình, tiếp đó là khóa tay
bè lũ bán nước trước khi lũ cướp nước ập đến. Bằng không thì tiêu vong cả Dân
tộc. Cứ ngó thảm cảnh dân Tây Tạng và Tân Cương hiện thời thì biết.
BBT
Tự Do Ngôn Luận
số 201
No comments:
Post a Comment