Tiểu
thương, mưu sinh và phục vụ
Tạ Duy Anh
13/10/2025
https://baotiengdan.com/2025/10/13/tieu-thuong-muu-sinh-va-phuc-vu/
Tiểu
thương là tên gọi để chỉ những người buôn bán nhỏ. Trong số họ, nhiều người
không có cửa hàng cửa hiệu. Họ chủ yếu lấy công làm lãi, lấy chăm chỉ, chịu
thương chịu khó để nhặt từng đồng lẻ, rồi gom góp lại thành món.
Mặc
dù rất tần tảo, đa số cũng chỉ đủ sống và nuôi con cái ở mức bình thường. Về cơ
bản tiểu thương luôn là những tấm gương lao động thực thụ. Họ làm việc đầu tắt
mặt tối từ lúc nửa đêm, gà gáy, bất kể mưa to gió lớn, rét mướt hay nóng chảy mỡ.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/10/1-51.jpg
Ảnh
minh họa: Một người phụ nữ với chiếc xe chất đầy hàng hóa, đẩy đi bán trong cơn
mưa. Nguồn: TT&VH
Thời
kinh tế bao cấp, mọi thứ đều phân phối qua hệ thống các cửa hàng mậu dịch, thì
tiểu thương bị liệt vào thành phần kinh tế ngầm, không được công nhận chính thức,
vì thế cũng không có bất cứ sự bảo hộ pháp lý nào. Họ bị gọi miệt thị là con
buôn, bọn phe phẩy, những kẻ đầu chợ cuối chợ, làm ăn ngoài luồng… Thậm chí tiểu
thương thường cũng bị dán nhãn lừa đảo. Hàng hóa họ bán ra, hoặc mang từ tỉnh
này sang tỉnh khác, mà nếu không có nó thì nhiều người rất khổ sở, lại đều bị
coi là đồ “chui”, bất hợp pháp.
Tôi
nhớ không lầm thì người chiêu tuyết đầu tiên cho tiểu thương, đưa họ thoát khỏi
những năm dài trong bóng tối là cụ Nguyễn Văn Linh. Trong một bài báo khá dài
viết năm 1987 được nhiều báo đăng cùng lúc, mà tôi đọc khi đang trên chốt canh
địch ở Lào Cai, cụ Linh nói đại ý rằng chúng ta CŨNG phải đối xử công bằng với
bà con tiểu thương. Họ là những người thức khuya dậy sớm, rất vất vả, rất chăm
chỉ làm việc mới có được chút thu nhập, đều rất chính đáng, bằng lao động vất vả,
chứ chẳng bóc lột của ai.
Cụ
Linh lần đầu khẳng định, nhờ lực lượng tiểu thương mà hàng hóa thiết yếu được
lưu thông giữa nông thôn ra thành thị, giữa các vùng miền ngay cả khi Nhà nước
ngăn sông cấm chợ. Và điều đó phải được ghi nhận như một đóng góp lớn. Vì đọc
lâu rồi nên tôi nhớ có thể không chính xác từng câu từng chữ, nhưng ý của cụ
Nguyễn Văn Linh thì không thể nhầm, bởi lúc ấy nó quá mới mẻ và gây ấn tượng mạnh.
Bất
cứ ai sống qua thời cách đây hơn nửa thế kỷ đều biết đến hệ thống cửa hàng mậu
dịch. Nó là kênh phân phối hàng hóa chính thức và chủ đạo của nhà nước. Nhưng hầu
hết hàng hóa bày trong các cửa hàng lại đều chỉ để làm mẫu. Tức là trưng bày
cho biết, chứ không đủ để bán. Tuy thế, những cô mậu dịch viên, lãnh đạo ngành
thương nghiệp đều là những người có vị thế rất cao trong xã hội dù đa phần chỉ
hết cấp hai, học qua sơ cấp thương nghiệp. Nhà nào có con cháu, họ hàng, dâu rể
là nhân viên trong cửa hàng mậu dịch, thậm chí làm bảo vệ kho chứa hàng hóa,
cũng có thể coi như nhà đó thuộc đẳng cấp khác, mả tổ tiên táng vào chỗ hàm rồng!
Không biết bao nhiêu người sẽ tìm cách cầu cạnh, cầu thân, xin xỏ, móc ngoặc với
họ để mong có lúc nào đó được mua hàng ưu tiên, hoặc tuồn hàng ra ngoài bán giá
chợ đen ăn chênh lệch.
Mỗi
nhân viên bán hàng mậu dịch đều thực sự là những quý cô, quý cậu, quý bà cao trọng.
Họ ý thức rất rõ vị trí của mình trong xã hội và trong mắt mọi người. Họ tự cho
mình quyền vênh váo, đỏng đảnh, phách lối, kiêu căng. Thứ gì đẹp, thứ gì ngon,
thứ gì quý hiếm có trong cửa hàng, họ sẽ tìm cách mang về nhà đầu tiên, với giá
rẻ như cho không. Những giai thoại về mậu dịch viên thời đó đủ để có một mảng
văn thơ trào phúng đặc sắc.
Giờ
đây nghĩ lại, quả thực khó mà cười được. Bởi nó quá thê thảm, quá nhếch nhác
cho một thời vị thế, niềm may mắn được đo bằng những bát thịt vụn, những chai
nước mắm mặn chát cực kỳ nặng mùi.
Trong
khi đó tiểu thương thì ngược lại. Ngoài thức khuya dậy sớm, ngoài việc quanh
năm đầu tắt mặt tối như đã nói, thì cứ phải nịnh khách hàng như nịnh cha mẹ. Phải
ngọt nhạt với chủ hàng, với người vận chuyển, bốc dỡ. Đã thế phải lẩn trốn đủ
loại cán bộ nhà nước, từ công an, quản lý thị trường, đến nhân viên phòng thuế,
hoặc đôi khi chỉ là một cán bộ đã về hưu thích thể hiện lập trường tư tưởng! Thứ
gì tốt nhất, tươi nhất, thơm tho nhất, mới lạ nhất phải để bán lấy tiền. Những
thứ không bán được, héo úa, thừa ra, ế xưng ế xỉa hoặc ôi thiu mới dám dùng.
Nói
thế để thấy, được như bây giờ, chúng ta đã đi một đoạn dài trong việc tiến tới
nền thương mại hiện đại, văn minh và công bằng. Hệ thống mậu dịch cũ kỹ, lạc hậu,
trì trệ và phản quy luật biến mất như một tất yếu khách quan, như một niềm may
mắn, nhường lại thị trường tiêu dùng, nhường lại việc lưu chuyển hàng hóa cho
tư nhân, trong đó lực lượng buôn thúng bán mẹt, phe phẩy chạy chợ xưa kia đóng
vai trò hàng đầu. Họ vô cùng nhạy bén và linh hoạt. Thị trường cần gì, sắp cần
gì, khả năng cung cầu trong tương lai…họ đều nắm chắc.
Ngày
nay họ được gọi chung là tiểu thương, được tôn trọng như mọi thành phần xã hội
khác. Từ chỗ tìm cách xua đuổi, bài xích, dị nghị… giờ đây xã hội không thể thiếu
họ, dù chỉ một ngày một giờ. Lực lượng buôn bán nhỏ-tiểu thương này hình thành
nên một mạng lưới phân phối, lưu thông dày đặc, đến mọi hang cùng ngõ hẻm, thậm
chí đến tận từng ngõ, từng nhà.
Trên
thực tế, chính họ là những người đầu tiên mang văn minh thương mại vào đời sống.
Bởi muốn tồn tại, muốn bán được hàng, muốn ăn nên làm ra thì việc đầu tiên phải
giữ chữ tín, phải chấp nhận cạnh tranh lành mạnh, phải tìm cách hạ chi phí đầu
vào để hàng hóa rẻ nhất khi đến tay người tiêu dùng. Hơn thế, mạng lưới tiểu
thương còn góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu, hàng chục triệu
nhân lực đủ mọi tầng lớp. Đầu tiên là người trong gia đình. Rồi đến những nhân
công được họ thuê mướn, làm những việc đơn giản như đóng gói, ghi nhãn, vận
chuyển, sơ chế…
Hiện
chúng ta có khoảng năm triệu hộ kinh doanh. Nếu chỉ thấy đó là năm triệu hộ tiểu
thương chủ yếu lo kiếm tiền nuôi gia đình, sẽ không thấy hết vai trò to lớn và
quan trọng của họ với nền kinh tế và với những tiến bộ xã hội. Đã thấy sự sốt
ruột từ đâu đó, từ cá nhân nào đó muốn kiểm soát thu nhập của lực lượng này,
yêu cầu họ làm nghĩa vụ nhiều hơn. Trước sau chuyện đó cũng phải xảy ra. Đưa đội
quân tiểu thương đông đảo và đa dạng ấy vào khuôn khổ luật pháp trong kinh
doanh là điều đúng đắn và công bằng. Ở đâu thì công dân cũng không thể chỉ biết
mưu lợi riêng mà không nghĩ đến nghĩa vụ với cộng đồng. Ai đó chỉ nghĩ chuyện lợi
dụng, là thiếu đạo đức, còn lẩn trốn nghĩa vụ đương nhiên là phi pháp.
Nhưng
giữa việc thu ngay được chút tiền nóng cho ngân sách và số tiền phải chi ra để
giải quyết gánh nặng an sinh cho hàng chục triệu người, là bài toán không thể cứ
có đáp số là xong. Nhiều khi tất cả các việc làm, các tính toán đều hợp lý,
nhưng lại cho ra kết quả vô lý. Bởi vì trên thực tế, có những vận hành xã hội vốn
đang chi phối đời sống rất nhịp nhàng, lại được hình thành nên từ những điều
trái khoáy.
Đất
nước của chúng ta, sau bao nhiêu thay đổi trong tranh tối tranh sáng, có vẻ vẫn
chưa thoát hẳn tình trạng tréo ngoe ấy. Xin đừng ai hoảng hốt. Bởi khi người
dân thiết tha với chuyện làm ăn, làm giầu, thì dù còn chút lộn xộn và chưa thật
công bằng, cũng luôn báo hiệu điềm lành. Việc quản lý theo pháp luật, dù ở ta
hay ở Tây, thì về nguyên tắc là duy lý, là thẳng băng. Nhưng nếu ở Tây chuyện
đó chẳng có gì phải lăn tăn vì hệ thống điều hành xã hội của họ đã ổn định, thì
ở ta, hóa ra cũng vẫn cần phải tính đến các yếu tố lịch sử hoặc truyền thống
sinh nhai.
Yếu
tố lịch sử ở đây chính là tiểu thương từng bị “bách hại” theo một nghĩa nào đó,
chẳng hạn họ bị cấm đoán, khinh miệt, bài xích, ngăn cản phát triển trong một
quá khứ dài. Nói khác đi, họ từng bị đẩy vào, phải tồn tại trong bóng tối quá
lâu. Việc thích nghi với ánh sáng cần có thời gian. Yếu tố lịch sử còn là chúng
ta mới chỉ bước qua thực tế đói cơm rách áo chưa lâu mà lỗi không phải do người
dân thiếu cần cù, thiếu quyết tâm. Nếu người dân của chúng ta không cần cù,
không chịu khó chịu khổ, thì mọi sự còn thê thảm hơn nhiều trước khi đất nước
bước vào thời Đổi mới!
Còn
vì sao phải tính thêm cả yếu tố truyền thống sinh nhai thì ai cũng biết: Người
Việt thuộc sắc dân chắt bóp, tiết kiệm, chăm lo cho tương lai nằm trong tốp
hàng đầu khu vực và thế giới. Đây là đặc tính quý báu, hơn mọi tiền bạc. Thấy họ
có chút để dành, đừng vội sáng mắt lên tính xem có thể lấy ra từ túi họ được
bao nhiêu. Mà trước hết phải nghĩ ngay đến việc họ từng chấp nhận kham khổ qua
bao nhiêu năm tháng mới tích lại được chút của nả! Ai trả giá cho nỗi khổ hà tằn
hà tiện của họ?
Và
với một nhà nước khôn ngoan, thì không bao giờ chỉ nhìn thấy tiền trong túi người
dân, mà phải thấy trong đó tương lai, hy vọng mà họ đang ấp ủ tạo ra bằng số tiền
đó. Nó cũng là, hoặc đang tạo ra sức mạnh dân tộc, thứ vốn liếng quan trọng nhất
– chứ không phải vàng hay ngoại tệ, nhà đất – để đất nước vươn mình.
Xin
đừng chỉ coi tiểu thương là những người kiếm tiền bằng buôn bán, mà hãy coi họ
là những người làm dịch vụ, những người phục vụ tận tình, chu đáo không thể thiếu.
Đừng chỉ thấy họ mưu sinh cá nhân, mà phải thấy họ đang đóng góp quan trọng cho
tăng trưởng xã hội.
Khi
đó, chắc chắn mọi toan tính sẽ khác: Thông minh và nhân văn hơn nhiều.
No comments:
Post a Comment