Minh
oan cho Hồ Duy Hải không phụ thuộc vào việc tìm ra được người nào là thủ phạm
Ngô Ngọc Trai
13/10/2025
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/10/HDH.jpg
Bà
Nguyễn Thị Loan, mẹ của tử tù Hồ Duy Hải và LS Ngô Ngọc Trai. Nguồn: Ngô Ngọc
Trai
Một điều cần được làm rõ xung quanh vụ án Hồ
Duy Hải đó là nhiều người nghĩ rằng phải tìm ra được hung thủ thật sự thì mới
mong được minh oan, đây là nhận thức sai nhưng dễ khiến nhiều người tán đồng.
Đầu
tiên mọi người có thể hình dung về việc giải quyết một vụ án hình sự như sau,
khi một vụ án mạng xảy ra thì sẽ có một người hoặc một số người thuộc diện tình
nghi bị điều tra, những người này sẽ bị áp dụng một số biện pháp điều tra được
luật định.
Đơn
giản thì sẽ bị triệu tập thẩm vấn lấy lời khai, nghiêm trọng hơn thì sẽ bị áp dụng
biện pháp ngăn chặn bắt giam giữ, sau một quá trình thời hạn điều tra theo luật
định nếu không chứng minh được người này đã thực hiện hành vi phạm tội thì khi
đó cơ quan tố tụng sẽ phải đình chỉ điều tra đối với người này đồng nghĩa với
việc kết luận họ không phải là thủ phạm.
Nếu
trước đó đã bắt giam giữ thì phải trả tự do và bồi thường, đó là quy trình thủ
tục tố tụng hình sự mà Việt Nam và các nước đều quy định.
Trong
trường hợp nghi phạm được đưa ra tòa xét xử và bị kết án có tội, sau đấy theo
những quy trình thủ tục tư pháp ở những cấp xét xử tiếp theo mà hội đồng người
ta đưa ra nhận định đánh giá lại không đủ cơ sở căn cứ để kết tội người này, ví
như cấp phúc thẩm thay đổi phán quyết của cấp sơ thẩm.
Hoặc
cấp giám đốc thẩm thay đổi những phán quyết của cấp trước đó, thì khi đó phải
trả tự do mình oan và xin lỗi công khai bồi thường đối với người này, đó là quy
trình của tố tụng hiện nay mà ở Việt Nam hay các nước cũng đều thế.
Trong
những trường hợp như vậy khi không đủ cơ sở căn cứ đánh giá kết tội một người
thì phải xác định người ta không có tội, việc này hoàn toàn không phụ thuộc vào
việc đã bắt được thủ phạm đúng hay chưa.
Điều
đó thực tế là đã được luật hóa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tại điều
13 về suy đoán vô tội như sau: “Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để
buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có
tội”.
Đó
là nguyên lý tư pháp đúng đắn, trong thực tế do ít phổ biến cho nên nhiều người
đã không nhìn ra nguyên tắc này. Ngoài ra thực tế qua một số vụ án chỉ thấy khi
người ta bắt được thủ phạm thực sự thì mới biết rằng người đã bị kết án là oan
sai cho nên phải trả tự do và xin lỗi, ví như các vụ án của các ông Nguyễn
Thành Chấn hay Huỳnh Văn Nén.
Nhưng
cũng có những vụ việc không tìm ra được thủ phạm mà vẫn minh oan ví như vụ án của
ông Hàn Đức Long.
Vụ
án của tử tù Hàn Đức Long là thuộc trường hợp minh oan trả tự do trong bối cảnh
chưa tìm ra được thủ phạm, trong cuốn sách viết về hành trình minh oan cho tử
tù đã chia sẻ rằng vụ án này có ý nghĩa lớn giúp thay đổi quan điểm nhận thức
lâu nay rằng cứ phải tìm ra được thủ phạm chính thì mới minh oan cho người bị
oan sai.
Đối
với những vụ án của các ông Chấn hay ông Nén thì đều đã tìm ra thủ phạm, điều
này đã đem lại sự thỏa mãn về công lý trọn vẹn cho cộng đồng xã hội, nhưng vụ
án của ông Long mới mang ý nghĩa quan trọng hơn nhiều cho cộng đồng trong mục
đích thực thi nguyên tắc pháp lý bảo hộ quyền công dân.
Việc
phải tìm ra được thủ phạm đúng không nên tròng vào cổ của những người bị oan
sai, họ không nên bị ràng buộc vào thứ trách nhiệm vô cùng khó khăn phức tạp
như là việc tìm ra được thủ phạm đúng của vụ án.
Để
hình dung ra được mức độ quan trọng của nguyên tắc pháp lý này mọi người hãy thử
hình dung rằng bản thân bị dính dáng liên đới điều tra trong một vụ án hình sự
mà không hề thực hiện.
Nếu
cứ phải chờ đợi người ta tìm ra được thủ phạm thực sự thì mới minh oan được cho
mình thì đó là cả một sự bất công và lo lắng khủng khiếp, trong khi mọi người sẽ
cảm thấy yên tâm an toàn hơn nhiều nếu như sau quá trình điều tra không chứng
minh được mình là thủ phạm thì người ta sẽ phải xác định bản thân là người
không phạm tội.
Trong
hồ sơ vụ án hình sự thì có khi cùng một chứng cứ vừa cho thấy người này bị oan
nhưng đồng thời chứng cứ đó cho thấy người kia mới là thủ phạm, ví như lời khai
mới của nhân chứng hoặc kết quả giám định ADN so sánh giữa những người liên
quan.
Nhưng
bên cạnh đó thì lại cũng có rất nhiều hồ sơ vụ án chỉ có chứng cứ cho thấy một
người không phải là thủ phạm song cũng không rõ kẻ gây án là ai, khi đó việc cần
phải làm ngay là loại người bị tình nghi ra khỏi quá trình điều tra.
Đó
thực ra cũng là một phần của kết quả điều tra. Bởi mọi người hình dung rằng
trong một vụ án mạng, thủ phạm chỉ có một, trong khi những người bị tình nghi
thì có nhiều, quá trình điều tra sẽ dần dần làm rõ và có nhiều chứng cứ cho thấy
sự ngoài phạm của đa số người tình nghi, họ sẽ được bỏ dần trong quá trình điều
tra.
Trong
vụ án Bưu điện Cầu Voi, chứng cứ cho thấy Hải không phải là thủ phạm là việc dấu
vân tay của Hải không trùng khớp với dấu vân tay thu được ở hiện trường, đúng
ra thì Hải phải được xác định không liên quan và được loại bỏ như nhiều người
tình nghi khác cũng đã giám định đối chiếu dấu vân tay trước đó.
Trong
bài viết mới đây tôi đã viết bằng chứng vô tội của Hồ Duy Hải đã có sẵn trong hồ
sơ vụ án, đó là kết quả giám định dấu vân tay không trùng khớp và chứng cứ về lời
khai ban đầu của Hồ Duy Hải khai rằng mình không phải thủ phạm gây án. Với các
chứng cứ như vậy là đủ để áp dụng theo nội dung quy định tại điều 13 về suy
đoán vô tội.
No comments:
Post a Comment