04/10/2025
https://vietbao.com/a323455/bolero-va-tan-man-nhac-vang
1.
Vũ điệu bolero ở Tây Ban Nha
Trong
vòng nhiều thập niên, đã có một sự nhầm lẫn về nguồn gốc bolero. Tuy có cùng một
tên gọi, nhưng chữ bolero lại thể hiện nhiều điều khác hẳn nhau.
Chữ bolero bắt nguồn là một vũ điệu truyền thống của Tây Ban Nha, khai sinh vào
cuối thế kỷ 18. Còn tại Cuba, bolero là một trường phái âm nhạc ra đời vào cuối
thế kỷ 19. Một bên là vũ điệu của vương triều Tây Ban Nha; còn bên kia là dòng
nhạc dân gian đến từ Cuba.
Tại Tây Ban Nha, người đầu tiên định hình bolero như một điệu vũ hàn lâm là vũ
sư Sebastián Lorenzo Cerezo. Nhờ Sebastián Lorenzo Cerezo mà vũ điệu bolero trở
nên thịnh hành dưới triều vua Charles đệ tam (trị vì từ năm 1759 đến 1788).
Theo các nhà nghiên cứu, về mặt ngữ vựng, bolero có lẽ xuất phát từ chữ
“volero”, biệt danh của vũ sư Tây Ban Nha do mỗi lần biểu diễn các điệu nhảy,
ông thường lả lướt tung bay như thể gót chân tha thướt nhẹ nhàng không bao giờ
chạm đất. Vũ điệu hàn lâm theo nghi thức truyền thống của Tây Ban Nha, nói cho
chính xác thì người ta nhảy điệu rumba trên nền nhạc bolero.
Bất cứ điệu vũ nào cũng cần có tiếng nhạc. Người đầu tiên sáng tác nhạc cho vũ
điệu hàn lâm bolero là nghệ sĩ tây ban cầm cổ điển Fernando Ferandiere
(1740-1816), mở đường sau này cho tác giả Manuel de Falla (1876-1946), một
trong bốn gương mặt Tứ Quý của làng nhạc Tây Ban Nha. Lối sáng tác này sau đó gợi
hứng cho nhiều nhà soạn nhạc cổ điển, điển hình là Frederic Chopin (1810-1849)
hay Maurice Ravel (1875-1937), cho dù các tác phẩm của họ dù mang tên là
‘’bolero’’ nhưng cũng chẳng ăn nhập gì với điệu nhạc bolero mà ta thường nghe
thời nay.
2.
Dòng nhạc bolero ở Cuba
Nhạc
Bolero sản sinh tại Cuba chính là những điệu nhạc mà ta thường nghe thấy hiện
nay. Nếu xét đơn thuần về thể loại âm nhạc, thì trường phái bolero nẩy sinh từ
Cuba vào cuối thế kỷ 19 và hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng nó có cùng một
cội nguồn với điệu nhạc trova, một thể loại ‘‘du ca’’ của Tây Ban
Nha. Cha đẻ của dòng nhạc bolero Cubano là nhạc sĩ đàn guitar José Sánchez
(1856 – 1918), mà nhiều người gọi một cách thân mật là Pepe Sánchez.
Sinh trưởng tại Santiago de Cuba, José Pepe Sánchez xuất thân từ một gia đình
nghèo, không được cho ăn học tới nơi tới chốn, cho nên ông chọn học nghề thợ
may. Nhờ có năng khiếu âm nhạc và lỗ tai rất thính, ông tự học nhạc bằng cách
mò mẫm chơi đàn, ông sáng tác rất nhiều ca khúc nhưng tất cả đều là chơi thuộc
lòng, chứ không có bài nào được ghi chép một cách bài bản. Chính cũng vì vậy mà
sau ngày ông qua đời, có rất nhiều bài hát bị lãng quên, do không được lưu trữ
qua văn bản.
Theo nhà nghiên cứu Luis Antonio trong quyển sách nói về lịch sử của dòng nhạc
bolero tại Cuba (Historia del bolero cubano), bản nhạc bolero đầu tiên
trên thế giới ra đời vào năm 1883 do chính José Pepe Sánchez sáng tác mang
tựa đề ‘’Me Entristeces, Mujer’’ mà sau này người ta thường hay gọi một
cách ngắn gọn là ‘’Tristezas’’ (Những nỗi buồn).
Khai sinh từ Cuba, dòng nhạc bolero sau đó đã nhanh chóng lan tỏa ra nước ngoài
và bén rễ tại các quốc gia Nam Mỹ và ở vùng biển Caribean, tiêu biểu nhất là
Puerto Rico. Riêng tại Mexico, dòng nhạc bolero chính thức ra đời vào đầu những
năm 1920, thời mà các tác giả Trung Mỹ lao vào phong trào sáng tác theo thể điệu
này. Bản nhạc bolero đầu tiên nổi tiếng trên khắp Nam Mỹ là bài “Lágrimas
Negras” do nhạc sĩ Miguel Matamoros sáng tác vào năm 1929. Bản thứ nhì là bài
“El Manisero”, ghi âm vào năm 1930, cả hai bài này phá kỷ lục số bán với hơn một
triệu bản.
3.
Dòng nhạc bolero Việt Nam
Tại Việt
Nam, dòng nhạc boléro du nhập vào miền Nam Việt Nam vào khoảng thập
niên 1950, lúc phong trào tân nhạc Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ;
nhiều nhạc sĩ bắt đầu sử dụng nhạc điệu phương Tây thay cho nhạc điệu phương
Đông truyền thống. Bolero bao gồm nhiều giai điệu như: Rumba, Chachacha,
Valsedanza, habanera, trova, son…Một vài đặc điểm của nhạc bolero ở Việt Nam:
-Những giai điệu bolero Việt Nam pha lẫn chất ngũ cung và cả dân ca của vùng
sông nước Nam Bộ. Nhưng đồng thời, nhạc Bolero vẫn giữ nguyên sự nhẹ nhàng, lắng
đọng trong ca từ.
-Vì giai điệu nhẹ nhàng, ca từ bình dị, nội dung dễ hiểu nên nhạc bolero dễ
dàng tiến nhập trái tim của con người, đáp ứng nhu cầu tinh thần của đông đảo
quần chúng lao động. Nhạc bolero không hề mang tính trừu tượng và cần có kiến
thức về âm nhạc sâu rộng mới có thể hiểu được như một số thể loại nhạc bác học
khác.
-Một đặc điểm quan trọng và không thể thiếu ở bolero chính là tính buồn đặc
trưng trong bài hát. Những ca khúc bolero dù hát về chủ đề nào cũng mang đến
cho người nghe một chút buồn. Một chút tiếc thương, một chút đồng cảm cho những
câu chuyện đời, chuyện người trong bài hát.
Không có tài liệu nào cho biết chính xác bài đầu tiên dòng nhạc bolero là bài
nào. Tuy nhiên, theo nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển cho rằng bài
hát Duyên quê (Chachacha) của Hoàng Thi Thơ có thể là bài đầu
tiên. Trong khi đó, nhà nghiên cứu Trần Thị Vĩnh Tường lại cho rằng bài bolero
đầu tiên ở Việt Nam là bài Xóm đêm (Rhumba) của Phạm Đình
Chương. Nhưng theo nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 : "Người đầu tiên viết
ra bolero là Lam Phương với Kiếp Nghèo (Tango) và Chuyến Đò Vĩ Tuyến
(Rhumba) rồi đến các bài hát của nhạc sĩ Trúc Phương”.
Từ thập niên 1960 đến thập niên 1970 là những năm đỉnh cao của giai điệu này.
Lúc đó rộ lên phong trào "Thời trang nhạc tuyển" mà những bài nhạc
boléro được được thâu vào băng cassette hoặc đĩa nhựa phát hành rộng rãi. Một số
ca khúc tiêu biểu là Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh phổ thơ Hữu
Loan), Tàu đêm năm cũ, Nửa đêm ngoài phố (Trúc
Phương), Thành phố sau lưng (Hàn Châu), Về đâu mái tóc người
thương (Hoài Linh), Xuân này con không về (Trịnh Lâm
Ngân), Đêm buồn tỉnh lẻ (Bằng Giang - Tú Nhi), Vòng nhẫn cưới, Đêm
lang thang, Không giờ rồi (Vinh Sử), Hoa sứ nhà nàng của Hoàng
Phương...
Như chúng ta đã biết, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, toàn bộ nền văn hóa nghệ
thuật miền Nam bị lên án là “độc hại” và “cần xóa bỏ” bởi đảng cầm quyền cộng sản
VN:
Trong
“toàn bộ nền văn hóa nghệ thuật” đó, âm nhạc miền Nam trước 1975 được cán bộ
văn hóa cộng sản gọi là “nhạc vàng”. Hai chữ “nhạc vàng” phát xuất từ đâu? Và
được nhà cầm quyền CSVN dùng để bức tử nền âm nhạc trữ tình, nhân bản của miền
Nam VNCH như thế nào? Người đề xuất từ ngữ và sự phân loại “nhạc vàng” này là
nhạc sĩ Phạm Tuyên (PT), từng là chủ tịch hội âm nhạc Hà Nội, ban chấp hành hội
nhạc sĩ VN của chính quyền CSVN. Đề xuất của PTđã được chính thức sử dụng theo
chỉ thị của nhạc sĩ Trần Hoàn, bộ trưởng thông tin văn hóa nước CHXHCNVN. Theo
đó, âm nhạc miền Nam Việt Nam (VNCH) trước 1975 được gọi là "nhạc
vàng" (bao gồm cả bolero) tượng trưng cho sự“vàng úa”,“ru ngủ”, "đồi
truỵ", "ủy mỵ" và "phản động”... Chắc chúng ta không quên,
ngay sau ngày 30 tháng 4, 1975 chính quyền CSVN đã áp dụng chính sách “cách mạng
văn hóa” rập khuôn của Trung Cộng (Mao Trạch Đông) nhằm tiêu hủy toàn bộ nền
văn hóa (bao gồm âm nhạc) của miền Nam VNCH. Hàng trăm văn nghệ sĩ bị học tập cải
tạo, vào tù… vì là tác giả của những tác phẩm văn học nghệ thuật trữ tình và
nhân bản này.
Tại
sao nền“nhạc vàng” một thời “ủy mị”, “đồi trụy”, “phản động”... nói trên sống lại
mạnh mẽ, rầm rộ từ Bắc chí Nam trong những năm gần đây? Từ “phản động” trở
thành “trữ tình”? Từ “đồi trụy” trở thành “nhân bản” bất ngờ? Nếu không có sự đồng
ý của đảng và nhà nước CSVN, thì liệu dòng “nhạc vàng” có tự nhiên phục hồi do
nhu cầu âm nhạc của quần chúng? Chắc chắn là không! Phải chăng sau 50 năm, nhà
nước CSVN mới nhận ra cái “nghèo nàn”, “cứng ngắt”, “vô hồn” của văn học nghệ
thuật, nhất là lãnh vực âm nhạc? Hay đảng lãnh đạo CSVN đã nhìn thấy giá trị và
muốn bảo tồn và phát huy dòng “nhạc vàng” một thời bị lên án đó? Chắc chắn là
không!
Văn
học nghệ thuật bao gồm cả âm nhạc là nền tảng văn hóa của một dân tộc. Giá trị
văn học nghệ thuật của một dân tộc được đánh giá, bảo tồn bởi chính nhân dân và
lịch sử của đất nước, không phải của đảng cầm quyền. Những ồn ào, xu hướng và
thổi phồng một trào lưu văn nghệ chỉ mang tính “thời sự”, nhất thời và sẽ bị
đào thải trong tương lai. Những ca khúc “nhạc vàng bolero" trữ tình, nhân
bản được người Việt trong và ngoài nước, chuyên nghiệp hay yêu ca hát; trên sân
khấu lộng lẫy và ngoài đường phố bụi bay; ở bất cứ lứa tuổi nào, bất cứ hoàn cảnh
nào đang góp phần cất cao tiếng hát hôm nay, ngày mai và mãi những mai này. Họ
hát cho những người biết trân trọng, yêu quý nền âm nhạc trữ tình, đầy tính
nhân bản vốn có của dân tộc chúng ta. Với nền khoa học công nghệ thông tin hiện
đại, thế hệ trẻ Việt Nam không còn bị bưng bít bởi nhà cầm quyền CSVN như trước
nữa. Họ sẽ dễ dàng tìm hiểu những bài hát mang giá trị nghệ thuật đó phát xuất
từ đâu, do ai sáng tác và trong giai đoạn lịch sử nào của đất nước.
Cám ơn các bạn đã cùng tôi “lang thang” với bolero, tản mạn với “nhạc vàng” hôm
nay. Tôi xin mượn câu nói của nhà soạn nhạc lừng danh người Ý, Gioachino
Rossini nói về ngôn ngữ âm nhạc để khép lại bài viết: “Ngôn ngữ của âm nhạc
là ngôn ngữ chung của tất cả mọi thế hệ và mọi dân tộc; ai cũng hiểu được nó, bởi
nó được hiểu bằng trái tim”.
Niệm Từ
No comments:
Post a Comment