Tại sao quân đội Mỹ
và VNCH suýt bắn nhau tan nát vào giờ chót?
Nguyễn Tiến Hưng
Gửi
cho BBC Tiếng Việt từ Virginia, Hoa Kỳ
22
tháng 4 2024
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c2lweezedzno
Tiến
sĩ Nguyễn Tiến Hưng viết về những bí ẩn do chính Đại sứ Graham Martin kể lại về
khả năng quân đội Mỹ - VNCH suýt chạm súng và Sài Gòn đã tan nát khi Mỹ tìm đường
tháo chạy.
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/800/cpsprodpb/b3d0/live/f486bc80-004c-11ef-97f7-e98b193ef1b8.jpg
Đám
đông tìm cách leo vào Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn trong thời khắc cuối cùng của
Chiến tranh Việt Nam
Bốn
hàng không mẫu hạm: Hancock, Coral Sea, Midway và Enterprise đã tập hợp lại
thành một hạm đội ở ngoài khơi Việt Nam để sẵn sàng ứng chiến nếu quân đội VNCH
quay súng bắn vào những địa điểm di tản của người Mỹ.
Nghe
như câu chuyện tiểu thuyết, ấy thế mà nó đã thực sự xảy ra vào lúc người Mỹ rục
rịch tháo chạy khỏi Việt Nam.
Nội
trong hai tuần cuối tháng Tư năm 1975, đang khi đi công tác tại Washington,
chúng tôi đã choáng váng khi đọc những tin tức về khả năng này trên các tạp
chí Time, Newsweek.
Với
tựa đề Kế hoạch cho việc Di tản Cuối cùng (Planning for the
Last Exodus), tờ Time (21/4/1975) tiết lộ: "Có một khả năng ác liệt
khác là quân đội miền Nam Việt Nam sẽ quay súng bắn vào phi trường Tân Sơn Nhứt,
vào phía Tân Cảng (cảng Newport), hay bắn vào chính cả cái bãi đáp trực thăng
trên nóc tòa Đại sứ Mỹ nữa, nếu những người Mỹ rục rịch di tản… Một đơn vị
2.200 lính Thủy quân Lục chiến đã được huy động tới bốn mẫu hạm này và những
tàu hộ tống khác. Nếu cần, quân đội Mỹ có thể được không vận vào Sài Gòn, bắn
phá mở đường đến một địa điểm an toàn, rồi chở đoàn người di tản bằng trực
thăng tới các chiến hạm ngoài khơi.”
Hóa
ra, vào lúc cuốn lều trước khi bão tố ập tới, Washington đã hoảng loạn. Không
phải lo bị quân đội Bắc Việt tấn công mà là lo vì có thể sẽ phải chạm súng với
chính quân đội VNCH!
Ôi
chao, sao lại có thể ê chề đến như vậy? Mà cũng chưa thấy cuốn phim nào về Chiến
tranh Việt Nam - kể cả The Vietnam War (Chiến tranh Việt
Nam) của Ken Burns và Lynn Novick hay Last Days in Vietnam (Những
ngày cuối ở Việt Nam) của Rory Kennedy nói tới biến cố này.
Kế
hoạch Talon Vise
Mười
năm sau sụp đổ, ông Graham Martin, đại sứ Mỹ cuối cùng ở Sài Gòn, đã kể lại với
chúng tôi chi tiết về những gì ông đã chứng kiến và hành động vào lúc bi kịch
Miền Nam sắp hạ màn: "Lúc đó đã có biết bao nhiêu kế hoạch điên rồ được
mang ra. Tôi phải cố gắng ngăn chặn lại. Suýt nữa thì hoàn toàn đổ vỡ, chẳng ai
đi được mà còn có thể gây ra thảm họa lớn!"
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/624/cpsprodpb/7ea8/live/4f8cc670-f33b-11ee-8369-47dc4454b972.jpg
NGUỒN
HÌNH ẢNH,NEWSWEEK NGÀY 28/4/1075
Chụp
lại hình ảnh,Hành lang tháo chạy từ trung tâm Sài Gòn tới Vũng Tàu
Kế
hoạch di tản có mật hiệu là Talon Vise được hai tạp chí Time và Newsweek dành
nhiều trang để bình luận. Lựa chọn thứ nhất là di tản 6.000 người Mỹ và một số
nhỏ người Việt bằng máy bay lớn cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất, yểm trợ bằng
quân lực Mỹ.
Đúc
kết các tin tức liên hệ trong hai tuần cuối tháng 4/1975 thì ta thấy kế hoạch
tháo chạy gồm bảy động thái:
Tập
hợp một số chiến hạm gồm 4 hàng không mẫu hạm cỡ lớn và một mẫu hạm chở trực
thăng ở sát hải phận Việt Nam.
Huy
động từ 3 tới 6 sư đoàn Thủy quân Lục chiến (TQLC) Mỹ để thiết lập “một hành
lang di tản”.
Trực
thăng chở 6.000 người Mỹ (và một số người Việt có “rủi ro cao độ”) từ trung tâm
Sài Gòn ra Tân Sơn Nhứt.
TQLC
bay vào bao vây phi trường Tân Sơn Nhứt để bảo đảm an toàn.
Máy
bay phản lực của Mỹ bao phủ vòm trời từ Sài Gòn ra Vũng Tàu.
TQLC
Mỹ bảo vệ Vũng Tàu.
Từ
Vũng Tàu, máy bay chở người di tản tới phi cảng Clark ở Philippines.
Tờ Newsweek ngày
21/4/1975 còn trích dẫn tiết lộ của một một viên chức cấp cao ở Ngũ Giác Đài giải
thích tại sao lại cần tới 6 sư đoàn: "Phải chiếm phi trường Tân Sơn Nhứt
để máy bay và trực thăng đáp, chỉ việc này không thôi cũng đã cần 3 sư đoàn. Rồi
cần giữ an ninh ngoài cảng cho tàu cập bến, nên lại cần thêm ba sư đoàn nữa."
Mỹ
lo sợ phải bắn nhau với quân đội VNCH
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/800/cpsprodpb/ef8c/live/c686a790-004d-11ef-a9f7-4d961743aa47.jpg
NGUỒN
HÌNH ẢNH,NIK WHEELER/CORBIS/GETTY IMAGES
Chụp
lại hình ảnh,Người Mỹ lên một chiếc trực thăng bên trong Đại sứ quán Mỹ tại Sài
Gòn để di tản
Mùa
Hè 1985, chúng tôi và Jerrold Schecter (nguyên chủ bút ngoại giao của tạp
chí Time) lái xe xuống North Carolina để thăm hỏi và nghe ông
Martin tâm sự về thảm họa đã có thể xảy ra ở Sài Gòn. Khả năng 6.000 người Mỹ
có thể bị kẹt do tình trạng hỗn loạn làm tắc nghẽn giao thông là một tình huống
đã làm cho ông lo nghĩ nhiều nhất. Ông đã mất ngủ từ khi trông thấy cảnh rút
lui thê thảm khỏi Pleiku, rồi tới tình trạng rối loạn ở phi trường Đà Nẵng, Nha
Trang: dân chúng tràn ngập đường phố để tìm lối thoát, rồi tới tình trạng rối
ren ở phi trường. Máy bay không đáp xuống được nữa khi các phi đạo bị tắc nghẽn.
Sau
sụp đổ, ngày 27/1/1976, trong một buổi điều trần tại Hạ Viện Mỹ về cuộc di tản,
ông Martin đã nói tới nỗi lo lắng của ông về sự phản bội trắng trợn của Mỹ và hậu
quả của nó là số người Mỹ còn lại và một số nhỏ người Việt được chọn không thể
rời Sài Gòn. Trong trường hợp đó, quân lực Mỹ sẽ phải bay vào can thiệp, dẫn tới
khả năng đụng độ giữa hai quân đội Mỹ và VNCH. Đó là một tình huống ê chề nhất,
mà lại vào giờ chót:
"Tôi
cho rằng mang quân đội Mỹ vào là một sai lầm lớn, vì, thưa quý vị, nếu quý vị đứng
vào hoàn cảnh của người Việt Nam thì quý vị sẽ phản ứng như thế nào?"
Khi
bị chất vấn là tại sao ông không yêu cầu Tổng thống Gerald Ford cho di tản trước
ngày 29/4/1975 (ngày Tân Sơn Nhứt bị pháo kích), ông Martin trả lời:
"Không,
vì theo đánh giá kỹ nhất của tôi, nếu làm sớm hơn sẽ có nguy cơ là xảy ra một
tình trạng hỗn loạn với kết quả là một số rất đông người Mỹ sẽ chết. Nó sẽ đưa
tới một sự khủng khiếp nặng nề nhất, đó là nhu cầu phải đưa quá nhiều quân lực
Mỹ vào, và chúng ta sẽ phải chiến đấu với quân đội Miền Nam để mở đường tháo chạy."
Ngày
nay ta mới hiểu hết được tâm tư của Đại sứ Martin. Ta thử tưởng tượng: Nếu Mỹ
đem từ 3 tới 6 sư đoàn vào để chỉ di tản người Mỹ và bà con, trước hết là TQLC
chiếm đóng phi trường Tân Sơn Nhứt, rồi Tòa Đại sứ Mỹ; sau đó, trực thăng và từng
đoàn xe Mỹ chở người tới phi trường. Và cũng như vậy, di tản từ các địa điểm
khác như Biên Hòa, Cần Thơ. Khi thấy sự phản bội quá lộ liễu như thế, liệu các
đơn vị quân đội, cảnh sát, nghĩa quân, địa phương quân, dân chúng VNCH có để
yên hay không?
Trong
cuốn phim Last days in Vietnam, ông Martin bị chỉ trích rất nặng nề là đã không
cho phép nhân viên tòa đại sứ, CIA, v.v. tổ chức di tản người Mỹ sớm nhất có thể
và cứ kéo dài thời gian di tản. Bây giờ thì ta mới hiểu được là tại sao như vậy.
Nếu ông Martin cuốn gói ra đi theo lệnh ngày 17/4/1975 của Ngoại trưởng Henry
Kissinger thì tình hình đã như thế nào? Và bao nhiêu người Việt được di tản?
Trong
mật điện rất dài trả lời Kissinger ngay đêm hôm ấy (17/4/1975), ông Martin đã cố
gắng thuyết phục:
"Lệnh
di tản người Mỹ đột ngột có thể gây bạo động ở Sài Gòn. Nếu không giữ bình tĩnh
mà lại đưa Thủy quân Lục chiến vào đây thì có thể gây ra sự nổi giận không thể
lường được…"
Rồi
ông nhấn mạnh thêm:
"Tôi
nhắc lại một lần nữa là sẽ có náo động lớn nếu điều quân đội Mỹ vào Sài Gòn,
ngoại trừ một số ít và không quá lộ liễu."
"Tất
cả những tin tức lặt vặt nhận được về phản ứng (của phía Miền Nam) đều xác định
đây là điều ta không nên làm…"
Ông
Martin đã nhận được những tin tức như thế nào?
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/800/cpsprodpb/1777/live/5624bf80-004f-11ef-8369-47dc4454b972.jpg
NGUỒN
HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES
Chụp
lại hình ảnh,Đại sứ Mỹ Graham Martin trả lời báo chí trên tàu USS Blue Ridge ở
Biển Đông sau khi rời khỏi Sài Gòn
Trong
cùng một mật điện, ông báo động :
"Người
Việt Nam sẽ cho rằng Hoa Kỳ mang TQLC vào để di tản người Mỹ và mặc kệ số phận
người Việt ở đây. Đó là một hành động phản bội trắng trợn của Hoa Kỳ. Họ sẽ tin
rằng Mỹ chẳng còn cần để ý tới những gì sẽ xảy ra cho họ nữa. Và từ cái cảm nhận
sâu đậm đó, nếu chỉ có một việc gì bất ngờ xảy ra, dù là nhỏ nhoi tới đâu, cũng
có thể gây ra tình trạng vô cùng hỗn loạn. Cứ để như tình trạng hiện tại, chúng
tôi sẽ gây được cảm tình với người Việt Nam vì họ cho rằng người Mỹ còn ở lại
đây để cùng chịu chung số phận với họ…"
Rồi
như không còn chế ngự được mình nữa, ông Martin đã đi tới chỗ gần như chửi thề
cả các sếp:
"Thế
nhưng, tất cả những điều này đều có thể thay đổi đột ngột nếu như có một tên
điên rồ khốn kiếp nào đó lại thuyết phục được một trong các quý ông ở địa vị
lãnh đạo cấp cao mang TQLC vào trước khi tôi yêu cầu."
Để
cho tăng phần quan trọng, ông thêm:
"Đây
là công điện tôi tự đánh máy lấy, không có bản sao, ngoại trừ hồ sơ tại
Washington."
Chưa
xong, trước khi chấm dứt bức công điện, ông đã bỏ hết mọi ràng buộc về ngoại
giao và còn dứt khoát với cấp trên:
"Có
một điều tôi đoan chắc tuyệt đối là nếu đưa quân đội Hoa Kỳ ào ạt vào đây trong
điều kiện hiện nay thì họ sẽ phải chiến đấu với quân đội Miền Nam để tìm đường
tháo chạy."
"Nếu
hành động một cách bình tĩnh thì ta có thể rút khỏi một cách êm đẹp - tôi xin
nhắc lại - và ta sẽ không gây ra một lỗi lầm ghê gớm nữa trong trăm ngàn lỗi lầm
người Mỹ đã mắc phải ở Việt Nam và về vấn đề Việt Nam."
Những
ai đã cảnh cáo Mỹ
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/800/cpsprodpb/7648/live/adfc7ff0-004e-11ef-97f7-e98b193ef1b8.jpg
NGUỒN
HÌNH ẢNH,NIK WHEELER/CORBIS/GETTY IMAGES
Chụp
lại hình ảnh,Chờ di tản bên trong Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn
Sở
dĩ phải trấn an như vậy một phần cũng bởi vì ông Martin đã nhận được nhiều lời
cảnh cáo về thảm họa sẽ xảy ra nếu Mỹ bỏ rơi đồng minh một cách tàn nhẫn.
Những
lời cảnh cáo đã được gửi đến cho Đại sứ Martin từ phía VNCH gồm Trung tướng Đặng
Văn Quan g, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, Trung tướng Nguyễn Cao Kỳ - như đã được
đề cập trong cuốn Tâm tư Tổng thống Thiệu.
Về
lời nhắn của ông Kỳ thì ngày 16/4/1975, ông Martin báo cáo rất rõ về Tòa Bạch Ốc:
“Ông
ta e ngại cho mạng sống của những người Mỹ. Ông nói rằng việc Tổng thống Ford
tuyên bố là sẽ chỉ cho những gia đình người Việt làm việc cho Mỹ được di tản đã
làm cho những sĩ quan tác chiến của quân lực VNCH phẫn nộ; những người này là
những người đã trung thành phục vụ và đặc biệt là do họ mà ông Kỳ lo lắng cho sự
an toàn của người Mỹ.”
Tờ Newsweek (28/4/1975)
còn thuật lại câu chuyện là một buổi sáng nọ, khi quan sát nhóm người Mỹ và
thân nhân Việt của họ kéo đến trước tòa đại sứ, một viên chức cảnh sát Sài Gòn
bỗng nhiên chặn lại và quát lên: “Các anh không thể bỏ nơi đây để ra đi, tôi sẽ
nhốt hết các anh lại.” Lính gác vội vàng đưa đoàn người này lọt vào qua cổng
tòa đại sứ.
Rồi
những tin tức khác còn làm dấy lên những lời đồn đoán về việc bắt giữ con tin.
Bắt
Mỹ làm con tin?
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/800/cpsprodpb/9d0f/live/0fa7bed0-0050-11ef-a9f7-4d961743aa47.jpg
NGUỒN
HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES
Chụp
lại hình ảnh,Lính VNCH bên ngoài Sài Gòn trong thời khắc cuối cùng của chiến
tranh
Theo
Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình (Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia kiêm Tổng Giám đốc
Trung ương Tình báo VNCH) – hiện cư ngụ tại San Jose, California - kể lại thì
chính ông Thomas Polgar, trùm CIA ở Việt Nam, đã đến gặp ông và gạ hỏi:
“Thưa
Thiếu tướng, chúng tôi nghe thông tin là có những nhóm người võ trang định bắt
người Mỹ làm con tin?”
“Tôi
nghĩ rằng có, nhưng chưa có gì là cụ thể, hay tổ chức thành kế hoạch,” ông
Bình trả lời.
“Chúng
tôi biết đã có một tiền lệ ở đây về việc bắt cóc.”
“Tiền
lệ nào?”
“Chắc
Thiếu tướng còn nhớ vụ Cité René Hérault?”
“Tôi
nhớ, nhưng ông đừng lo. Tuy nhiên, tôi cũng phải cho ông hay là cả thủ đô đang
đặt vấn đề là tại sao Mỹ chỉ cho một số nhỏ người Việt được di tản.”
“Chúng
tôi sẽ cố gắng hết sức về việc này (giúp di tản nhiều hơn).”
Khi
tôi hỏi về biến cố “Cité René Hérault” thì ông Bình kể lại là nó xảy ra
vào năm 1945. Cư xá này nằm ở Tân Định, phía tay phải trên đường từ Tân Sơn Nhứt
vào Sài Gòn. Phần đông là nơi người Pháp và lai Pháp cư ngụ. Tình hình tại Sài
Gòn vào mùa hè năm ấy hết sức sôi động. Bao nhiêu tranh chấp giữa các phe phái:
Nhật, Pháp, Việt Minh, lực lượng Đồng Minh do Tướng D.D. Gracy (người Anh) chỉ
huy. Ngoài Việt Minh, lại còn các phe phái Việt Nam khác. Mờ sáng ngày
25/9/1945, lực lượng Bình Xuyên tấn công cư xá René Hérault. Nhiều người Pháp
và lai Pháp đã bị hạ sát, bị bắt bắt làm con tin.
Sẽ
không một người Việt nào lên máy bay hay tàu Mỹ nếu…’
Sau
ông Polgar thì đến lượt Đại sứ Martin cảnh cáo Tướng Bình: “Này Thiếu tướng,
chúng ta là đồng minh đã mấy chục năm, chết sống với nhau trên chiến trường.
Bây giờ đến lúc kết thúc, ta phải làm sao cho êm đẹp, terminer en beauté.”
Rồi
với một giọng nói nhỏ nhẹ và chân thành, ông nói tiếp:
“Tôi
sẽ cố gắng tranh đấu hết sức của tôi để di tản một số người Việt đông nhất có
thể, nhưng tôi cần ông giúp một việc quan trọng nhất lúc này.”
“Việc
gì, thưa Đại sứ?”
“Ông
phải làm sao giữ được an ninh tại Sài Gòn cho tới giờ phút chót. Và quan trọng
nhất là chớ có để xảy ra vụ bắt cóc người Mỹ, dù quân sự hay dân sự.”
“Thưa
Đại sứ, an ninh thủ đô là mối quan tâm lớn nhất của tôi. Và giờ phút này, theo
lệnh của Tổng thống Thiệu, lực lượng Cảnh sát Dã chiến đóng ở Vườn Tao Đàn và ở
một số các địa điểm chiến lược tại thủ đô dưới quyền điều khiển trực tiếp của
tôi đang làm việc ngày đêm cho công tác này.”
Đại
sứ Martin nhìn thẳng mắt Tướng Bình, rồi dằn từng tiếng:
“Cám
ơn Thiếu tướng, vì nếu có xảy ra dù chỉ một vụ bắt cóc hay lộn xộn, tôi bảo đảm
với ông là sẽ không một người Việt Nam nào bước lên máy bay hay tàu Mỹ.”
Sau
một vài trao đổi, ông Martin tạm biệt ông Bình:
“Tôi
cam kết với ông rằng nếu mọi chuyện tốt đẹp, tôi sẽ là người cuối cùng bước lên
máy bay.”
Đúc
kết lại thì ngoài việc ngăn chặn Washington gửi TQLC vào Sài Gòn, ông Martin
còn có ba hành động để giữ cho tình hình yên ổn: một là sinh hoạt hết sức bình
tĩnh để không đổ thêm dầu vào lửa, không làm xôn xao thêm dư luận là Mỹ đang bỏ
chạy; hai là cố kéo dài cuộc di tản người Mỹ để giúp một số người Việt ra đi;
và ba là cho di tản sớm một số phi công VNCH để tránh bắn rơi máy bay Mỹ.
Trấn
an dư luận
Ông
Martin giải thích cho Quốc hội Hoa Kỳ đầu năm 1976:
"Điều
lo ngại nhất của chúng tôi lúc đó là tránh khỏi cảnh hoảng hốt, hỗn loạn. Sự lo
nghĩ này ảnh hưởng đến tất cả những hành động khác… Nếu chúng ta không cư xử
cho đúng mức thì đồng minh của chúng ta (VNCH) sẽ cảm thấy bị bỏ rơi và họ sẽ
trở mặt với Mỹ trong những ngày cuối cùng!"
"Bởi
vậy phải hết sức bình tĩnh nếu muốn di tản được người Mỹ, những người Việt có
liên hệ gia đình với Mỹ và càng nhiều nếu có thể được, số người Việt mà Mỹ có
trách nhiệm đối với họ."
Tại
tư thất cũng như văn phòng làm việc, ông Martin nhất định không chịu đóng gói.
Đồ đạc, sách vở, hồ sơ, hình ảnh trên tường vẫn được để nguyên vẹn, không xê dịch.
Ngày 18/4/1975, ông còn cho Giám đốc Thông tin Hoa Kỳ, ông Alan Carter, lên
truyền hình Sài Gòn để giảm nhẹ đồn đoán về những Mỹ đang rời bỏ Việt Nam:
"Nếu quý vị ghé thăm tư thất của chính Đại sứ và bà Martin, quý vị sẽ
thấy hoàn toàn không có đóng gói gì hết. Và ở nhà riêng của tôi cũng vậy."
Kéo
dài cuộc di tản người Mỹ để cứu vớt người Việt
Từ
khi nhận được chỉ thị ngày 17/4/1975 của Ngoại trưởng Henry Kissinger là “phải
ra đi cho lẹ và ngay bây giờ, ông bị hối thúc liên tục về việc di tản người Mỹ,
nhưng như ông đã tâm sự: “Nếu tôi ra đi thì sẽ chẳng có máy bay nào vào Sài
Gòn để đưa người Việt Nam đi.”
Chính
Kissinger đã bình luận về việc ông Martin cứ chần chừ không chịu đi:
“Nhiệt
tình gắn bó với những người mà ông sắp bị bắt buộc phải bỏ lại, ông Martin đã
coi như bổn phận của mình là phải kéo dài cuộc rút lui của Mỹ ra trong một thời
gian dài nhất để giữ lại sự có mặt của Mỹ (tại Việt Nam), làm sao cho còn đủ để
biện hộ cho việc cứu người Việt Nam.”
“Ông
ta tin rằng, ngay trước mắt, sự hoảng hốt ở Sài Gòn còn đáng lo ngại hơn những
kế hoạch tấn công của Hà Nội, ông đã phấn đấu để cho cuộc di tản quá chậm…”
Đưa
phi công VNCH tới Thái Lan
Ông
Martin đã sắp xếp để đưa một số khá nhiều phi công VNCH và gia đình được ưu
tiên ra đi. Tất cả khoảng 2.000 người di tản trước hết là tới phi cảng U-Tapao ở
Thái Lan. Mục đích của việc này là để giảm thiểu khả năng trả thù và đụng độ với
lực lượng Mỹ. Cũng trong cuộc điều trần tại Quốc hội Mỹ về di tản, ông Martin
cho rằng nếu cảm thấy bị bỏ rơi quá tàn nhẫn, phía Việt Nam sẽ trút sự giận dữ
trên đầu những người Mỹ còn lại:
"Tình
báo của chúng tôi đã có rất nhiều báo cáo chính xác là nếu chúng ta mang số
đông TQLC vào để di tản người Mỹ, chúng ta sẽ phải chiến đấu để mở đường tháo
chạy;
“Không
quân Việt Nam sẽ bắn rơi các máy bay vận tải của Mỹ, khi chúng ta bỏ rơi chiến
hữu, phó mặc họ cho Bắc Việt."
Ông
Martin cho rằng phi công là những phần tử trong quân đội VNCH bị uất hận nhiều
nhất nên có thể phản ứng :
"Tôi
có một sự lo nghĩ trong lòng nhưng nó đã được giải quyết trước ngày cuối cùng của
cuộc di tản, đó là một phần đông không quân Miền Nam đã được bay sang căn cứ
U-Tapao ở Thái Lan. Như vậy là đã di chuyển được khả năng (chiến đấu) của một số
phi công chống đối trên bầu trời, họ có lẽ là phần tử uất hận nhất trong các
quân chủng. Và để trả thù, họ sẽ ngăn chặn cuộc di tản cuối cùng của chúng ta."
Nếu
phi công VNCH bắn rơi ba bốn chiếc máy bay vận tải Mỹ, chắc chắn là sẽ có nhiều
trong số 6.000 người Mỹ phải chết. Thêm vào đó là số thương vong không thể lường
của quân đội hai bên. Dĩ nhiên là không lực từ Đệ thất Hạm đội sẽ vào uy hiếp,
dẹp tan hết mọi cuộc tấn công. Nhưng Sài Gòn sẽ đổ vỡ tan nát và bao nhiêu người
dân sẽ là nạn nhân?
Hủy
bỏ ‘kế hoạch điên rồ’
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/800/cpsprodpb/1922/live/3698b000-004e-11ef-8369-47dc4454b972.jpg
NGUỒN
HÌNH ẢNH,JEAN-CLAUDE LABBE/GAMMA-RAPHO/GETTY IMAGES
Chụp
lại hình ảnh,Quân Cộng sản tiến vào Dinh Độc Lập
Trước
sự phản đối liên tục và mạnh mẽ của Đại sứ Martin, sau cùng thì Tổng thống Ford
đã được thuyết phục và hủy bỏ kế hoạch Talon Wise.
Vào
lúc 4 giờ 05 sáng thứ Ba, ngày 29/4/1975 (4 giờ 05 chiều 28/4 giờ Washington),
những hỏa tiễn đầu tiên của Bắc Việt rơi trúng phi trường Tân Sơn Nhất, Tổng thống
Ford ra lệnh khỏi động kế hoạch Frequent Wind (Hành quân gió nhanh) - di tản bằng
trực thăng.
Ông
Martin miễn cưỡng đồng ý nhưng vẫn vẫn tiếp tục gửi điện văn từng giờ xin thêm
trực thăng để di tản người Việt cho đến lúc 4 giờ 45 mờ sáng ngày 30/4/1975,
khi có lệnh của Tổng thống là phải bước lên chiếc trực thăng cuối cùng mang bảng
số Lady Ace 09. Nếu trái lệnh thì sẽ bị áp giải như chúng tôi đã ghi lại chi tiết
về câu chuyện “Con hổ với trái tim đầy tình người” trong cuốn sách Bức
tử VNCH – Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm sẽ được xuất bản nay mai.
***
Xem
như vậy, Trời vẫn còn ban phát một ân huệ cuối cùng cho nhân dân Miền Nam để
tránh được một thảm họa khôn lường vào những giờ phút cuối cùng. Vì nếu không
thì lịch sử đã phải ghi nhận về “Ngày cuối cùng” lại là “ngày đẫm máu nhất của
Chiến tranh Việt Nam”.
Sau
hai mươi năm chung vai sát cánh trong một cuộc chiến tàn ác, tới lúc hạ màn hai
bên Mỹ và VNCH lại có thể bắn nhau tan nát?
*
Bài viết của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng
giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn Khi Đồng minh Tháo chạy và
là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết
cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment