Cuộc đàm
phán đáng lẽ đã kết thúc Chiến tranh Ukraine (P1)
Samuel Charap và Sergey Radchenko - Foreign
Affairs
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2024/04/25/cuoc-dam-phan-dang-le-da-ket-thuc-chien-tranh-ukraine-p1/
Một sự kiện ngoại giao bí mật, tuy chỉ tồn tại ngắn ngủi, nhưng
chứa đựng bài học cho các cuộc đàm phán trong tương lai.
Rạng sáng ngày 24/02/2022, không quân Nga đồng loạt tấn công các
mục tiêu trên khắp Ukraine. Cùng lúc đó, bộ binh và thiết giáp của Moscow từ
phía bắc, phía đông, và phía nam tràn vào Ukraine. Trong những ngày tiếp theo,
quân Nga đã cố gắng bao vây Kyiv.
Đó là những ngày và những tuần đầu tiên của cuộc xâm lược vốn dĩ
có thể dẫn đến việc Ukraine bị Nga đánh bại và khuất phục. Khi nhìn lại, thật
kỳ diệu là điều đó đã không xảy ra.
Chúng ta đã tương đối hiểu những diễn biến sau đó trên chiến
trường. Nhưng điều ít được biết đến hơn là hoạt động ngoại giao diễn ra cùng
lúc đó, với sự tham gia của Moscow, Kyiv, và một loạt các chủ thể khác – một
hoạt động lẽ ra đã dẫn đến một thoả thuận chỉ vài tuần sau khi chiến tranh bắt
đầu.
Cuối tháng 3/2022, một loạt các cuộc gặp trực tiếp ở Belarus và
Thổ Nhĩ Kỳ cũng như các cuộc họp trực tuyến khác đã tạo ra cái gọi là Thông cáo
Istanbul, trong đó vạch ra khuôn khổ cho một thoả thuận kết thúc cuộc chiến ở
Ukraine. Các nhà đàm phán Ukraine và Nga sau đó bắt đầu soạn thảo văn bản của
một hiệp ước, đạt được tiến bộ đáng kể nhằm hướng tới một thỏa thuận. Tuy
nhiên, đến tháng 5, đàm phán bất ngờ kết thúc. Chiến tranh vẫn tiếp tục, và
theo đó cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người ở cả hai bên chiến tuyến.
Bài đang hot
Chuyện gì đã xảy ra? Các bên đã tiến gần đến hồi kết của chiến
tranh đến mức nào? Và tại sao họ không bao giờ hoàn tất một thỏa thuận?
Để làm sáng tỏ giai đoạn quan trọng nhưng thường bị bỏ qua này,
chúng tôi đã xem xét các dự thảo thỏa thuận được trao đổi giữa hai bên, một số
chi tiết trong đó chưa từng được công bố trước đây. Chúng tôi cũng đã phỏng vấn
một số nhân vật tham gia các cuộc đàm phán, cũng như các quan chức phục vụ tại
các chính phủ chủ chốt của phương Tây vào thời điểm đó, những người mà chúng
tôi xin phép giấu tên để thảo luận về các vấn đề nhạy cảm. Chúng tôi còn xem
xét nhiều cuộc phỏng vấn được thực hiện gần đây hơn, có chứa các tuyên bố của
các quan chức Ukraine và Nga đang phục vụ tại thời điểm diễn ra cuộc đàm phán.
Hầu hết những nội dung này đều có trên YouTube, nhưng không phải bằng tiếng
Anh, và do đó không được biết đến rộng rãi ở phương Tây. Cuối cùng, chúng tôi
đã xem xét kỹ lưỡng dòng thời gian của các sự kiện kể từ khi bắt đầu cuộc xâm
lược cho đến cuối tháng 5, khi đàm phán đổ vỡ. Khi ghép tất cả những mảnh này
lại với nhau, những điều chúng tôi tìm thấy thật đáng ngạc nhiên, và có thể có
ý nghĩa quan trọng đối với những nỗ lực ngoại giao trong tương lai nhằm chấm
dứt chiến tranh.
Một số nhà quan sát và quan chức (trong đó nổi bật nhất là Tổng
thống Nga Vladimir Putin) tuyên bố rằng đã có một thỏa thuận được đặt lên bàn
đàm phán để có thể kết thúc chiến tranh, nhưng người Ukraine đã từ bỏ nó do sự
kết hợp giữa áp lực từ các nhà bảo trợ phương Tây và những giả định ngạo mạn
của chính Kyiv về sự yếu kém của quân đội Nga. Những người khác đã bác bỏ hoàn
toàn tầm quan trọng của cuộc đàm phán, cho rằng các bên chỉ đang đàm phán cho
có lệ và cố gắng câu giờ để sắp xếp lại thế trận, hoặc rằng các dự thảo thỏa
thuận là không nghiêm túc.
Dù những cách giải thích đó chứa đựng một phần sự thật, nhưng
chúng lại che khuất nhiều hơn là làm sáng tỏ vấn đề. Không có một bằng chứng rõ
ràng nào, nên câu chuyện này thách thức những lời giải thích đơn giản. Hơn nữa,
những giải thích nhân quả giản đơn như vậy đã bỏ qua một thực tế mà khi nhìn
lại có thể được cho là điều phi thường: ngay giữa cuộc xâm lược chưa từng có
của Moscow, người Nga và người Ukraine gần như đã hoàn tất một thỏa thuận có
thể chấm dứt chiến tranh, và cung cấp cho Ukraine những đảm bảo an ninh đa
phương, mở đường hướng tới trạng thái trung lập vĩnh viễn, và cuối cùng là tư
cách thành viên EU.
Tuy nhiên, thỏa thuận cuối cùng vẫn khó đạt được vì một số lý
do. Các đối tác phương Tây của Kyiv không muốn bị lôi kéo vào cuộc đàm phán với
Nga, nhất là một cuộc đàm phán có thể tạo ra những cam kết mới buộc họ phải đảm
bảo an ninh cho Ukraine. Dư luận ở Ukraine cũng trở nên căng thẳng hơn sau khi
những tội ác của Nga tại Irpin và Bucha bị phát hiện. Và sau khi Nga thất bại
trong việc bao vây Kyiv, Tổng thống Volodymyr Zelensky lại càng tự tin rằng,
với sự hỗ trợ đầy đủ của phương Tây, ông có thể giành chiến thắng trên chiến
trường. Sau cùng, dù nỗ lực của các bên nhằm giải quyết các tranh chấp kéo dài
về cấu trúc an ninh đã mang lại triển vọng về một giải pháp lâu dài cho chiến
tranh và ổn định khu vực, nhưng họ đã đặt mục tiêu quá cao và quá sớm. Họ đã cố
gắng đạt được một giải pháp toàn diện ngay cả khi lệnh ngừng bắn cơ bản vẫn còn
nằm ngoài tầm với.
Ngày nay, khi triển vọng đàm phán trở nên mờ mịt và quan hệ giữa
các bên gần như không còn tồn tại, câu chuyện về cuộc đàm phán mùa xuân năm
2022 dường như chỉ gây xao nhãng mà không mang lại những hiểu biết có thể áp
dụng trực tiếp vào hoàn cảnh hiện tại. Tuy nhiên, Putin và Zelensky từng khiến
mọi người ngạc nhiên khi sẵn sàng xem xét những nhượng bộ sâu rộng để chấm dứt
chiến tranh. Họ có thể sẽ làm mọi người ngạc nhiên một lần nữa trong tương lai.
TRẤN AN HAY ĐẢM BẢO?
Nga muốn đạt được điều gì khi xâm lược Ukraine? Vào ngày
24/02/2022, Putin đã có một bài phát biểu trong đó ông biện minh cho cuộc xâm
lược của mình bằng cách đề cập đến mục tiêu mơ hồ là “phi phát xít hóa”
Ukraine. Cách giải thích hợp lý nhất cho cụm từ “phi phát xít hóa” là Putin
muốn tìm cách lật đổ chính phủ ở Kyiv, có thể giết hoặc bắt giam Zelensky trong
quá trình đó.
Tuy nhiên, vài ngày sau khi cuộc xâm lược nổ ra, Moscow lại bắt
đầu thăm dò để tìm cơ sở cho một sự thỏa hiệp. Cuộc chiến mà Putin mong đợi là
một cuộc chiến dễ dàng hoá ra lại khó hơn tưởng tượng, và việc sẵn sàng thoả
hiệp từ sớm cho thấy ông dường như đã từ bỏ ý tưởng lật đổ chế độ. Zelensky,
như ông từng làm trước chiến tranh, đã bày tỏ sự quan tâm đến một cuộc gặp cá
nhân với Putin. Dù từ chối nói chuyện trực tiếp với Zelensky, nhưng Putin đã
chỉ định một nhó đàm phán, và Tổng thống Belarus Alexander Lukashenko đã đóng
vai trò hòa giải.
Đàm phán bắt đầu vào ngày 28/02 tại một trong những khu dinh thự
rộng rãi của Lukashenko gần làng Liaskavichy, cách biên giới Belarus-Ukraine
khoảng 48 km. Phái đoàn Ukraine được dẫn đầu bởi Davyd Arakhamia, lãnh đạo tại
quốc hội của đảng chính trị của Zelensky, và cũng bao gồm cả Bộ trưởng Quốc
phòng Oleksii Reznikov, cố vấn tổng thống Mykhailo Podolyak, cùng nhiều quan
chức cấp cao khác. Trong khi đó, Vladimir Medinsky, cố vấn cấp cao của Tổng
thống Nga, người trước đây từng giữ chức Bộ trưởng Văn hóa, đã dẫn đầu phái
đoàn Nga, đi cùng các thứ trưởng quốc phòng và ngoại giao, và một số nhân vật
khác.
Tại cuộc gặp đầu tiên, phía Nga đã đưa ra một loạt điều kiện
khắc nghiệt, đòi hỏi Ukraine phải đầu hàng. Đề xuất đã không được chấp nhận.
Nhưng khi tình thế của Moscow trên chiến trường tiếp tục xấu đi, vị thế của
nước này trên bàn đàm phán cũng dần suy giảm. Vì vậy, vào ngày 03 và ngày
07/03, các bên đã tổ chức vòng đàm phán thứ hai và thứ ba, lần này là ở
Kamyanyuki, Belarus, ngay bên kia biên giới với Ba Lan. Phái đoàn Ukraine đã
đưa ra yêu cầu của riêng họ: ngừng bắn ngay lập tức và thiết lập các hành lang
nhân đạo cho phép dân thường rời khỏi vùng chiến sự một cách an toàn. Chính
trong vòng đàm phán thứ ba này, Nga và Ukraine đã lần đầu tiên xem xét các dự
thảo. Theo Medinsky, đây là bản dự thảo của Nga được phái đoàn của ông mang từ
Moscow đến, và nó phản ánh sự kiên quyết của Moscow về tình trạng trung lập của
Ukraine.
Vào lúc đó, các cuộc họp trực tiếp đã bị tạm dừng trong gần ba
tuần, dù các phái đoàn vẫn tiếp tục gặp nhau qua Zoom. Trong những cuộc trao
đổi này, phía Ukraine bắt đầu tập trung vào vấn đề sẽ trở thành trọng tâm trong
tầm nhìn của họ về kết cục của cuộc chiến: những đảm bảo an ninh sẽ buộc các
quốc gia khác phải đến bảo vệ Ukraine nếu Nga tấn công một lần nữa trong tương
lai. Vẫn chưa rõ thời điểm mà Kyiv lần đầu tiên nêu ra vấn đề này trong các
cuộc thảo luận với Nga hay các nước phương Tây. Nhưng vào ngày 10/03, Ngoại
trưởng Ukraine Dmytro Kuleba – khi đó đang ở Antalya, Thổ Nhĩ Kỳ, chuẩn bị cuộc
gặp với người đồng cấp Nga, Sergey Lavrov – đã nói về một “giải pháp bền vững,
có hệ thống” cho Ukraine, đồng thời nói thêm rằng Ukraine “sẵn sàng thảo luận” về
những đảm bảo mà họ hy vọng sẽ nhận được từ các quốc gia thành viên NATO và từ
Nga.
Podolyak và Đại sứ Ukraine tại Thổ Nhĩ Kỳ Vasyl Bodnar sau cuộc
gặp với phái đoàn Nga, Istanbul, tháng 3/2022. © Kemal Aslan / Reuters
Điều mà Kuleba dường như đã nghĩ đến là một đảm bảo an ninh đa
phương (multilateral security guarantee), một thỏa thuận trong đó các cường
quốc đối thủ cam kết đảm bảo an ninh cho một nước thứ ba, thường với điều kiện
là nước này sẽ không liên kết với bất kỳ bên nào. Những thỏa thuận như vậy gần
như không còn được ưa chuộng sau Chiến tranh Lạnh. Trong khi các liên minh như
NATO thường nhằm duy trì phòng thủ tập thể chống lại kẻ thù chung, thì các đảm
bảo an ninh đa phương lại được thiết kế để ngăn chặn xung đột giữa các bên về
sự liên kết của quốc gia được đảm bảo, và nói rộng hơn, là để đảm bảo an ninh
của quốc gia đó.
Ukraine đã có một trải nghiệm cay đắng với phiên bản ít bền vững
hơn của loại thỏa thuận này: một sự trấn an an ninh đa phương (multilateral
security assurance), vốn khác với một sự đảm bảo. Năm 1994, nước này đã ký vào
cái gọi là Bản ghi nhớ Budapest, quyết định tham gia Hiệp ước Không phổ biến Vũ
khí Hạt nhân với tư cách là một quốc gia không có vũ khí hạt nhân, và đồng ý từ
bỏ kho vũ khí hạt nhân lớn thứ ba thế giới khi đó. Đổi lại, Nga, Anh và Mỹ hứa
sẽ không tấn công Ukraine. Tuy nhiên, trái ngược với quan niệm sai lầm phổ
biến, trong trường hợp Ukraine bị xâm lược, Bản ghi nhớ Budapest chỉ yêu cầu
các bên ký kết triệu tập một cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, chứ
không phải đưa quân đến bảo vệ Ukraine.
Cuộc xâm lược toàn diện của Nga – và thực tế tàn nhẫn rằng
Ukraine đang tự mình chiến đấu trong một cuộc chiến sinh tồn – đã thúc đẩy Kyiv
vừa tìm cách chấm dứt hành vi xâm lược, vừa đảm bảo điều đó không bao giờ xảy
ra nữa. Vào ngày 14/03, ngay khi hai phái đoàn đang gặp nhau qua Zoom, Zelensky
đã cho đăng một thông báo trên kênh Telegram của mình, kêu gọi thực hiện “những
đảm bảo an ninh bình thường, hiệu quả, khác với những đảm bảo ở Budapest.”
Trong một cuộc phỏng vấn với các nhà báo Ukraine hai ngày sau đó, cố vấn của
Zelensky, Podolyak giải thích rằng: điều Kyiv tìm kiếm là “sự đảm bảo an ninh
tuyệt đối” vốn đòi hỏi “các bên ký kết… không đứng bên lề trong trường hợp xảy
ra một cuộc tấn công vào Ukraine, như những gì đang xảy ra. Thay vào đó, họ
[sẽ] tham gia tích cực vào việc bảo vệ Ukraine trong một cuộc xung đột.”
Việc Ukraine yêu cầu không bị bỏ mặc để họ tự bảo vệ mình một
lần nữa là hoàn toàn dễ hiểu. Kyiv muốn (và vẫn muốn) có một cơ chế đáng tin
cậy hơn là chỉ dựa vào thiện chí của Nga để bảo vệ an ninh của Ukraine trong
tương lai. Nhưng để đạt được một đảm bảo an ninh là điều rất khó. Naftali
Bennett là Thủ tướng Israel vào thời điểm đàm phán Ukraine-Nga diễn ra và đã
tích cực làm trung gian hòa giải giữa hai bên. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo
Hanoch Daum được đăng trực tuyến vào tháng 2/2023, ông kể lại rằng mình đã cố
gắng khuyên Zelensky đừng mắc kẹt trong câu hỏi đảm bảo an ninh. “Có một câu
chuyện cười về một anh chàng đang cố bán Cầu Brooklyn cho một người qua đường,”
Bennett giải thích. “Tôi nói: ‘Mỹ sẽ đảm bảo cho các vị hay sao? Họ sẽ cam kết
rằng trong vài năm nữa nếu Nga tái phạm thì họ sẽ cử binh lính đến à? Ngay cả
khi chính họ đã rời khỏi Afghanistan?’ Tôi nói tiếp, ‘Volodymyr, điều đó sẽ
không xảy ra đâu.’”
Để trình bày lại theo cách dễ hiểu hơn: nếu Mỹ và các đồng minh
của họ không sẵn lòng cung cấp cho Ukraine những đảm bảo an ninh như vậy (chẳng
hạn như dưới hình thức thành viên NATO) ngay từ trước chiến tranh, thì tại sao
họ lại làm thế sau khi Nga đã thể hiện họ sẵn sàng tấn công Ukraine? Các nhà
đàm phán Ukraine đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi này, nhưng sau cùng vẫn
không thể thuyết phục được các đồng nghiệp phương Tây vốn lo ngại rủi ro. Quan
điểm của Kyiv là, như được ngụ ý trong khái niệm đảm bảo, Nga cũng sẽ là một
bên đảm bảo, điều đó có nghĩa là Moscow về cơ bản đã đồng ý rằng các bên đảm
bảo khác sẽ có nghĩa vụ can thiệp nếu họ tấn công lần nữa. Nói cách khác, nếu
Moscow chấp nhận rằng bất kỳ hành động gây hấn nào trong tương lai chống lại
Ukraine cũng đồng nghĩa với một cuộc chiến giữa Nga và Mỹ, thì Moscow sẽ ít có
xu hướng tấn công Ukraine một lần nữa bởi nó tương tự như khi nước này tấn công
một đồng minh NATO.
BƯỚC ĐỘT PHÁ
Xuyên suốt tháng 3, giao tranh ác liệt tiếp tục diễn ra trên mọi
mặt trận. Nga cố gắng chiếm Chernihiv, Kharkiv, và Sumy nhưng thất bại thảm
hại, dù cả ba thành phố đều bị thiệt hại nghiêm trọng. Đến giữa tháng 3, cuộc
tiến công của quân đội Nga về phía Kyiv đã bị đình trệ và họ cũng phải chịu
thương vong nặng nề. Hai phái đoàn tiếp tục hội đàm qua cầu truyền hình nhưng
sau đó đã quay trở lại gặp mặt trực tiếp vào ngày 29/03, lần này là tại
Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.
Ở đó, họ dường như đã đạt được một bước đột phá. Sau cuộc gặp,
hai bên tuyên bố đã đồng ý ra thông cáo chung. Các điều khoản đã được mô tả
trong thông cáo báo chí của hai bên ở Istanbul. Nhưng chúng tôi đã thu thập
được bản sao toàn văn của dự thảo thông cáo, có tựa đề “Những điều khoản chính
của Hiệp ước về Đảm bảo An ninh của Ukraine.” Theo những người tham gia đàm
phán được chúng tôi phỏng vấn, thông cáo phần lớn được soạn bởi phía Ukraine,
trong khi Nga tạm thời chấp nhận ý tưởng sử dụng nó làm khuôn khổ cho một hiệp
ước.
Hiệp ước được hình dung trong thông cáo sẽ tuyên bố Ukraine là
một quốc gia phi hạt nhân và trung lập vĩnh viễn. Ukraine sẽ từ bỏ mọi ý định
tham gia các liên minh quân sự, hoặc cho phép các căn cứ quân sự hoặc quân đội
nước ngoài hiện diện trên đất của mình. Thông cáo liệt kê những chủ thể có thể
trở thành bên đảm bảo là các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
Hiệp Quốc (gồm cả Nga) cùng với Canada, Đức, Israel, Ý, Ba Lan, và Thổ Nhĩ Kỳ.
Thông cáo cũng nói rằng nếu Ukraine bị tấn công và yêu cầu hỗ
trợ, tất cả các bên đảm bảo đều có nghĩa vụ, sau khi đã tham khảo ý kiến với
Ukraine và với nhau, để cung cấp hỗ trợ cho Ukraine nhằm khôi phục an ninh.
Đáng chú ý, những nghĩa vụ này được nêu ra với mức độ chính xác cao hơn nhiều
so với Điều 5 của NATO: áp đặt vùng cấm bay, cung cấp vũ khí, hoặc can thiệp
trực tiếp bằng lực lượng quân sự của chính quốc gia đảm bảo.
Dù Ukraine sẽ trung lập vĩnh viễn theo khuôn khổ được đề xuất,
con đường trở thành thành viên EU của Kyiv vẫn được để ngỏ và các bên đảm bảo
(gồm cả Nga) sẽ “xác nhận rõ ràng ý định của họ là tạo điều kiện thuận lợi cho
Ukraine trở thành thành viên EU.” Điều này không có gì là bất thường: hồi năm
2013, Putin từng gây áp lực mạnh mẽ lên Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych,
yêu cầu rút lui khỏi một thỏa thuận liên kết đơn thuần với EU. Giờ đây, Nga đã
đồng ý “tạo điều kiện thuận lợi” cho Ukraine gia nhập đầy đủ vào EU.
Dù lợi ích của Ukraine trong việc có được những đảm bảo an ninh
này là rõ ràng, nhưng vẫn chưa rõ tại sao Nga lại đồng ý với bất kỳ điều khoản
nào trong số này. Chỉ vài tuần trước đó, Putin đã cố gắng chiếm thủ đô Ukraine,
lật đổ chính phủ nước này, và áp đặt một chế độ bù nhìn. Thật khó tin khi ông
ấy đột nhiên chấp nhận rằng Ukraine – quốc gia đang thù địch với Nga hơn bao
giờ hết, vì chính những hành động của Putin – sẽ trở thành thành viên của EU và
được Mỹ đảm bảo độc lập và an ninh (cùng nhiều thứ khác). Nhưng bản thông cáo
cho thấy đó chính xác là điều mà Putin sẵn sàng chấp nhận.
Chúng ta chỉ có thể phỏng đoán lý do tại sao. Cuộc tấn công chớp
nhoáng của Putin đã thất bại; điều đó đã rõ vào đầu tháng 3. Có lẽ khi đó ông
đã sẵn sàng chấp nhận từ bỏ nếu được đáp ứng yêu cầu lâu dài nhất của mình:
rằng Ukraine sẽ từ bỏ nguyện vọng gia nhập NATO và không bao giờ tiếp nhận lực
lượng NATO trên lãnh thổ của mình. Nếu ông không thể kiểm soát toàn bộ đất nước
Ukraine, chí ít ông cũng có thể đảm bảo những lợi ích an ninh cơ bản nhất của
mình, ngăn chặn tình trạng chảy máu của nền kinh tế Nga, và khôi phục danh
tiếng quốc tế của đất nước.
Thông cáo cũng bao gồm một điều khoản khác gây ấn tượng mạnh khi
nhìn lại: nó kêu gọi hai bên tìm cách giải quyết tranh chấp ở Crimea một cách
hòa bình trong vòng 10 đến 15 năm tới. Kể từ khi Nga sáp nhập bán đảo vào năm
2014, Moscow chưa bao giờ đồng ý thảo luận về tình trạng của nó, nói rằng nó
chỉ là một khu vực thuộc về Nga giống như bao khu vực khác. Bằng cách đề nghị
đàm phán về tình trạng của Crimea, Điện Kremlin đã ngầm thừa nhận rằng thực tế
không phải như vậy.
(Còn tiếp 1 phần)
*****
Cuộc đàm
phán đáng lẽ đã kết thúc Chiến tranh Ukraine (P2)
Samuel Charap và Sergey Radchenko - Foreign
Affairs
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2024/04/26/cuoc-dam-phan-dang-le-da-ket-thuc-chien-tranh-ukraine-p2/
VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM
Trong nhận xét mà ông đưa ra vào ngày 29/03, ngay sau khi kết
thúc đàm phán, Medinsky, trưởng phái đoàn Nga, rõ ràng đã rất lạc quan. Ông
giải thích rằng các cuộc thảo luận xoay quanh hiệp ước về tính trung lập của
Ukraine đang bước vào giai đoạn thực tế, và rằng – bất chấp những điều khoản
phức tạp do hiệp ước có nhiều bên đảm bảo tiềm năng – Putin và Zelensky có lẽ
sẽ ký nó tại một hội nghị thượng đỉnh trong tương lai gần.
Ngày hôm sau, ông nói với các phóng viên, “Hôm qua, phía
Ukraine, lần đầu tiên đã thể hiện rõ bằng văn bản sự sẵn sàng thực hiện một
loạt các điều kiện quan trọng nhất để xây dựng mối quan hệ láng giềng tốt đẹp
và bình thường trong tương lai với Nga.” Ông nói tiếp, “Họ đã trình bày cho
chúng tôi những nguyên tắc về một thỏa thuận tiềm năng trong tương lai, được
ghi rõ bằng văn bản.”
Cùng lúc đó, Nga đã từ bỏ nỗ lực chiếm Kyiv và đang rút lực
lượng khỏi mặt trận phía bắc. Alexander Fomin, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nga, đã
công bố quyết định này tại Istanbul vào ngày 29/3, gọi đây là nỗ lực “xây dựng
lòng tin lẫn nhau.” Trên thực tế, rút quân là điều bắt buộc phải làm. Người Nga
đã đánh giá quá cao khả năng của mình và đánh giá quá thấp sự phản kháng của
Ukraine, và giờ đây, họ đang biến thất bại quân sự thành một động thái ngoại
giao để
Việc rút quân đã gây ra những hậu quả sâu rộng. Nó củng cố quyết
tâm của Zelensky, loại bỏ mối đe dọa trước mắt đối với chính phủ của ông, và
chứng minh rằng quân đội được ca ngợi của Putin thực sự có thể bị đẩy lùi, nếu
không muốn nói là bị đánh bại, trên chiến trường. Nó cũng cho phép phương Tây
hỗ trợ quân sự quy mô lớn cho Ukraine, bằng cách giải phóng các tuyến đường dẫn
đến Kyiv. Cuối cùng, cuộc rút lui đã khiến người ta phát hiện ra bí mật khủng
khiếp về những hành động tàn bạo mà lính Nga đã thực hiện ở các vùng ngoại ô
Kyiv là Bucha và Irpin, nơi họ đã hãm hiếp, tra tấn, và sát hại thường dân.
Các báo cáo từ Bucha bắt đầu nổi lên khoảng đầu tháng 4. Vào
ngày 04/04, Zelensky đã đến thăm thị trấn. Ngày hôm sau, ông nói chuyện qua
video với Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và cáo buộc Nga gây ra tội ác chiến
tranh ở Bucha, so sánh lực lượng của Nga với nhóm khủng bố Nhà nước Hồi giáo
(còn được gọi là ISIS). Zelensky sau đó đã kêu gọi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc trục xuất Nga, vốn là thành viên thường trực.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là hai bên vẫn tiếp tục làm việc suốt
ngày đêm để soạn thảo một hiệp ước mà Putin và Zelensky dự kiến sẽ ký trong một
hội nghị thượng đỉnh được tổ chức trong tương lai không xa.
Hai bên đã tích cực trao đổi các bản dự thảo với nhau và dường
như cũng bắt đầu chia sẻ chúng với các bên khác. (Trong cuộc phỏng vấn vào
tháng 2/2023, Bennett cho biết đã nhìn thấy 17 hoặc 18 bản thảo đàm phán của
thỏa thuận; Lukashenko cũng cho biết đã nhìn thấy ít nhất một phiên bản.) Chúng
tôi đã xem xét kỹ lưỡng hai trong số các bản dự thảo này, một bản đề ngày 12/04
và một bản khác đề ngày 15/04, mà những người tham gia đàm phán cho chúng tôi
biết là bản cuối cùng được trao đổi giữa các bên. Phần lớn nội dung giống nhau,
nhưng vẫn có những khác biệt quan trọng – và cả hai bản đều cho thấy rằng thông
cáo chung chưa giải quyết được một số vấn đề chính.
Đầu tiên, trong khi thông cáo và dự thảo ngày 12/04 nêu
rõ rằng các bên đảm bảo sẽ quyết định một cách độc lập xem liệu họ có đến trợ
giúp Kyiv trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công vào Ukraine hay không, thì
trong dự thảo ngày 15/04, phía Nga đã cố gắng huỷ bỏ điều khoản quan trọng này,
bằng cách nhấn mạnh rằng hành động trợ giúp sẽ chỉ xảy ra “trên cơ sở một quyết
định được tất cả các bên đảm bảo đồng ý” – theo đó trao cho kẻ xâm lược tiềm
năng là Nga quyền phủ quyết. Theo ghi chú trong văn bản, phía Ukraine đã bác bỏ
sửa đổi đó, kiên quyết thực hiện công thức ban đầu, theo đó mỗi bên đảm bảo đều
có nghĩa vụ phải hành động và không cần phải đạt được sự đồng thuận trước khi
thực hiện.
Thứ hai, dự thảo có chứa một số điều khoản được bổ
sung vào hiệp ước theo yêu cầu của Nga, nhưng không nằm trong thông cáo chung,
và liên quan đến các vấn đề mà Ukraine từ chối thảo luận. Những điều khoản này
yêu cầu Ukraine phải cấm “chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa Quốc Xã, chủ nghĩa tân
Quốc Xã, và chủ nghĩa dân tộc hung hăng” – và, để đạt được mục tiêu đó, phải
bãi bỏ sáu đạo luật của Ukraine (toàn bộ hoặc một phần) có liên quan đến các
khía cạnh gây tranh cãi của lịch sử thời kỳ Xô-viết, cụ thể là vai trò của những
người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraine trong Thế chiến II.
Có thể hiểu tại sao Ukraine lại phản đối việc để Nga quyết định
các chính sách dựa trên ký ức lịch sử của mình, đặc biệt trong bối cảnh một
hiệp ước về đảm bảo an ninh. Và phía Nga cũng biết những điều khoản này sẽ gây
khó khăn cho người Ukraine trong việc chấp nhận phần còn lại của hiệp ước. Do
đó, chúng có thể được xem là những “viên thuốc độc.”
Tuy nhiên, cũng có thể các điều khoản này nhằm mục đích giúp
Putin giữ thể diện. Chẳng hạn, bằng cách buộc Ukraine bãi bỏ các đạo luật lên
án quá khứ thời Liên Xô và xem những người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraine đã
chiến đấu với Hồng Quân trong Thế chiến II là những người đấu tranh cho tự do,
Điện Kremlin có thể lập luận rằng họ đã đạt được mục tiêu đã đề ra là “phi phát
xít hóa,” dù ý nghĩa ban đầu của cụm từ đó có lẽ là việc lật đổ chính phủ của
Zelensky.
Sau cùng, vẫn chưa rõ liệu có phải những điều khoản
này đã khiến thỏa thuận đổ vỡ hay không. Trưởng đoàn đàm phán Ukraine,
Arakhamia, sau đó đã hạ thấp tầm quan trọng của chúng. Ông nói trong một cuộc
phỏng vấn vào tháng 11/2023 trên một chương trình tin tức truyền hình Ukraine,
rằng Nga đã “hy vọng cho đến giây phút cuối cùng rằng họ [có thể] ép chúng ta
ký một thỏa thuận như vậy, rằng chúng ta [sẽ] chấp nhận trung lập. Đây là điều
quan trọng nhất đối với họ. Họ sẵn sàng kết thúc chiến tranh nếu chúng ta, giống
như Phần Lan [trong Chiến tranh Lạnh], giữ thái độ trung lập và cam kết không
gia nhập NATO.”
Quy mô và cơ cấu của quân đội Ukraine cũng là chủ đề được đàm
phán căng thẳng. Tính đến ngày 15/04, hai bên vẫn có quan điểm quá khác biệt về
vấn đề này. Ukraine muốn có một đội quân thời bình gồm 250.000 người, nhưng Nga
nhất quyết rằng con số tối đa là 85.000, nhỏ hơn đáng kể so với quân đội thường
trực mà Ukraine có trước cuộc xâm lược năm 2022. Ukraine muốn có 800 xe tăng,
nhưng Nga chỉ cho phép 342. Sự khác biệt giữa tầm bắn của tên lửa thậm chí còn
lớn hơn, 280 km (yêu cầu của Ukraine), và chỉ 40 km (yêu cầu của Nga).
Tuy nhiên, quá trình đàm phán đã cố tình bỏ qua vấn đề biên giới
và lãnh thổ. Rõ ràng, ý tưởng là để Putin và Zelensky quyết định những vấn đề
đó tại hội nghị thượng đỉnh đã lên kế hoạch. Nhiều khả năng, Putin sẽ nhất
quyết đòi giữ toàn bộ lãnh thổ mà lực lượng của ông đã chiếm đóng. Câu hỏi đặt
ra là liệu Zelensky có thể bị thuyết phục để đồng ý với việc chiếm đất này hay
không.
Bất chấp những bất đồng đáng kể này, dự thảo ngày 15/04 gợi ý
rằng hiệp ước sẽ được ký trong vòng hai tuần. Tất nhiên, ngày tháng vẫn có thể
thay đổi, nhưng điều đó cho thấy hai bên đã lên kế hoạch tiến hành nhanh chóng.
“Giữa tháng 4/2022, chúng tôi đã tiến rất gần đến việc kết thúc cuộc chiến bằng
một thoả thuận hòa bình,” một trong những nhà đàm phán Ukraine, Oleksandr
Chalyi, kể lại trong lần xuất hiện trước công chúng vào tháng 12/2023. “Một
tuần sau khi Putin bắt đầu gây hấn, ông ấy kết luận rằng mình đã phạm sai lầm
lớn, và cố gắng làm mọi cách có thể để đạt được một thỏa thuận với Ukraine.”
CHUYỆN GÌ ĐÃ XẢY RA?
Vậy thì tại sao đàm phán lại đổ vỡ? Putin tuyên bố rằng các
cường quốc phương Tây đã can thiệp và huỷ hoại thỏa thuận vì họ quan tâm đến
việc làm suy yếu nước Nga hơn là chấm dứt chiến tranh. Ông cáo buộc rằng Boris
Johnson, khi đó là Thủ tướng Anh, đã thay mặt “thế giới Anglo-Saxon” gửi thông
điệp này tới người Ukraine, rằng họ phải “chiến đấu với Nga cho đến khi đạt
được chiến thắng và Nga phải gánh chịu thất bại chiến lược.”
Phản ứng của phương Tây đối với cuộc đàm phán này, dù khác xa
với mô tả của Putin, nhưng chắc chắn là rất lãnh đạm. Washington và các đồng
minh hết sức nghi ngờ về triển vọng của con đường ngoại giao ở Istanbul. Xét
cho cùng, thông cáo đã bỏ qua vấn đề lãnh thổ và biên giới, và các bên vẫn có
quan điểm khác biệt về nhiều vấn đề quan trọng khác. Đối với phương Tây, dường
như đây không phải là một cuộc đàm phán sẽ thành công.
Hơn nữa, một cựu quan chức Mỹ phụ trách chính sách đối với
Ukraine vào thời điểm đó đã tiết lộ với chúng tôi rằng Ukraine đã không tham
khảo ý kiến của Washington mãi cho đến khi thông cáo được ban hành, dù hiệp ước
được mô tả sẽ tạo ra các cam kết pháp lý mới cho Mỹ – bao gồm cả nghĩa vụ gây
chiến với Nga nếu nước này xâm lược Ukraine một lần nữa. Chỉ riêng điều khoản
đó thôi cũng đủ khiến hiệp ước trở thành một điều không thể chấp nhận đối với
Washington. Vì vậy, thay vì ủng hộ Thông cáo Istanbul và tiến trình ngoại giao
sau đó, phương Tây lại tăng cường viện trợ quân sự cho Kyiv và gia tăng áp lực
lên Nga, bao gồm cả việc thông qua chế độ trừng phạt ngày càng nặng.
Vương quốc Anh đã dẫn đầu nỗ lực này. Vào ngày 30/03, Johnson
thể hiện việc không ủng hộ giải pháp ngoại giao khi nói rằng “chúng ta nên tiếp
tục tăng cường các biện pháp trừng phạt với một chương trình gồm nhiều giai
đoạn, cho đến khi không còn một người lính nào của Putin ở lại Ukraine.” Sang
ngày 09/04, Johnson xuất hiện ở Kyiv, trở thành nhà lãnh đạo nước ngoài đầu
tiên đến thăm thủ đô Ukraine sau khi Nga ngừng chiến dịch chiếm Kyiv. Theo báo
cáo, ông nói với Zelensky rằng “bất kỳ thỏa thuận nào với Putin cũng là thoả
thuận đi vào ngõ cụt.” Johnson nói rằng bất kỳ thỏa thuận nào “cũng là một
chiến thắng đối với ông ta, nếu anh đưa cho ông ta bất cứ thứ gì, ông ta sẽ chỉ
giữ nó, cất nó đi, rồi sau đó chuẩn bị cho cuộc tấn công tiếp theo.” Trong cuộc
phỏng vấn năm 2023, Arakhamia đã nổi giận và buộc Johnson phải chịu trách nhiệm
về kết quả này. “Khi chúng tôi trở về từ Istanbul,” ông nói, “Boris Johnson đã
đến Kyiv và nói rằng chúng tôi sẽ không ký bất cứ thứ gì với [Nga] – và hãy cứ
tiếp tục chiến đấu.”
Kể từ đó, Putin đã liên tục sử dụng phát biểu của Arakhamia để
đổ lỗi rằng phương Tây khiến đàm phán thất bại, và xem nó như bằng chứng cho sự
phục tùng của Ukraine đối với những người ủng hộ nước này. Bất chấp trò thao
túng của Putin, Arakhamia đã chỉ ra vấn đề thực sự: bản thông cáo mô tả một
khuôn khổ đa phương đòi hỏi phương Tây sẵn sàng can dự ngoại giao với Nga và
xem xét một sự đảm bảo an ninh thực sự cho Ukraine. Đó không phải là ưu tiên
hàng đầu của Mỹ và các đồng minh vào thời điểm đó.
Trong những nhận xét công khai của mình, người Mỹ chưa bao giờ
coi thường ngoại giao như Johnson đã từng làm. Nhưng họ dường như không coi đó
là trọng tâm trong phản ứng của họ trước cuộc xâm lược của Nga. Ngoại trưởng
Antony Blinken và Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin đã đến thăm Kyiv hai tuần
sau Johnson, chủ yếu là để phối hợp hỗ trợ quân sự. Như lời phát biểu của
Blinken tại một cuộc họp báo sau đó, “Chiến lược mà chúng tôi triển khai – hỗ
trợ mạnh mẽ cho Ukraine, gây áp lực lớn lên Nga, đoàn kết với hơn 30 quốc gia
tham gia vào những nỗ lực này – đang mang lại kết quả thực sự.”
Tuyên bố rằng phương Tây đã ép Ukraine rút lui khỏi đàm phán với
Nga là vô căn cứ. Nó cho thấy Kyiv không có tiếng nói gì trong vấn đề này. Đúng
là những lời đề nghị hỗ trợ của phương Tây đã củng cố quyết tâm của Zelensky,
và sự thiếu nhiệt tình của phương Tây dường như đã làm giảm mức độ quan tâm của
Zelensky đối với ngoại giao. Tuy nhiên, xét cho cùng, trong các cuộc thảo luận
với các nhà lãnh đạo phương Tây, Zelensky đã không ưu tiên theo đuổi biện pháp
ngoại giao với Nga để chấm dứt chiến tranh. Cả Mỹ và các đồng minh đều không
nhận thấy rằng Zelensky muốn họ phải tham gia vào con đường ngoại giao một cách
tích cực. Vào thời điểm đó, xét đến sự cảm thông rộng rãi của công chúng phương
Tây, việc thúc ép một giải pháp ngoại giao như vậy có thể ảnh hưởng đến chính
sách của phương Tây.
Zelensky cũng vô cùng phẫn nộ trước những hành động tàn bạo của
Nga tại Bucha và Irpin, và có lẽ ông hiểu rằng điều mà ông gọi là “cuộc diệt
chủng” của Nga ở Ukraine sẽ khiến thoả thuận ngoại giao với Moscow trở nên khó
khăn hơn về mặt chính trị. Tuy nhiên, đằng sau hậu trường, công việc soạn thảo
hiệp ước vẫn tiếp tục và thậm chí còn được tăng cường trong những ngày và tuần
sau khi tội ác chiến tranh của Nga bị phát hiện, cho thấy rằng sự tàn bạo ở
Bucha và Irpin chỉ là yếu tố thứ yếu trong quá trình ra quyết định của Kyiv.
Niềm tin mới xuất hiện của người Ukraine, rằng họ có thể giành
chiến thắng trong cuộc chiến, rõ ràng cũng đóng một vai trò nào đó. Việc Nga
rút khỏi Kyiv và các thành phố lớn khác ở phía đông bắc và triển vọng có thêm
vũ khí từ phương Tây (vì những con đường vào Kyiv giờ đây do Ukraine kiểm soát)
đã giúp thay đổi cán cân quân sự. Sự lạc quan về những lợi ích có thể đạt được
trên chiến trường thường làm giảm sự quan tâm của một bên tham chiến đối với
những thỏa hiệp trên bàn đàm phán.
Quả thật, từ cuối tháng 4, Ukraine bắt đầu tỏ ra cứng rắn hơn,
yêu cầu Nga rút quân khỏi Donbas như điều kiện tiên quyết cho bất kỳ hiệp ước
nào. Như Oleksii Danilov, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh Quốc gia
Ukraine, đã phát biểu vào ngày 02/05, “Một hiệp ước với Nga là không thể – chỉ
có thể chấp nhận đầu hàng.”
Các nhà đàm phán Nga và Ukraine gặp nhau ở Istanbul, tháng
3/2022 © Văn phòng Báo chí của Tổng thống Ukraine / Reuters
Ngoài ra, còn có câu chuyện từ phía người Nga, vốn rất khó đánh
giá. Phải chăng toàn bộ cuộc đàm phán này là một vở kịch được dàn dựng khéo
léo, hay Moscow thực sự quan tâm đến một giải pháp? Liệu Putin có suy nghĩ lại
khi biết rằng phương Tây sẽ không ký vào thoả thuận, hay lập trường của Ukraine
đã cứng rắn hơn?
Ngay cả khi Nga và Ukraine giải quyết được bất đồng, khuôn khổ
mà họ đàm phán ở Istanbul vẫn cần có sự đồng thuận từ Mỹ và các đồng minh của
nước này. Và các cường quốc phương Tây đó sẽ phải chấp nhận rủi ro chính trị
bằng cách tham gia vào cuộc đàm phán với Nga và Ukraine, đồng thời đặt uy tín
của họ vào thử thách bằng cách đảm bảo an ninh cho Ukraine. Vào thời điểm đó,
và trong suốt hai năm qua, ý chí sẵn sàng thực hiện các giải pháp ngoại giao
rủi ro, hoặc thực sự cam kết bảo vệ Ukraine trong tương lai, gần như không hề
tồn tại ở Washington và các thủ đô châu Âu.
Lý do cuối cùng khiến cho đàm phán thất bại là do các nhà đàm
phán đã cầm đèn chạy trước ô tô khi đặt trật tự an ninh thời hậu chiến lên
trước việc kết thúc chiến tranh. Hai bên đã bỏ qua các vấn đề thiết yếu về quản
lý và giảm thiểu xung đột (thiết lập hành lang nhân đạo, ngừng bắn, rút quân)
và thay vào đó, cố gắng tạo ra một thứ giống như một hiệp ước hòa bình lâu dài,
nhằm giải quyết các tranh chấp an ninh vốn là nguồn gốc của căng thẳng địa
chính trị suốt hàng chục năm qua. Đó là một nỗ lực đáng ngưỡng mộ – nhưng lại
quá tham vọng.
Công bằng mà nói, Nga, Ukraine, và phương Tây đã thử làm điều
ngược lại – và cũng thất bại thảm hại. Các thỏa thuận Minsk được ký vào năm
2014 và 2015 sau khi Nga sáp nhập Crimea và xâm chiếm Donbas gồm toàn những chi
tiết vụn vặt, như ngày giờ chấm dứt chiến sự, và hệ thống vũ khí nào sẽ được
rút đi, với khoảng cách bao nhiêu. Quan ngại an ninh cốt lõi của cả hai bên chỉ
được giải quyết một cách gián tiếp, nếu có.
Câu chuyện này cho thấy rằng các cuộc đàm phán trong tương lai
nên được triển khai theo nhiều kênh song song, trong đó tính thực tế của việc
chấm dứt chiến tranh sẽ được giải quyết theo một kênh đàm phán riêng, trong khi
các vấn đề rộng hơn sẽ được giải quyết theo một kênh khác.
HÃY GHI NHỚ BÀI HỌC
Ngày 11/04/2024, Lukashenko, trung gian ban đầu của đàm phán hòa
bình Nga-Ukraine, đã kêu gọi các bên quay trở lại với dự thảo hiệp ước từ mùa
xuân năm 2022. “Đó là một thoả thuận hợp lý,” ông nói trong cuộc trò chuyện với
Putin ở Điện Kremlin. “Đó cũng là một thoả thuận có thể chấp nhận được đối với
Ukraine. Họ đã đồng ý với thoả thuận này.”
Putin đáp, “Tất nhiên là họ đã đồng ý.”
Trên thực tế, Nga và Ukraine chưa bao giờ đi đến một văn bản
thỏa hiệp cuối cùng. Nhưng họ đã đi xa hơn so với những gì chúng ta nghĩ trước
đây, đạt được một khuôn khổ tổng thể cho một thỏa thuận khả thi.
Sau hai năm tàn sát vừa qua, nhắc lại điều này chỉ như nước chảy
qua cầu. Nhưng đó là một lời nhắc nhở rằng Putin và Zelensky từng sẵn sàng xem
xét những thỏa hiệp đặc biệt để chấm dứt chiến tranh. Vì vậy, nếu và khi Kyiv
và Moscow quay trở lại bàn đàm phán, họ sẽ thấy bàn đàm phán tràn ngập những ý
tưởng có thể hữu ích cho việc xây dựng một nền hòa bình lâu dài.
--------------------
Samuel Charap là giám đốc về Chính
sách Nga và Á-Âu, đồng thời là nhà khoa học chính trị cấp cao tại Tập đoàn
RAND.
Sergey Radchenko là giáo sư tại Trường
Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp của Đại học Johns Hopkins ở Châu Âu.
Nguồn: Samuel Charap và Sergey Radchenko, “The
Talks That Could Have Ended the War in Ukraine,” Foreign Affairs,
16/04/2024
No comments:
Post a Comment