Lời
mời tổng thống Nga Putin thăm Việt Nam và thế cân bằng khó khăn của Hà Nội
Thanh Phương - RFI
Đăng
ngày: 22/04/2024 - 14:44
Theo
báo chí trong nước, ngày 26/03/2024, trong một cuộc điện đàm, tổng bí thư đảng
Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã mời tổng thống Nga Vladimir Putin “sớm
thăm chính thức Việt Nam” và ông Putin đã nhận lời. Cho đến nay, tổng
thống Putin đã đến thăm Việt Nam 4 lần, gần đây nhất là nhân thượng đỉnh APEC ở
Đà Nẵng năm 2017.
Ảnh
tư liệu: Chủ tịch nước của Việt Nam Võ Văn Thưởng (T) và tổng thống Nga
Vladimir Putin trong cuộc gặp bên lề Diễn đàn Vành đai và Con đường tại Bắc
Kinh, Trung Quốc, ngày 17/10/2023. AP - Grigory Sysoyev
Hiện
giờ chưa biết khi nào ông Putin sẽ đi thăm Việt Nam. Theo thông cáo của Ban Đối
ngoại Trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam, hai bên “sẽ phối hợp thu xếp
thời điểm thích hợp” cho chuyến đi này.
Trong
cuộc điện đàm nói trên, lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định Việt Nam
vẫn “trân trọng sự giúp đỡ to lớn của Liên bang Nga trong Liên Xô trước
đây cũng như ngày nay” cho Việt Nam. Ông Nguyễn Phú Trọng còn nhấn mạnh
Việt Nam xác định quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện với Nga là “một
trong những ưu tiên hàng đầu” trong chính sách đối ngoại của mình.
Việt
Nam và Nga đã thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1950 và đến năm 2012 đã nâng
quan hệ lên thành Đối tác Chiến lược Toàn diện, mức cao nhất trong quan hệ giữa
Việt Nam với các nước.
Cuộc
chiến tranh xâm lược Ukraina do tổng thống Vladimir Putin phát động vào tháng
2/2022 đã đặt Hà Nội vào thế khó xử, nhưng cho tới nay Việt Nam vẫn cố giữ thái
độ trung lập, theo đúng chính sách ngoại giao được mệnh danh là ngoại giao "cây
tre".
Trong
bài viết mang tựa đề “Việt Nam và chiến tranh Nga-Ukraina: “Ngoại giao
cây tre” của Hà Nội thành công nhưng thách thức vẫn còn”, được đăng vào
tháng 02/2024 trên trang mạng của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore, nhà
nghiên cứu cao cấp Ian Storey của Viện này ghi nhận:
"Giữa
hai bên tham chiến, duy trình quan hệ với Nga rõ ràng là ưu tiên hàng đầu của
Việt Nam. Nhưng để phù hợp với chính sách ngoại giao "cây tre" của
mình, Hà Nội cũng đã cẩn thận để không làm mất lòng Kiev. Tại hội nghị thượng đỉnh
G7 ở Hiroshima vào tháng 5/2023, mà Nhật Bản mời cả Việt Nam và Ukraina, thủ tướng
Phạm Minh Chính trong cuộc gặp với tổng thống Volodymyr Zelensky đã nói rằng Việt
Nam coi trọng mối quan hệ với Ukraina và về xung đột Nga-Ukraina, lập trường của
Hà Nội là tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hiệp Quốc."
Việt
Nam mời tổng thống Nga đến thăm mặc dù vào tháng 3 năm ngoái, Tòa án Hình sự Quốc
tế đã phát lệnh bắt giữ ông. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 18/04/2024, nhà nghiên cứu
Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore, giải thích vì sao Việt Nam
mời tổng thống Putin sang thăm trong lúc này mà không ngại phản ứng của các nước
phương Tây, nhất là của Mỹ:
"Bản
thân tôi cũng cảm thấy khá bất ngờ với lời mời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
mời tổng thống Putin sang thăm Việt Nam trong bối cảnh Nga đang bị Mỹ và các nước
phương Tây khác cấm vận và cô lập trên trường quốc tế. Có lẽ và bản thân ông
Putin muốn phát triển quan hệ với các nước đối tác truyền thống như Việt Nam để
giảm sức ép quốc tế để thể hiện nước Nga vẫn có bạn bè, đối tác và có thể vượt
qua được các áp lực, cấm vận từ phương Tây.
Trong
bối cảnh ấy cũng dễ hiểu khi mà Nga chọn Việt Nam để tăng cường quan hệ. Chính
vì vậy mà có lẽ Việt Nam cũng đã chịu một ít sức ép từ phía Nga trong việc gởi
lời mời ông Putin sang thăm Việt Nam. Có lẽ Hà Nội cũng sẽ cảm thấy bất tiện
khi mời ông Putin sang thăm lần này trong bối cảnh cuộc chiến Ukraina vẫn đang
diễn ra như vậy và bản thân ông Putin cũng đang bị Tòa án Hình sự Quốc tế truy
nã.
Bên
cạnh sức ép của Nga thì có thể Việt Nam cũng cân nhắc các động lực khác, vì hiện
nay Việt Nam cũng có một số lợi ích trong quan hệ với Nga mà Việt Nam muốn duy
trì, như là Việt Nam vẫn sử dụng nhiều loại vũ khí có nguồn gốc từ Nga, hay là
Việt Nam có các khoản đầu tư lớn vào Nga trong các lĩnh vực như năng lượng, hay
nông phẩm.
Chuyến
thăm lần này không đơn thuần là nhằm tăng cường quan hệ hai nước, mà Việt Nam
muốn có chuyến thăm nhằm giải quyết một số vấn đề vướng mắc trong quan hệ song
phương. Chúng ta còn cần thời gian để xem, nhưng trước mắt, Việt Nam có thể là
không hoàn toàn thoải mái với chuyến thăm này. Điều này được thể hiện qua việc
Việt Nam vẫn cố gắng tuân thủ một số yêu cầu từ phương Tây trong việc trừng phạt
Nga. Theo tôi hiểu thì hiện tại Việt Nam vẫn chưa nối lại các đường bay thẳng tới
Nga kể từ khi Nga xâm lược Ukraina tháng 02/2022. Điều đó cho thấy vị thế của
Việt Nam khá là nhạy cảm trong việc cân bằng quan hệ giữa Nga với các đối tác
phương Tây, đặc biệt là Mỹ và các nước châu Âu."
Trong
bài viết nói trên, nhà nghiên cứu Ian Storey nhận định:
“Cuộc
xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraina vào tháng 2/2022 là một cuộc trắc nghiệm
đối với chính sách ngoại giao 'cây tre' của Việt Nam, làm gia tăng căng thẳng
giữa đối tác cũ của Hà Nội là Nga và các đối tác mới ở phương Tây, cũng như giữa
phương Tây và đối thủ truyền thống của Việt Nam là Trung Quốc. Để đối phó với
cuộc xâm lược, Việt Nam đã áp dụng quan điểm trung lập về cơ bản để tự bảo vệ
mình khỏi các tranh chấp giữa các nước lớn phát sinh từ chiến tranh, duy trì mối
quan hệ ổn định với tất cả các bên tham gia chính và các bên liên quan, đồng thời
bảo vệ lợi ích quốc gia của mình.”
Như
vậy là cho tới nay, Việt Nam vẫn cố giữ lập trường trung lập đối với xung đột
Ukraina - Nga, một phần cũng vì Hà Nội đều có quan hệ tốt với cả hai bên. Nhưng
nếu chiến tranh kéo dài nhiều tháng hoặc nhiều năm nữa, liệu lập trường đó có
thể đứng vững được không? Nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp nhận định:
"Việt
Nam vẫn có lợi ích rất lớn trong việc giữ lập trường trung lập trong cuộc chiến
giữa Nga với Ukraina. Tuy nhiên, khi chiến tranh càng kéo dài, việc giữ vị thế
trung lập ấy sẽ ngày càng khó khăn hơn do áp lực từ cả hai phía đối với Việt
Nam ngày càng gia tăng.
Trong
thời gian đầu sau cuộc xâm lược của Nga vào Ukraina thì có vẻ như Việt Nam đồng
cảm với Nga hơn, nghiêng về Nga nhiều hơn. Nhưng theo thời gian thì Việt Nam dần
dần quay lại vị thế trung lập. Không loại trừ khả năng là trong tương lại, khi
cuộc chiến kéo dài, gây ra các thiệt hại về lợi ích, về hình ảnh, Việt Nam sẽ
ngày càng giữ khoảng cách với Nga.
Điều
này xuất phát từ thực tế: cho dù Nga là đối tác truyền thống của Việt Nam đã hỗ
trợ Nga rất nhiều trong quá khứ, nhưng hiện tại tầm quan trọng của Nga đối với
Việt Nam, đặc biệt là về kinh tế, không lớn, đặc biệt là so sánh với các đối
tác như Mỹ và châu Âu, những bạn hàng và thị trường xuất khẩu quan trọng hàng đầu
của Việt Nam. Các nước phương Tây cũng là nguồn đầu tư mà Việt Nam rất mong muốn
thu hút.
Chính
vì vậy mà Việt Nam sẽ không thể làm ngơ trước các áp lực ngoại giao của Mỹ và
phương Tây nói chung trong quan hệ với Việt Nam. Phía Việt Nam cũng sẽ rất mong
muốn Nga sẽ sớm kết thúc cuộc chiến Ukraina. Tuy nhiên điều này khó có thể xảy
ra trong thời gian trước mắt. Cho nên, việc Việt Nam giữ thế trung lập của mình
với Nga và phương Tây sẽ ngày càng khó khăn hơn và sẽ đòi hỏi rất nhiều kỹ năng
khéo léo về mặt chiến lược của Việt Nam."
Mặt
khác, N ga hiện nay vẫn là nguồn cung cấp vũ khí chính yếu của Việt Nam. Việc
Nga bị quốc tế trừng phạt, cấm vận có gây nhiều khó khăn cho Việt Nam trong việc
hiện đại hóa quân đội, nhất là trong việc thay thế những vũ khí từ thời Liên Xô
nay đã sắp hết hạn sử dụng, chẳng hạn như các chiến đấu cơ? Nhà nghiên cứu Lê Hồng
Hiệp giải đáp:
"Các
vũ khí của Nga đã được Việt Nam sử dụng hàng chục năm nay, kể từ thời chiến
tranh lạnh cho đến nay, cho nên kể cả khi Việt Nam không mua mới từ Nga thì Việt
Nam vẫn phụ thuộc vào Nga về việc bảo trì, bảo dưỡng các trang thiết bị này. Ví
dụ như Việt Nam trông thời gian qua đã có một số khó khăn trong việc bảo trì, bảo
dưỡng, sửa chữa các tàu ngầm mà Việt Nam đã mua từ Nga. Trong một số lĩnh vực,
Việt Nam phải phụ thuộc vào một số dịch vụ từ các bên thứ ba, ví dụ như Ấn Độ.
Bây
giờ làm sao giải quyết được vấn đề này trong quan hệ với Nga, vừa có thể giúp
Việt Nam hiện đại hóa lực lượng của mình trong thời gian tới? Đó là một bài
toán rất là khó đối với Việt Nam. Nếu Việt Nam tiếp tục mua vũ khí từ Nga thì sẽ
vi phạm các lệnh cấm vận của phương Tây và có thể làm sứt mẻ quan hệ của Việt
Nam với phương Tây. Còn nếu Việt Nam ngưng các hoạt động hợp tác quốc phòng với
Nga thì sẽ không chỉ gây khó khăn cho quá trình hiện đại hóa quân đội Việt Nam
và có thể ảnh hưởng đến các hoạt động bảo trì, bảo dưỡng các vũ khí của Nga mà
Việt Nam đang sử dụng.
Tuy
nhiên, về dài hạn, Việt Nam sẽ phải tìm mọi cách để giảm sự phụ thuộc vào Nga.
Trong bối cảnh đang bị cấm vận, năng lực của Nga cung cấp các vũ khí, các trang
thiết bị mà Việt Nam mong muốn sẽ bị hạn chế. Vi phạm các lệnh trừng phạt của
quốc tế cũng không phải là điều mà Việt Nam mong muốn. Chính vì Việt Nam hiện
cũng đang tìm cách mở rộng quan hệ thương mại, quốc phòng với các đối tác mới,
ví dụ như Israel, Hàn Quốc hay kể cả Mỹ, Nhật và các nước Đông Âu vẫn có các mặt
hàng tương thích với các vũ khí của Nga mà Việt Nam đang sử dụng. Tuy nhiên,
cũng có một số khó khăn về chi phí, đặc biệt là rất cao, nếu mua các vũ khí của
Mỹ và châu Âu. Ngoài ra còn có vấn đề tương thích giữa các vũ khí, các hệ thống
mới với các hệ thống của Nga mà Việt Nam đang sử dụng.
Các
triển lãm quốc phòng mà Việt Nam tổ chức gầy đây cho thấy ý định của Việt Nam
đa dạng hóa các nguồn cung. Tuy nhiên Việt Nam cần có thêm thời gian để làm tốt
việc này. Chính vì vậy, trong thời gian trước mắt, ít nhất là trong 5-10 năm tới,
sự phụ thuộc của Việt Nam vào các vũ khí của Nga có thể sẽ không giảm quá nhanh
và quá nhiều."
Nhà
nghiên cứu Ian Storey cũng cho rằng xung đột Nga-Ukraina đặt ra những thách thức
về trung và dài hạn cho quân đội Việt Nam, vốn dựa nhiều vào vũ khí của Nga.
Theo ông, xung đột này cũng ảnh hưởng đến tranh chấp kéo dài giữa Việt Nam với
Trung Quốc ở Biển Đông, do Nga ngày càng phụ thuộc vào đối tác chiến lược Trung
Quốc.
Ông
Ian Storey nhận định việc tăng cường quan hệ chiến lược Nga - Trung ảnh hưởng đến
Việt Nam nhiều hơn bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào khác. Hà Nội lo ngại Bắc Kinh
có thể sử dụng mối quan hệ với Matxcơva để làm suy yếu lợi ích của Việt Nam.
Trong
cuộc đối đầu với Trung Quốc, như vậy liệu iệt Nam có thể đặt tin tưởng vào đối
tác Nga? Nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp nhận định:
"Việc
Nga ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc trong bối cảnh họ đang bị bao vây, cô lập,
cấm vận của phương Tây là một rủi ro mà Việt Nam phải cân nhắc khi tăng cường
hay duy trì quan hệ với Nga. Trung Quốc là đối tác lớn hơn Việt Nam rất nhiều đối
với Nga, cho nên khi cần phải cân nhắc hay đánh đổi giữa quan hệ với Trung Quốc
và quan hệ với Việt Nam, tôi tin chăc là Nga sẽ ưu tiên quan hệ với Trung Quốc
và điều này phần nào được thể hiện qua thái độ của Nga đối với tranh chấp Biển
Đông. Đã có một số lần phía Nga thể hiện lập trường ủng hộ các yêu sách của
Trung Quốc ở Biển Đông làm phương hại đến các lợi ích của Việt Nam.
Tôi
nghĩ là động lực này sẽ không thay đổi, thậm chí rủi ro còn trở nên cao hơn đối
với Việt Nam, nhất là khi mà chiến tranh Ukraina kéo dài và làm cho sự phụ thuộc
của Nga vào Trung Quốc ngày càng lớn và ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Nga
ngày càng tăng. Đó là một lý do mà tôi nghĩ là Việt Nam cần phải nhanh chóng giảm
sự phục thuộc vào Nga, đặc biệt là về nguồn cung vũ khí, để có thể có sự tự chủ
chiến lược lớn hơn trong quan hệ với Nga và Trung Quốc. Nói chung Việt Nam cần
phải thận trọng, thực tế hơn trong quan hệ với Nga, không nên để các yếu tố cảm
tính át đi lý trí, vì suy cho cùng, đối với Việt Nam, lợi ích quốc gia vẫn là tối
thượng trong việc định đoạt chính sách của mình đối với các quốc gia khác nói
chung và với Nga và Trung Quốc nói riêng."
No comments:
Post a Comment