Thận Nhiên | Báo Tiếng Dân
20/04/2024
https://baotiengdan.com/2024/04/20/ta-loi-truong-son/
Một
khuya, chúng tôi ngồi quán vỉa hè Sài Gòn sau cuộc rượu muộn, Đỗ Trung Quân đọc
cho anh Quốc và tôi nghe bài thơ dưới đây. Quen nhau khá lâu, tôi chỉ nghe Quân
hát khi cao hứng, thường anh kể chuyện tiếu lâm, nhại giọng lãnh tụ, và nói đùa
rất có duyên. Đây là lần đầu, và chắc là lần duy nhất, tôi nghe anh đọc thơ,
bài thơ duy nhất mà anh thuộc, về “Sài Gòn Hậu 75”.
***
TẠ
LỖI TRƯỜNG SƠN
1.
Một
ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các
anh từ Bắc vào Nam
Cuộc
trường chinh 30 năm dằng dặc
Các
anh đến
Và
nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của
xì ke, gái điếm, cao bồi
Của
tình dục, ăn chơi
“Hiện
sinh – buồn nôn – phi lý!!!”
Các
anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính nguỵ
Con
gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các
anh bảo Sai Gòn là trang sách “hư vô”
Văn
hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi
bút các anh thay súng
Bắn
điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào
những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các
anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các
anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là
thiêu thân uỷ mị, yếu hèn
Các
anh hùa nhau lập toà án bằng văn chương
Mang
tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
2.
Tội
nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội
nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có
anh thợ điện ra đi không về
Tội
nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa
khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội
nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi
từ tuổi hai mươi
Nhận
hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có
ai hỏi những hàng dương xanh
Xem
đã bao nhiêu người Sài Gòn hoá thân vào sóng nước
Tội
nghiệp những đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những
“người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội
nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo
chùng đen đẫm máu
Tội
nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
Những
vị giáo sư trên bục giảng đường
Ưu
tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài
Gòn của tôi – của chúng ta.
Có
tiếng cười
Và
tiếng khóc.
3.
Bảy
năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một
góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những
con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời
lương thiện
Những
gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm
lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc
đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…
4.
Và
khi ấy
Thì
chính “các anh”
Những
người nhân danh Hà Nội
Các
anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi
đã đời
Chửi
hả hê
Chửi
vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình
Các
anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi
có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội
nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những
bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những
bà mẹ làm ra hạt lúa
Những
năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những
bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
Để
những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây
giờ
Những
đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang
nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các
anh
Đang
ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã
bờm xờm râu tóc, cũng quần jeans xắn gấu
Cũng
phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các
anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, cassette, radio…
Bia
ôm và gái
Các
anh ngông nghênh tuyên ngôn ”khôn và dại”
Các
anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các
anh cũng chạy đứt hơi
Rượt
bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài
Gòn 1982 lẽ nào…
Lại
bắt đầu ghẻ lở?
5.
Tội
nghiệp em
Tội
nghiệp anh
Tội
nghiệp chúng ta những người thành phố
Những
ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những
ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”
Để
tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
6.
Xin
ngả nón chào các ngài
“Quan
toà trong sạch”
Xin
các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình
thản đổi thay lốt cũ
Hãy
để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn
nhiên xanh muôn thưở
Để
yên cho xương rồng, gai góc
Chân
thật nở hoa.
Này
đây!
Xin
đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi
một góc (chỉ một góc thôi)
Sài
Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây
giờ…
Tin
chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào”thượng đế”
Khi
sống hả hê giữa một thiên đường
Ai
bây giờ
Sẽ
Tạ
lỗi
Với
Trường Sơn?
ĐỖ
TRUNG QUÂN – 1982
***
Lời
tác giả khi công bố bài thơ năm 2009: Đã 34 năm trôi qua. Hoà bình cũng dài
ngang bằng cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Chưa có cuộc chiến
nào ám ảnh một dân tộc cho bằng cuộc chiến tranh này, nó thay đổi hình thái xã
hội. Thay đổi số phận con người.
Công
bố bài thơ viết năm 27 tuổi, bảy năm sau hoà bình (1982). Nay nhìn lại, tôi
cũng không hiểu điều gì đã dẫn dắt cho những dòng chữ này. Khi làm xong nghĩa vụ
một thanh niên thời hậu chiến, người có lý lịch may mắn không vướng phải chuyện
lính tráng dù thế hệ tôi sau “mùa hè đỏ lửa 1972” hầu hết cũng đã “yên vị” khói
hương trên bàn thờ gia đình.
Còn
nhớ những năm của thập niên 80, giáo sư Nguyễn Khắc Viện viết một bài đanh thép
trên báo Sài Gòn giải phóng, sen hay bùn về danh xưng khi nào thì gọi là Thành
phố Hồ Chí Minh, khi nào thì gọi là Sài Gòn? Và ông khẳng định cái tốt thì gọi
TP Hồ Chí Minh, cái tệ nạn, cái xấu, cái “tồn đọng” thì gọi là Sài Gòn.
Giáo
sư Nguyễn Ngọc Lan đã đối thoại bằng một bài báo khác (tất nhiên ông không thể
đăng bài phản biện ấy trên báo Sài Gòn Giải Phóng như trong một xã hội bình thường),
ông nhắc rằng hiện tại sau 10 năm giải phóng, thành phố vẫn còn một tờ báo lớn
tiếng nói chính thức của “Đảng bộ và nhân dân thành phố” tờ Sài Gòn Giải Phóng
(nó vẫn còn đến tận hôm nay), còn một nhà máy thuốc lá Sài Gòn, còn một đội
bóng danh tiếng mang tên Cảng Sài Gòn (nay đã không còn)…
Bài
thơ này, có lẽ là cái nhìn đau đớn đầu tiên của một người trẻ tuổi vừa từ chiến
trường K trở về với bao nhiêu hoài bão sau khi chứng kiến những hy sinh cao đẹp
của một thế hệ thanh niên Sài Gòn, những con người thành phố tuổi chỉ mới đôi
mươi…
Hai
mươi bảy tuổi và một bài thơ dài nhất của đời mình…
No comments:
Post a Comment