Thứ
Năm, 04/25/2024 - 10:58 — songchi
https://www.rfavietnam.com/node/8022
Tưởng
Niệm 49 năm biến cố lịch sử ngày 30/4/1975, chúng tôi đã có cuộc
phỏng vấn với hai người có xuất thân, quá trình học hành, kinh
nghiệm sống khác hẳn nhau là Tiến sĩ, dịch giả, nhà nghiên cứu
Nguyễn Quang A từng sống dưới chế độ VNDCCH ở miền Bắc trước đây,
hiện tại đang sống tại Hà Nội, Việt Nam và nhà văn, nhà báo Từ
Thức từng sống dưới chế độ VNCH cũ ở miền Nam, hiện tại đang sống
tại Paris, Pháp.
*
SC: Chế độ Việt Nam Cộng Hòa kết thúc
vào ngày 30/4/1975, đến nay đã gần nửa thế kỷ. Tuy nhiên, nếu chúng ta nói “Việt
Nam Cộng Hòa” không phải là quá khứ mà là tương lai thì các ông nghĩ như thế
nào về câu nói này?
TS
Nguyễn Quang A:
Câu
hỏi lý thú này có một câu trả lời là dứt khoát KHÔNG và một câu trả lời mang
tính gợi ý CÓ.
1. Đầu tiên hãy xét phần
dứt khoát không theo nghĩa hẹp, tức là “Việt Nam Cộng hòa” không phải là tương
lai, bởi vì:
-
Với tư cách một chính thể Việt Nam Cộng hòa đã chấm dứt;
-
Việc dùng tên Việt Nam Cộng hòa cho một chính thể tương lai sẽ gây chia rẽ hơn
nữa trong một đất nước, một dân tộc cần tránh chia rẽ, phân cực hơn bao giờ hết
và vì thế là không thích hợp cho sự hòa giải, thống nhất dân tộc, cho sự phát
triển đất nước;
-
Chính vì thế tôi khuyên tất cả những ai coi trọng sự phát triển đất nước, sự thống
nhất quốc gia dân tộc không nên dùng rhetoric gây chia rẽ, phân cực và cố gắng
làm hết sức mình để vun đắp cho sự thống nhất và sự phát triển của đất nước
trong mọi hoạt động của mình (bất chấp lối nói và hành động của những người
khác ý kiến với mình và không sa đà vào việc tranh cãi mang tính thắng-thua và
thay vào đó cố gắng xây dựng, truyền bá các giá trị hết sức cần thiết cho một
xã hội dân chủ như tự do, công bằng, bình đẳng, trung thực, khoan dung, thỏa hiệp,…;
xây dựng văn hóa tranh luận cân nhắc và văn hóa chính trị lành mạnh).
2. Tuy vậy, hiểu theo
nghĩa rộng, Việt Nam Cộng hòa đã là một chính thể theo hướng dân chủ đầu tiên
trong suốt lịch sử dài của Việt Nam. Theo nghĩa đó, nếu muốn Việt Nam thực sự
dân chủ và tự do thì dứt khoát chính thể tương lai của Việt Nam phải đi theo hướng
đó, tức là đi theo hướng của Việt Nam Cộng hòa, phải học những kinh nghiệm cả
hay và dở của Việt Nam Cộng hòa, nhưng không nên dùng cái tên Việt Nam Cộng hòa
vì những lý do nêu ở phần 1 của câu trả lời, nhưng cũng vì Việt Nam Cộng hòa
chưa phải là một chính thể dân chủ chín muồi thực sự và nửa thế kỷ qua đã có những
biến đổi sâu rộng về công nghệ, xã hội và chính trị mà việc quá lưu luyến quá
khứ đó chưa hẳn là cách hay.
Việc
chọn tên nào cho chính thể tương lai là vấn đề chiến thuật tế nhị và cần được
thảo luận trên tinh thần xây dựng, không gây chia rẽ, phân cực và lấy lợi ích
phát triển quốc gia làm chính. Các tên khả dĩ có thể là Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, một cái tên rất hay nhưng có thể vẫn gây chia rẽ, phân cực; có lẽ Việt Nam
Cộng hòa Dân chủ hay hơn? Hay chẳng nên dùng thêm tính ngữ nào cả mà chỉ tập
trung vào xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ trong đó người
Việt Nam được tự do, hạnh phúc. Đấy là những vấn để cần được thảo luận một cách
xây dựng rộng rãi. Và đó có thể là một mẫu số chung để tất cả hay hầu hết những
người Việt chung sức xây dựng một dự án mới cho đất nước.
Cũng
cần tìm hiểu, nghiên cứu, thảo luận rộng rãi về Việt Nam nên đi theo con đường
dân chủ như thế nào, để người dân có thể hiểu về dân chủ nói chung, dân chủ bầu
cử, dân chủ đại diện, dân chủ thảo luận cân nhắc, dân chủ tham gia vân vân cũng
như các điểm hay điểm dở của chúng đề xuất chúng ta nên xây dựng một nước Việt
Nam dân chủ ra sao để chính họ sáng tạo, thử nghiệm các sáng kiến của chính họ
trong mọi việc kể cả việc quản lý nhà nước ở mức địa phương và quốc gia. Trong
bối cảnh quốc tế hiện nay khi các nền dân chủ đang gặp nhiều thách thức, cần những
cải cách sâu rộng (kể cả việc kết hợp bầu cử với sự “rút thăm”) để xây dựng các
cơ quan nhà nước hay bổ nhiệm các quan chức cấp cao thì việc “nâng cao dân trí”
này càng cấp bách.
Nhà
báo Từ Thức:
Điều
chắc chắn là chế độ tương lai không thể là một chế độc tài, nhất là độc tài
toàn trị, kiểu Cộng sản, hay hậu Cộng sản.
Phải
có một chế độ dân chủ, nhưng dân chủ kiểu nào sẽ do một quốc hội lập hiến, do toàn
dân bầu ra, quyết định. Ngày nay có rất nhiều hình thức dân chủ trên thế giới.
Thí
dụ nước Pháp trao trọn quyền cho tổng thống, quốc hội đóng vai phụ, vì sau đại
chiến thứ 2, Pháp muốn có một tổng thống nhiều quyền hành, để có thể hành động
nhanh chóng.
Hoa
Kỳ cũng theo tổng thống chế, nhưng quyền hạn bị hạn chế bởi quốc hội, nhất là
Thượng Viện.
Tại
nhiều nước khác quốc hội lựa Thủ tướng, tổng thống nếu có, chỉ đóng vai tượng
trưng, không có quyền hình gì; thủ tướng mất chức khi mất đa số ở quốc hội. Bà
Merkel, thủ tướng Đức, có lần chỉ trụ sở quốc hội, nói: ‘’Boss của tôi’’.
Thuỵ
Sĩ theo chế độ dân chủ trực tiếp, những vấn đề lớn đều do dân quyết định qua
trưng cầu dân ý, một chuyện không thể thực hiện ở Pháp, vì dân Pháp bất mãn
kinh niên, khi hỏi ý, đều trả lời ngược lại với chính sách của chính quyền, do
chính họ bầu ra.
Hình
thức dân chủ nào cũng có ưu hay khuyết điểm.
Việt
Nam, trong cái rủi có cái may, là có hàng triệu người đang sống ở hải ngoại, có
thể quan sát, học hỏi, rút kinh nghiệm tại nhiếu quốc gia, để khi có cơ hội, có
thể xây dựng một thể chế thích hợp cho đất nước.
Có
thể lạc quan về chuyện đó, khi thấy Đài Loan chỉ trong vài năm đã xây dựng một
chế độ dân chủ gần như kiểu mẫu, không thua kém gì các nước Tây phương đã bỏ ra
nhiều thế kỷ để thực hiện.
Vấn
đề là bao giờ người Việt có quyền tự chủ?
*
SC:
Theo các ông, những sai lầm lớn nhất của đảng Cộng sản Việt Nam và những di
sản tệ hại nhất mà họ đang và sẽ để lại cho đất nước, dân tộc là gì?
TS
Nguyễn Quang A:
1)
Sử dụng bạo lực [cả vật lý và ngôn từ] và luôn tìm ra những kẻ thù tưởng tượng;
2)
Khi buộc phải sửa sai lầm của chính mình thì thường không thú nhận sai lầm một
cách công khai (nhân văn giai phẩm, sửa chính sách kinh tế [“đổi mới” thực sự
là sự sửa chính sách kinh tế sai lầm nhưng coi là thành công của mình], cải
cách ruộng đất có thừa nhận công khai sai lầm nhưng chưa thành thật,…) góp phần
làm hủy hoại hệ thống đạo đức;
3)Dùng
các khái niệm cùng tên nhưng ngược với cách hiểu chung của thế giới, ngăn chặn
và đàn áp các tiếng nói khác và như thế góp phần làm đảo lộn các giá trị;
4)
Bóp nghẹt tự do và như thế không có đất cho sự sáng tạo thật sự.
Nhà
báo Từ Thức:
Cái
sai lầm lớn nhất và di sản tai hại nhất người Cộng sản để lại cho đất nước là…
đã nhập cảng chế độ Cộng sản.
Câu
trả lời có vẻ lẩm cẩm, nhưng đó là sự thực. Bởi vì chủ nghĩa đó là nguyên nhân
của tất cả những bế tắc của Việt Nam.
Chủ
nghĩa Cộng sản quốc tế phủ nhận khái niệm quốc gia, khiến Việt Nam trước đây
trở thành trường thành của Cộng sản quốc tế, ngày nay càng ngày càng rơi vào quỹ
đạo Trung Quốc, nhất là khi phe đảng cầm quyền ở Việt Nam nghĩ Bắc Kinh là bảo
hiểm sinh mạng của họ.
Chủ
nghĩa Cộng sản chủ trương vô sản chuyên chế, khiến độc tài toàn trị là con đường
duy nhất, việc triệt tiêu những quyền căn bản của con người trở thành quốc
sách, mặc dù ngày nay các nhà lãnh đạo vô sản đã trở thành triệu phú, hay tỷ
phú dollars.
Cộng
sản coi lý thuyết Mác Lê là kim chỉ nam, khiến Việt Nam không có giáo dục, chỉ
có nhồi sọ; coi tất cả những người không nghĩ như họ là kẻ thù, biến Việt Nam
thành một nước không có văn hoá, vì văn hoá cần sáng tạo, sáng tạo cần tự do tối
đa.
Chủ
nghĩa Cộng sản coi tôn giáo là thuốc phiện, coi thuần phong mỹ tục là trò
chơi của giai cấp tư sản bóc lột, khiến tôn giáo bị đàn áp thẳng tay, để thay
thế bằng mê tín dị đoan, xã hội rối loạn.
Trước
bất cứ tệ trạng nào, người ta suy nghĩ tìm giải pháp, cuối cùng đều phải đi tới
kết luận: chừng nào chế độ này còn tồn tại, sẽ không có giải pháp. Càng sửa
càng sai, càng sai càng sửa.
*
SC:
Các ông đánh giá chiến dịch “đốt lò” chống tham nhũng của ông Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng có thành công không, tại sao, và liệu việc đánh tham nhũng này
có dẫn đến nguy cơ cho đảng Cộng sản Việt Nam theo kiểu không kiểm soát được
và sẽ “tự bắn vào chân mình”?
TS
Nguyễn Quang A:
Tham
nhũng gắn với quyền lực và vì thế không thể triệt tiêu tham nhũng. Chỉ có thể
giảm bớt tham nhũng mà thôi. Thế giới có rất nhiều nghiên cứu về quản trị tốt
và tham nhũng. Theo đó, muốn chống tham nhũng thành công (tức là gữ cho mức độ
tham nhũng ở mức xã hội có thể chịu đựng được) thì về mặt thể chế cần ít nhất
4-5 thứ:
1)
Luật trị hay nhà nước pháp quyền tức là không ai, không tổ chức nào có thể đứng
trên luật pháp cả và bản thân việc làm luật cũng phải tuân theo những quy tắc
phổ biến để bảo vệ các quyền của người dân, hạn chế sự lạm dụng của chính quyền,
chứ không phải ban hành luật một cách tùy tiện;
2)
Nền tư pháp độc lập, tức là cơ quan điều tra, tố tụng và tòa án hoạt động độc lập
chỉ dựa vào pháp luật, không bị một cá nhân hay tổ chức nào chi phối;
3)
Báo chí tự do, nhất là nghề báo điều tra;
4)
Xã hội dân sự lành mạnh, sôi động để tập hợp sức mạnh trí tuệ, kỹ năng của người
dân để buộc các tổ chức, các quan chức phải minh bạch và có trách nhiệm giải
trình;
5)
Có các cơ quan nhà nước giám sát độc lập nhưng không phụ thuộc vào chính quyền
(về tiền tệ, môi trường, khoa học, dược và thực phẩm, v.v.) hoạt động chỉ theo
các luật hay quy định riêng cho chúng.
Ngoài
các nhân tố thể chế nói trên việc xây dựng các giá trị, tập quán văn hóa cũng
quan trọng trong việc kiểm soát tham nhũng.
Các
bạn soát lại xem Việt Nam có nhân tố nào trong 5 nhân tố cơ bản nêu trên: không
nhân tố nào cả! Càng độc quyền càng sinh ra tham nhũng. Hệ thống sinh ra ra
tham nhũng.
Thiếu
các yếu tố đó thì bất kể cuộc chống tham nhũng nào, từ “đả hổ diệt ruồi” đến “đốt
lò” đều không thể có kết quả, gỏi nhất chúng chỉ có thể làm hài lòng ngắn hạn
dân chúng chưa hiểu biết kỹ mà chỉ khoái thấy các quan chức cấp cao bị “trừng
trị” nhưng không thể giải quyết bài bản, tận gốc vấn đề tham nhũng mà ngược lại
làm không khéo, tràn lan thì có thể gây sự mất lòng tin, sự tê liệt của bộ máy,
mất tính sáng tạo, sáng kiến thử nghiệm của các tổ chức và các quan chức nhà nước,
những việc vô cùng quan trọng trong việc vận hành, phát triển và đổi mới đất nước.
Nhà
báo Từ Thức:
Câu
nói nổi tiếng của Lord Acton, mà người ta gán cho Churchill, đã trở thành một định
luật: “Quyền lực đưa tới tham nhũng, quyền lực tối đa tham nhũng tối
đa” (power tends to corrupt, and absolute power corrupts absolutely).
Ở
các nước dân chủ, không phải chỉ có chính quyền diệt tham nhũng. Việc tố cáo,
điều tra hay trừng trị tham nhũng là việc làm của các cơ quan giám sát, của tư
pháp chuyên môn về kinh tài, của quốc hội, của các hội đoàn, báo chí, các đảng
phái, và ngay cả mọi công dân, tất cả hoàn toàn độc lập đối với chính quyền. Một
người tham nhũng khó lọt qua tất cả những cửa ải đó.
Ở
những nước độc tài, chuyện chống tham nhũng nằm trọn trong tay một người, toàn
quyền quyết định ai tham nhũng, ai đáng bị trừng phạt.
Toà
án và công an điều tra chỉ tuân theo mệnh lệnh. Đó chỉ là những cơ hội để triệt
hạ những kẻ không thuộc phe của nhóm đang cầm quyền.
Chiến
dịch ‘’đốt lò’’ của ông Trọng chỉ là trò bắt chước chiến dịch “đả hổ diệt
ruồi”của Tập Cận Bình, theo truyền thống những gì xẩy ra ở bên Tàu sẽ xẩy ra ở
Việt Nam, như cuộc Cải Cách Ruộng Đất kinh hoàng, man rợ trước đây.
Nhân
danh diệt tham nhũng, Tập đã bỏ tù trên 100.000 cán bộ lớn nhỏ, loại bỏ tất cả
những người không cùng phe cánh, hay những nhà tài phiệt đã quá thành công để
có thể có ảnh hưởng trong xã hội, như Jack Ma, để trở thành hoàng đế vĩnh viễn
của nước Tàu.
Hậu
quả là tham nhũng không thuyên giảm, nhưng guồng máy nhà nước trì trệ, vì cán bộ
các cấp sợ bị sờ gáy, khoanh tay không làm gì nữa. Các nhà đầu tư ngoại quốc
tìm cách chạy khỏi Trung Quốc, vì giới kinh tài rất sợ đầu tư ở những nước
không có đường lối, luật pháp minh bạch.
Tập
có 2 mục đích khi phát động chiến dịch “đả hổ diệt ruồi”. Thứ nhất: loại trừ đối
lập. Thứ hai: cứu Đảng, vì nạn tham nhũng khủng khiếm đã gây bất mãn trong các
tầng lới nhân dân, ở một xứ người dân đã quên cả chuyện bất bình, để được yên
thân.
Ông
Trọng học nguyên văn bài bản của Tập, cũng có 2 mục tiêu đó khi “đốt lò”. Chiến
dịch đốt lò có vẻ ngoạn mục, trở thành chuyện vui trong các tiệm cà phê, bàn
tán chuyện ai lên ngựa ai ngã ngựa, nhưng sẽ chẳng đi tới đâu. Ông Trọng cũng
không nên mong chuyện diệt tham nhũng thành công, bởi vì nếu không còn tham
nhũng, sẽ chẳng còn ai làm việc, chẳng còn ai giữ đảng.
Ngày
nay, không ai còn mơ thế giới đại đồng, không còn chiêu bài chống Mỹ cứu nước,
nếu còn những người trung thành với Đảng, chỉ vì còn đặc quyền đặc lợi, quyền
được tham nhũng.
Bài
trừ tham nhũng tới nơi tới chốn là một cách cưa cành cây, trên đó các lãnh tụ Đảng
đang ngồi.
*
SC:
Sau gần nửa thế kỷ dưới một chế độ độc tài toàn trị, theo các ông, những “căn
bệnh” lớn nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay là gì?
TS
Nguyễn Quang A:
Băng
hoại đạo đức, dối trá, khoa trương, không minh bạch.
Nhà
báo Từ Thức:
Dân
tộc nào cũng có tính xấu bên cạnh tính tốt. Dân Việt Nam cũng vậy. Nhưng có những
bệnh xã hội đặc biệt do chế độ độc tài tạo ra: bệnh dối trá, vô trách nhiệm, vô
cảm, vô luân
Dối
trá: Dưới một chế độ toàn trị, dối trá là một nghệ thuật sống. Nói thực điều
mình suy nghĩ, bày tỏ sự bất mãn, bất đồng ý kiến có thể mất công ăn, việc làm,
bổng lộc, nếu không mất mạng. Dối trá là một phương pháp để sống còn, dần dần sẽ
trở thành một thói quen, một bản năng, một dân tộc tính.
Vô
trách nhiệm: dối trá đưa tới tinh thần vô trách nhiệm. Người ta chỉ làm những
gì chắc chắn là sẽ không bị tai bay vạ gió; không ai nghĩ tới xã hội, tới ích lợi
chung. Giả vờ tin, giả vờ làm việc.
Vô
cảm: những người còn lương tâm, bất mãn trước bất công, trước bạo quyền, trước
việc đất nước lâm nguy, đều bị đàn áp, hành hạ, bỏ tù. Hậu quả là không ai tha
thiết đến chuyện
chung
nữa, hoàn toàn vô cảm, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng.
Vô
luân: những giá trị cũ, phong hoá cũ bị xoá sạch, tôn giáo bị đàn áp để thay bằng
mê tín dị đoan, giáo dục thay bằng tuyên truyền, xã hội không còn kim chỉ nam,
hỗn loạn, không lý tưởng.
Đó
chỉ là một vài thí dụ, nhưng đủ đưa tới một xã hội rất kỳ lạ. Rất khôi hài, nếu
không phải là dân tộc của chính mình.
Một
dân tộc không có quá khứ, bởi vì lịch sử đã bị viết lại. Không có tương lai, giống
như cây tre, chính sách ngoại giao của ông Trọng, không biết ngả về hướng nào,
không biết đi đâu, ngoài chuyện cố bám vào, hay giả vờ bám vào một chủ nghĩa đã
giết 100 triệu người, mà thế giới, trừ Tàu, Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn, đã chối
bỏ.
Không
quá khứ, không tương lai, không còn một giá trị, khuôn mẫu nào, xã hội như một
con tầu không lái, không biết đi về hướng nào. Cả một dân tộc sống cho qua
ngày, chờ đợi một cái gì vô hình. Giống như những nhân vật trong vở kịch “En
attendant Godot’’ (Trong khi chờ đợi Godot), của Samuel
Beckett, ngồi chờ Godot, nhưng không biết Godot là ai, có thể làm gì để cứu
mình. Và cuối cùng Godot không tới.
*
SC:
Theo các ông, bài học lớn nhất rút ra từ cuộc chiến Việt Nam, cho cả hai miền
Nam-Bắc là gì? Và hiện nay Việt Nam đã học được bài học ấy chưa?
TS
Nguyễn Quang A:
Bất
bạo động, “bạo động tắc tử” như lời nhắc nhở của cụ Phan Châu Trinh. Đáng tiếc
người dân Việt Nam ở khắp nơi cả trong nước và ngoài nước, thuộc bất cứ phe nào
phải rất nghiêm túc học bài học này (kể cả việc không dùng ngôn từ kích động bạo
lực, hiểu đúng về sự thỏa hiệp [một giá trị vô cùng quan trọng nhưng thường bị
người Việt coi là xấu], cổ vũ khuyến khích sự khoan dung…nói cách khác là xây dựng
các giá trị dân chủ trên tầng văn hóa).
Nhà
báo Từ Thức:
Bài
học lớn nhất cho người Việt Nam là chỉ có mình bảo vệ, xây dựng đất nước mình.
Những nước khác chỉ nghĩ tới quyền lợi của chính họ, sẵn sàng bỏ rơi đồng minh
nếu họ muốn thay đổi chính sách.
Việt
Nam Cộng Hòa quá tin Hoa Kỳ, đã bị bỏ rơi không thương tiếc.
Người
Cộng sản trung thành, vâng lệnh Trung Cộng, mặc dù Trung Cộng xâm chiếm biển
đảo, ranh giới, bành trướng thế lực ở Việt Nam, hay trắng trợn xâm lăng như
khi Đặng Tiểu Bình muốn “dạy Việt Nam một bài học” năm 1979.
Bài
học cực kỳ đơn giản đó, trải qua những kinh nghiệm đắng cay, đau đớn, người Việt
ta chưa học được. Vọng ngoại là bệnh nan y của người Việt, nhiều người đồng
hương vẫn trông chờ những đấng cứu tinh ngoại quốc tới cứu mình, quên rằng mục
tiêu số một của họ là giữ cái ghế của chính họ, sau đó là quyền lợi phe đảng,
cuối cùng là quyền lợi của đất nước họ. Số mệnh của dân tộc Việt Nam là một
khái niệm rất mơ hồ. Nếu cần hy sinh hàng triệu người Việt vì một tính toán lợi
lộc, họ sẵn sàng làm.
Việt
Nam là một nước nhỏ, không thể đứng một mình, cần đồng minh. Nhưng đồng minh
nào cũng chỉ là nhất thời, cái linh thiêng vĩnh viễn là vận mệnh dân tộc. Và vận
mệnh của một dân tộc hoàn toàn tuỳ thuộc dân tộc đó.
*
SC: Nhiều
nhà bình luận quốc tế cho rằng thế giới hiện nay đang đứng trước một tình thế rất
nguy hiểm, với những xung đột đang hoăc sẽ có khả năng bùng nổ ở nơi này nơi
khác: cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine, xung đột ở khu vực Trung Đông, mối đe dọa
của Trung Cộng đối với Đài Loan và khu vực biển Đông, sự hình thành trục ác
Nga-Trung Quốc-Iran-Bắc Hàn trong lúc các nền dân chủ hàng đầu của phương Tây
đang bị đánh phá, xói mòn từ bên ngoài lẫn bên trong…Chỉ cần một hành động gây
hấn hay một cái đầu “nóng” của một nhân vật lãnh đạo, một nguyên thủ quốc gia
nào đó là chiến tranh có thể lan rộng, thậm chí thế chiến thứ Ba sẽ bùng nổ; hoặc
sự thắng thua của một bên trong một cuộc xung đột có thể làm đảo lộn trật tự thế
giới v.v…Đứng trước tất cả những thử thách đó thì các ông nhận thấy tầm nhìn,
sự chuẩn bị đối phó cho tới những bước đi cụ thể của đảng Cộng sản Việt Nam
ra sao?
TS
Nguyễn Quang A:
Do
đảng Cộng sản Việt Nam không minh bạch và có thể coi các sự chuẩn bị hay kế
hoạch như vậy là bí mật quốc gia nên tôi không rõ họ chuẩn bị thế nào nên khó
bình luận. Tuy vậy từ chính sách ngoại giao (xây dựng các mối quan hệ với các
nước theo tầm quan trọng của họ với Việt Nam theo các cấp độ khác nhau) để
tranh thủ giữ hòa bình phát triển đất nước là hướng tôi cho là đúng. Còn tốt
hơn nữa nếu chúng ta có cùng các giá trị với các nước dân chủ tiên tiến và có sự
thảo luận để dân chúng cùng xây dựng các phương án đối phó với tình hình, thế
thì người dân mới là chủ chứ không chỉ là chủ hờ trên giấy.
Nhà
báo Từ Thức:
Tại
Á Châu, các quốc gia láng giềng của Việt Nam đang xiết chặt hàng ngũ chống hiểm
hoạ Tàu. Nhật Bản, Phi Luật Tân công khai hợp tác với AUKUS (1) là một tổ chức
hợp tác quân sự giữa 3 quốc gia Úc, Anh và Mỹ thành lập từ 2021 với mục đích
ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng. Hoa Kỳ qua quyết định viện trợ mới đây
cho Đài Loan đã cho thấy họ sẵn sàng đương đầu với Bắc Kinh.
Trong
bối cảnh đó, người ta không hiểu đường lối ngoại giao của Việt Nam là gì. Ông
Trọng hãnh diện về chính sách ‘’ngoại giao cây tre’’. Cây tre không nghiêng hẳn
về phe nào, nhưng theo cơ hội chủ nghĩa, ngả theo chiều gió.
Trung
thành với Bắc Kinh, trong khi các nước trong vùng kết hợp chống Tàu, Việt Nam
tự cô độc hoá ở Á Châu. Không quốc gia nào trong vùng tin vào Việt Nam nữa.
Vận
mệnh Việt Nam nằm trong tay Bắc Kinh. Đó là một nghịch lý: trong khi Trung Hoa
đang gặp khó khăn về mọi mặt: kinh tế khủng hoảng, xuất cảng giảm sút, thất
nghiệp tràn lan, dân tộc lão hoá, và đang bị Hoa Kỳ và các nước Tây Phương coi
là kẻ thù, ít nhất trên lãnh vực kinh tế. Tóm lại, khi chuyện thoát Trung có cơ
hội thuận tiện nhất, Việt Nam càng ngày càng rơi vào quỹ đạo Tàu.
Nhìn
từ ngoài thấy khó hiểu, nhưng ông Trọng có lý của ông khi ngả về phe Tàu. Thứ
nhất: ông Trọng là những người cuối cùng còn tin, còn cuồng chủ nghĩa Cộng
sản. Thứ hai: giới lãnh đạo Việt Nam vẫn cảm thấy gần gũi với những nước có
văn hoá Cộng sản như Nga, hay Tàu, hơn là với những nước dân chủ. Thứ 3: kết
hợp bè đảng với các nước độc tài thoải mái hơn là với những nước dân chủ, có những
nguyên tắc rắc rối, nhiêu khê mà họ ghê sợ, thí dụ bầu cử trong sạch, tự do báo
chí, tam quyền phân lập vv…
Trong
thời đại cực kỳ bất ổn hiện tại trên thế giới, rất khó biết đường đi nước bước
của Việt Nam trong tương lai. Vì Việt Nam đi đâu, theo ngả nào, không phải là
chuyện chung của gần 100 triệu người, mà là chuyện riêng của một nhóm. Họ có lý
luận riêng, có logique riêng. Họ sẽ tuỳ cơ ứng biến, tuỳ theo quyền lợi của họ
để quyết định vận mệnh của một mảnh đất 330.000 cây số vuông, mà họ là chủ
nhân.
*
SC:
Dự đoán của các ông về tương lai của Việt Nam 10 năm tới và vai trò của
người trí thức đối với vận mệnh của đất nước, dân tộc?
TS
Nguyễn Quang A:
Một
hệ thống gồm các thành phần biết tư duy, tức là suy nghĩ, có hành động (mà lại
phụ thuộc vào tư duy) tạo thành một hệ thống phi tuyến, phức tạp và sự tiến triển
của hệ thống như vậy không thể dự đoán được. Một xã hội là một hệ thống như vậy
và còn phụ thuộc vào môi trường, hoàn cảnh bên ngoài, nên các dự đoán thường chỉ
là sự đoán mò của các lang băm.
Tôi
không muốn trở thành một lang băm. Tuy nhiên nếu chúng ta làm mọi cách để nâng
cao dân trí, để phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ, để có cuộc sống khỏe,
để nuôi dưỡng các giá trị chung, nhất là khát vọng tự do (chấn hung dân khí) và
tích cực tham gia vào các phong trào xã hội để thực hiện và nâng cao các giá trị
đó thì mục tiêu xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, văn minh, bình đẳng hạnh
phúc chắc chắn sẽ đạt được (từng phần) và quá trình này chỉ có thể được cải thiện
liên tục nếu số đông người Việt làm vậy một cách liên tục và không ngưng nghỉ.
Nói cách khác chúng ta nên học tập, phát triển, làm phong phú thêm và thực hiện
tư tưởng Phan Châu Trinh. Việc đó chính là việc góp phần xây dựng dân chủ (ngay
bây giờ trong lòng chế độ độc tài), hiện đại hóa đất nước thay cho việc ngồi thụ
động trông chờ ai đó khác và bận tâm đến việc dự đoán. Tương lai của Việt Nam
là sự lựa chọn của chính chúng ta, nó phụ thuộc vào suy nghĩ, hành động của tất
cả chúng ta hàng ngày! Tự do hay nô lệ là lựa chọn của chính chúng ta. Nước mạnh
dân giàu hay dân nghèo nước yếu là lựa chọn của chính chúng ta.
Nhà
báo Từ Thức:
Các
chuyên gia, kể cả những người lỗi lạc nhất, thường thường sai lầm khi tiên đoán
thời cuộc.
Trước
đó ít ngày, ít ai nghĩ Nga Xô Viết sụp đổ nhanh chóng như vậy, năm 1991. Trước
khi Putin xua quân qua lãnh thổ Ukraine, không ai nghĩ Putin sẽ điên khùng như
vậy, trừ tình báo Mỹ.
Những
thay đổi lớn trên thế giới thường thường nhờ hai điều điện: thứ nhất là làn
sóng ngầm, đòi hỏi thay đổi. Thứ hai là một đột biến khiến nhà cầm quyền không
kiểm soát nổi tình thế.
Nếu
lạc quan, người ta nghĩ chế độ Cộng sản đã cáo chung, vì bế tắc mọi mặt, khiến
dân bất mãn, nghĩa là đã có một làn sóng ngầm.
Người
bi quan hỏi: ai, lực lượng nào sẽ gây đột biến, trong một quốc gia đa số thờ ơ,
vô cảm, trong một quốc gia ngân sách công an lớn hơn ngân sách giáo dục.
Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc xây dựng một mô hình xã hội như
Aldous Huxley mô tả: một nhà tù không tường, trong đó tù nhân được hưởng những
thú vui vật chất, những trò giải trí rẻ tiền, thoả mãn với thân phận nô lệ của
mình, không muốn phá ngục nữa, đôi khi còn đồng loã với cai ngục (2)
Khi
nào cái tư duy chưa bị đập vỡ, sẽ khó có thay đổi. Và nếu có thay đổi, theo
Antonio Gramsci, sẽ chỉ là những cuộc đảo chánh. Quyền lực sẽ từ Đảng Cộng sản
chuyển sang tư bản đỏ, mafia đỏ, như ở nước Nga của Putin.
Ai
làm chuyện thay đổi tư duy đó, mà cụ Phan Chu Trinh gọi là ‘’khai dân trí’’, để
làm nền móng cho tương lai? Trí thức.
Rất
tiếc Việt Nam không có một tầng lớp trí thức (intelligentsia), soi đường cho
xã hội, là lương tâm của đất nước, như ở Pháp với Victor Hugo, Emile Zola…, hay
gần đây với Albert Camus.
Sau
gần một thế kỷ, chính sách ngu dân đã tiêu diệt hàng ngũ trí thức, chỉ còn những
người có bằng cấp, bằng giả hay bằng thực, thụ động, yên phận để bảo vệ đôi
chút bổng lộc, hay đôi khi chỉ đôi chút danh hão.
Vai
trò của trí thức ? Câu hỏi mông mênh. Tạm trả lời, trong bối cảnh hiện tại, có
lẽ không nên trông chờ một hàng ngũ trí thức đóng vai lương tâm của xã hội, đứng
mũi chịu sào. Chỉ mong họ ý thức một điều cơ bản: đất nước không thể xây dựng
trong một chế độ độc tài. Tất cả bắt đầu từ trí não, từ cách suy nghĩ. Nói vậy
có vẻ đơn giản, trẻ con, nhưng rất gần với sự thực.
Viết
về tệ trạng nô lệ thời La Mã, Alexis de Tocqueville ngạc nhiên thấy tại sao giữa
các triết gia, trí thức uyên bác, không có ai thấy chuyện bình đẳng giữa người
với người là một chuyện rất tự nhiên.
Đó
là chuyện cách đây 2000 năm. Ngày nay, chắc có người ngạc nhiên tại sao ý niệm
nhân quyền, nhân phẩm của mỗi người dân vẫn chưa là một ưu tiên, trước thú vui
hưởng thụ vật chất, nơi rất rất đông người đồng hương, kể cả trí thức.
Trong
bối cảnh đó, phải ngả mũ khâm phục những người, trí thức hay không, rất hiếm
hoi, vẫn tiếp tục tranh đấu cho nhân quyền, cho đất nước, dưới mọi hình thức, bất
chất đe doạ, phỉ báng, vu cáo, chụp mũ hay tù đày. Càng đáng kính hơn nữa, khi
họ hành động trong sự thờ ơ của xã hội.
SC:
Chân thành cảm ơn TS Nguyễn Quang A và nhà báo Từ Thức.
-----------
(1)
(AUKUS: Australia, United Kingdom, US)
(2) https://www.tuthuc-paris-blog.com/post/huxley-orwell-ionesco-mô-hình-n...
No comments:
Post a Comment