Nâng quan hệ Mỹ-Việt lên Đối tác chiến lược: Lợi ích và trở ngại
Thu
Hằng -
RFI
Đăng ngày: 20/09/2021 - 08:10
Chỉ khoảng ba tuần sau chuyến công du Hà Nội của
phó tổng thống Mỹ Kamala Harris, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị cũng chọn
Việt Nam mở đầu cho vòng công du bốn nước Đông và Đông Nam Á. Phó tổng thống
Hoa Kỳ lên án những đòi hỏi chủ quyền và hành động chèn ép của Trung Quốc ở
Biển Đông. Còn ông Vương Nghị như buộc các nước liên quan giữ nguyên trạng ở Biển
Đông, đồng thời chống lại các hành động can thiệp của các thế lực bên ngoài.
Chủ tịch nước Việt
Nam Nguyễn Xuân Phúc tiếp phó tổng thống Mỹ Kamala Harris tại Phủ Chủ tịch, Hà
Nội, ngày 25/08/2021. AP - Manan Vatsyayana
Phát biểu tại Hà Nội ngày 25/08/2021, phó tổng
thống Hoa Kỳ Kamala Harris đã kêu gọi Việt Nam cùng “tìm cách gây áp lực,
gia tăng sức ép... đối với Bắc Kinh để buộc họ tuân thủ Công Ước Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển, và thách thức các hành vi bắt nạt và yêu sách hàng hải quá mức của
Trung Quốc”. Ngoài vấn đề Biển Đông, Hoa Kỳ sẵn sàng tăng cường giúp đỡ Việt
Nam về mặt quốc phòng, chống đại dịch Covid-19, mà bằng chứng cụ thể nhất thể
hiện cho thiện chí của Mỹ là viện trợ ngay cho Việt Nam trong vòng 24 giờ một
triệu liều vac-xin Moderna.
Tóm lại, Washington muốn nâng cấp quan hệ với
Hà Nội, từ “đối tác toàn diện” lên “đối tác chiến lược”. Giới
chuyên gia cho rằng Việt Nam muốn như thế nhưng dè chừng Bắc Kinh tức giận. Đâu
là những lợi ích và trở ngại cho Việt Nam nếu thiết lập quan hệ đối tác chiến
lược với Hoa Kỳ ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với
nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (ENS), Pháp.
*****
RFI : Nâng cấp quan hệ “đối tác toàn diện”
lên thành “đối tác chiến lược” với Hoa Kỳ có thể mang lại những lợi ích gì cho
Việt Nam ? Đâu là những trở ngại chính trị và quân sự có thể tác động đến
việc nâng cấp này ?
Laurent Gédéon : Việt Nam đã ký quan hệ đối tác chiến lược với Nga, Nhật Bản, Ấn Độ,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Anh Quốc, Đức, Pháp. Vì thế cần phải xem là Việt Nam tìm
kiếm gì khi ký kết một thỏa thuận đối tác chiến lược ?
Tôi nghĩ là theo quan điểm của Hà Nội, quan hệ
đối tác chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, thứ nhất là cho an ninh, vì thỏa
thuận giúp tăng cường cho ngoại giao và quốc phòng của Việt Nam, tiếp theo là
cho kinh tế, vì một quan hệ đối tác chiến lược góp phần cho sự phát triển của đất
nước, và cho ngoại giao, vì một thỏa thuận như vậy giúp Hà Nội có được sự ủng hộ
khi cần về chính sách đối ngoại. Từ những điểm này, nếu nhìn vào trường hợp Hoa
Kỳ, có thể thấy đúng là quan hệ giữa hai nước có thể sẽ được thắt chặt
hơn, nhưng cũng có thể đặt ra một số trở ngại, dù phía Hoa Kỳ đưa ra yêu cầu mạnh
mẽ.
Trở ngại đầu tiên liên quan đến chính sách đối
nội của Việt Nam. Có thể nói tóm lược rằng trong đảng Cộng Sản Việt Nam có nhiều
khuynh hướng khác nhau, như khuynh hướng “thân Trung Quốc” ,hay ít
nhiều “ngả về phía Hoa Kỳ”, mà không bên nào chịu thua bên nào. Ngoài ra
còn có một số khuynh hướng khác, được thể hiện qua nhiều cấp độ quan điểm khác
nhau trong chính sách của Việt Nam, với kết quả có thể thấy được mà chúng ta biết
hiện nay. Dù các nhà lãnh đạo Việt Nam nhất trí không để mất chủ quyền
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng họ lại bất đồng về cách hành
động. Một số người thiên về việc tăng cường xích lại gần Hoa Kỳ. Một số khác từ
chối. Vì thế, có thể thấy cản trở đầu tiên để tiến tới quan hệ chiến lược này
là chính sách đối nội và sự mất cân bằng chính trị nội bộ của Việt Nam.
Rào cản tiếp theo mang tính quân sự, liên quan
đến việc từ lâu Việt Nam vẫn sử dụng vũ khí của Nga. Một phần lớn hệ thống vũ
khí của Việt Nam là do Liên Xô hoặc Nga sản xuất. Việt Nam bị phụ
thuộc nhiều vào thiết bị quân sự của Nga, đến 80%. Điều này đặt ra vấn đề tương
thích vũ khí do Hoa Kỳ sản xuất vào hệ thống hiện có. Ngoài ra, phải kể thêm một
vấn đề pháp lý liên quan đến Đạo luật Chống lại đối thủ của Mỹ thông qua trừng
phạt (Countering America’s Adversaries Through Sanctions Act, CAATSA) nhằm trừng
phạt những nước mua vũ khí Nga. Đây là một khó khăn dù có thể giải quyết được về
mặt ngoại giao, nhưng vẫn là một vấn đề cần được nêu.
Trở ngại thứ ba đối với Việt Nam là mức độ tin
cậy vào Washington, mà có thể thấy qua những sự kiện gần đây, ví dụ cam kết chiến
lược của Mỹ bị suy yếu dưới thời tổng thống Trump. Dù chính quyền Biden đã đổi
hướng, nhưng dù sao đây vẫn là một tiền lệ khó có thể khiến các nước muốn xích
lại gần Washington cảm thấy yên tâm.
*
RFI : Ngoài ra còn có những trở ngại nào
khác ?
Laurent Gédéon : Có thể kể đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, không quá quan trọng hoặc
không được nhắc nhiều dưới thời tổng thống Trump, nhưng lại là vấn đề nhạy cảm
đối với chính quyền Biden và từng là một điểm trong chiến dịch tranh cử của
ông.
Tiếp theo là những bất trắc về khả năng Hoa Kỳ
gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTTP,
thỏa thuận thay thế cho Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương - TPP. Hiện
chưa rõ là Mỹ sẽ tham gia hiệp định chung này, hay sẽ phát triển một hiệp định
song phương khác với Việt Nam.
Khúc mắc cuối cùng về Hoa Kỳ của Hà Nội là trường
hợp Afghanistan, nơi quân đội Mỹ can thiệp sâu rộng và giờ rút lui. Điều này xảy
ra trong bối cảnh địa-chính trị trong vùng rất bất ổn, có thể dẫn tới xung đột
và khiến tôi nghĩ đến sự ổn định chiến lược địa-chính trị của Đài Loan hiện
nay, đến hiệu ứng domino từ một cuộc khủng hoảng ở Đài Loan đến Biển Đông, đến
việc phương Tây gia tăng sức ép ở trong vùng thông qua việc hải quân Anh, Pháp,
Úc và dĩ nhiên là Hoa Kỳ tăng cường hiện diện ở Biển Đông, ở eo biển Đài Loan,
cũng như ở nhiều khu vực khác trong vùng.
Để kết luận về khả năng Việt Nam bước vào quan
hệ hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ, có thể nói là Hà Nội sẽ được lợi, chắc chắn
là về mặt an ninh quân sự, nhưng cũng có nguy cơ bị mất quyền tự chủ chiến lược.
Vì thế có thể nhận thấy là phía Việt Nam thận trọng trong kiểu thỏa thuận như vậy.
*
RFI : Trong trường hợp Việt Nam kí quan hệ
đối tác chiến lược với Mỹ, việc này có vi phạm nguyên tắc “Bốn Không” của Việt
Nam không ?
Laurent Gédéon : Đúng là Sách Trắng Quốc Phòng gần đây nhất của Việt Nam năm 2019 nêu
nguyên tắc “Bốn Không”. Tôi xin nhắc lại, đó là “không tham gia liên minh
quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài
đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác”
và điểm “Không” thứ tư, được thêm vào “Ba Không” truyền thống, đó là “không
sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.
Đúng là nguyên tắc “Bốn Không” có vẻ ngăn cản
Hà Nội trở thành một bên tham gia vào một cuộc xung đột, ngoại trừ một vụ tấn
công trực tiếp vào lãnh thổ Việt Nam. Nhưng trong Sách Trắng Quốc Phòng 2019
cũng có một cảnh báo : “Tùy vào diễn biến tình hình và trong những điều
kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự
cần thiết và tương ứng với các nước khác”, dù có nguồn gốc chính trị
là gì và mức độ phát triển ra sao. Có thể thấy là lần đầu tiên Việt Nam tạo điều
kiện cho việc diễn giải nguyên tắc “Bốn Không”. Và điều này có thể mở đường cho
khả năng thắt chặt hợp tác quân sự với Hoa Kỳ.
Việt Nam cũng rất lưu ý đến việc lần đầu tiên
cùng với Hàn Quốc, New Zealand được mời tham gia hội nghị QUAD+ vào tháng
03/2020 tập trung vào đại dịch Covid-19. Đáng chú ý ở chỗ Việt Nam đều có mối
quan hệ vững chắc với các nước Bộ Tứ - QUAD gồm Nhật Bản, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Úc.
Đặc biệt Việt Nam có quan hệ chiến lược với ba trong số bốn nước này, trừ
Mỹ.
Ở đây cần tìm hiểu là liệu Hà Nội có tiếp cận
những nước này, một cách gián tiếp thông qua những cơ chế hợp tác quốc tế chứ
không phải là trực tiếp qua những cơ chế quân sự. Trong khi trên thực tế những
cơ chế hợp tác quốc tế này lại giúp Việt Nam tham gia vào các cấu trúc liên
minh quân sự không chính thức, dù có vẻ đi ngược lại phần nào với nguyên tắc “Bốn
Không”. Dường như đây là cách tiếp cận có chủ ý của chính quyền Việt Nam.
Ngoài ra, cần biết rằng trong một cuộc thăm dò
ý kiến cuối năm 2019 của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), đa
số người dân Việt Nam được hỏi ý kiến đều coi Bộ Tứ - QUAD là khung thể chế
quan trọng nhất trong vùng, hơn cả ASEAN. Đây là một chỉ số đáng chú ý về khả
năng Hà Nội tham gia vào các kiểu liên minh dù không mang tên chính thức như vậy,
bất chấp những gì ghi trong Sách Trắng, hay nguyên tắc “Bốn Không”.
*
RFI : Mỹ đã ký bao nhiêu quan hệ đối
tác chiến lược ở châu Á và khác gì với liên minh với Philippines ?
Laurent Gédéon : Hoa Kỳ đã ký nhiều thỏa thuận quan hệ đối tác chiến lược quan trọng
trong vùng. Tôi xin nhắc một vài thỏa thuận nư với Ấn Độ, tập trung vào khả
năng răn đe và bảo vệ lợi ích chung cũng như về chống đại dịch và biến đổi khí
hậu ; với Indonesia tập trung chủ yếu vào kinh tế và giữ gìn trật tự quốc
tế theo các quy định đã có ở Ấn Độ-Thái Bình Dương ; với Singapore trong
đó có một mảng hợp tác quân sự đáng chú ý, với việc một đơn vị hải quân Mỹ hiện
diện ở một cảng của nước này. Ngoài ra, còn phải kể đến thỏa thuận chiến lược tổng
thể hơn với ASEAN về y tế công cộng, khả năng kết nối, hợp tác kinh tế và hợp
tác hàng hải về mặt môi trường.
Nhưng điều mà chúng ta nhận thấy là những quan
hệ đối tác chiến lược này không phải là những hiệp ước liên minh quân sự, nhưng
có những mảng quân sự ít nhiều quan trọng. Đối với những nước rất gần gũi với
Hoa Kỳ thì Washington thiết lập liên minh quân sự, chứ không phải là đối tác
chiến lược, như với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines. Trong trường hợp
ba nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines, Washington có lực lượng quân đội thường
trực hoặc tạm thời.
Riêng trường hợp Philippines, Hoa Kỳ có Thỏa
thuận Thăm viếng quân sự (Visiting Forces Agreement, VFA), một phiên bản của Hiệp
ước phòng thủ chung được Washington và Manila ký năm 1951. Thỏa thuận VFA hiện
nay quy định sự hiện diện của quân đội Mỹ trên lãnh thổ Philippines trong những
dịp tập trận, huấn luyện chung, chiến hạm cập cảng, hay bất kỳ hoạt động nào giữa
quân đội hai nước. Thỏa thuận Thăm viếng quân sự VFA này đã được tổng thống
Rodrigo Duterte tái khẳng định triển hạn hôm 30/07/2021, trong khi Hoa Kỳ vẫn
nhắc lại là tiếp tục bảo vệ Phillipines trong trường hợp nước này bị tấn công
vũ trang ở Biển Đông.
VFA giữa Mỹ-Philippines là một thỏa thuận quân
sự, trái với quan hệ đối tác chiến lược. Tuy nhiên, tùy theo ý muốn và chiến lược
của hai bên, ví dụ trong trường hợp của Việt Nam và Mỹ, có thể sẽ có một vế
quân sự được điều chỉnh để đáp ứng những quan ngại chiến lược của mỗi bên.
Nhưng phải nhắc lại là quan hệ đối tác chiến lược không phải là một liên minh
quân sự như trường hợp của Mỹ và Phillippines.
RFI
Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, trường Sư phạm
Lyon (Ecole Normale supérieure de Lyon) tại Pháp.
*****
Đọc thêm Phần 1 :
Phó tổng thống Mỹ đến Việt Nam tìm thêm đối tác kiềm chế Trung
Quốc
Thu
Hằng -
RFI
Đăng ngày: 23/08/2021 - 12:20
Phó tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris công du Việt
Nam 24-25/08/2021, đúng một tháng sau chuyến thăm của bộ trưởng Quốc Phòng
Lloyd Austin. Hà Nội trở thành đối tác quan trọng của Washington trong khu vực
Đông Nam Á, nơi mà chính quyền Biden coi là chủ chốt để ngăn chặn bành trướng
Trung Quốc.
Phó tổng thống Hoa
Kỳ Kamala Harris họp báo chung với thủ tướng Singapore Lý Hiển Long tại
Singapore, ngày 23/08/2021. AP - Evelyn Hockstein
Vào đầu tháng Tám, tại Hội nghị thường niên bộ
trưởng Ngoại Giao ASEAN - Hoa Kỳ, ngoại trưởng Anthony Blinken cũng tái khẳng định
“Hoa Kỳ duy trì cam kết vững chắc đối với cấu trúc khu vực lấy ASEAN làm
trung tâm, cũng như ủng hộ mạnh mẽ Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương”.
Hai chuyến công du Đông Nam Á liên tiếp trong
vòng một tháng của quan chức cấp cao Mỹ còn cho thấy Washington tìm cách trấn
an đồng minh và đối tác về “cam kết lâu dài trong vùng”, Hoa Kỳ “là một
phần của vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương” và “sẽ ở lại đó”.
Vấn đề bảo vệ luật pháp quốc tế ở Biển Đông,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Mỹ trong vùng và mở rộng hợp tác quốc phòng là
những chủ đề chính được phó tổng thống Hoa Kỳ trao đổi với Singapore và Việt
Nam trong chuyến thăm. Tuy nhiên, chuyến đi của bà Kamala Harris rơi đúng vào
thời điểm Mỹ rút quân khỏi Afghanistan. Tình trạng hỗn loạn, bất ổn, khó khăn vẫn
diễn ra ở quốc gia Trung Á này.
Bối cảnh trên có gây tác động đến chuyến công
du Việt Nam của phó tổng thống Mỹ ? RFI Tiếng Việt
đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, trường Sư Phạm Lyon tại Pháp
https://s.rfi.fr/media/display/bca79a4c-1527-11ea-845b-005056bf7c53/w:1024/p:4x3/laurent_gedeon.webp
Nhà nghiên cứu
Laurent Gédéon, giảng viên Viện Đông Á Lyon (Institut d'Asie orientale), thuyết
trình tại trường Sư phạm ở Paris, ngày 18/01/2019. RFI / Tiếng Việt
RFI : Chuyến công du Hà Nội của phó tổng thống Mỹ
Kamala Harris được lên kế hoạch từ trước, nhưng diễn ra trong bối cảnh khá tế
nhị cho Washington, sau quyết định rút hết quân Mỹ khỏi Afghanistan. Tại sao lại
có đến hai chuyến công du Việt Nam ở cấp cao như vậy trong vòng một tháng ? Và
bối cảnh hiện nay ở Afghanistan có tác động đến cách nhìn của Hà Nội về chuyến
công du của phó tổng thống Harris và uy tín của Hoa Kỳ ?
Laurent Gédéon :
Theo tôi là có, bởi vì việc Mỹ rút quân khỏi Afghanistan mang khía cạnh biểu
tượng, như báo chí nêu là có sự tương đồng đáng kinh ngạc về cách quân đội Mỹ vội
vã rút quân khỏi Kabul giống như cách quân Mỹ nhanh chóng rời khỏi Sài Gòn cách
đây hơn 40 năm, vào năm 1975.
Có thể thấy là sự tương đồng này gợi nên cùng
một câu hỏi : Về cơ bản, liệu cam kết của Hoa Kỳ với một đối tác có thể kéo dài
và bền vững không ? Hay ngược lại dần dần có những thay đổi chiến lược tương đối
đột ngột dẫn đến việc Hoa Kỳ giảm cam kết và để đối tác hay đồng minh một mình
đối phó với sức ép từ đối thủ, kẻ thù ?
Chúng ta hoàn toàn có thể đặt bối cảnh này vào
chuyến công du của bà Kamala Harris. Chuyến thăm của phó tổng thống Mỹ đúng là
để trấn an Việt Nam, gửi tới Hà Nội một thông điệp tích cực, bảo đảm rằng Hoa Kỳ
vẫn vô cùng quan tâm đến vấn đề Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Tôi nghĩ là chính quyền Biden tiếp quản tính
liên tục trong chiến lược của chính quyền Obama, cũng như nhận thức và đánh giá
chiến lược cách đây khoảng 10 năm. Có nghĩa là đối thủ cạnh tranh chính của Hoa
Kỳ là Trung Quốc, cần phải củng cố hơn sự hiện diện của Mỹ ở Thái Bình Dương,
cũng như những mối quan hệ mà Mỹ có thể duy trì với các đối tác được đánh giá
là quan trọng, thậm chí là sống còn, trong trường hợp đối đầu với Trung Quốc.
Trong trường hợp này, Việt Nam đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chiến
lược địa-chính trị của Mỹ.
Tôi muốn nói thêm về trường hợp Afghanistan.
Việc Mỹ rút quân khỏi Afghanistan mở rộng cửa cho nhiều nước có sức ảnh hưởng
khác vào quốc gia Trung Á này, trong đó có Trung Quốc. Nếu nhìn rộng hơn về
phân tích chiến lược, có thể coi việc Mỹ rút khỏi Afghanistan sẽ tác động đến
khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, do Bắc Kinh sẽ can dự vào những lĩnh vực mới, thâm
nhập vào những không gian mới để gia tăng ảnh hưởng. Điều này vừa giúp Trung Quốc
mạnh hơn vừa khiến nước này dễ bị tác động từ nhiều kiểu sức ép khác nhau.
*
RFI : Trước chuyến công du của phó tổng thống
Kamala Harris, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ đã thăm Việt Nam ngày 28-29/07. Một số ý
kiến cho rằng chuyến công du của ông Lloyd Austin cũng nhằm thăm dò Hà Nội về
khả năng thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Ông nghĩ gì về điểm này ?
Laurent Gédéon :
Đúng là bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ đã bày tỏ mong muốn của Washington chuyển mối
quan hệ hiện nay với Việt Nam thành đối tác chiến lược khi ông tiếp kiến chủ tịch
nước Nguyễn Xuân Phúc ngày 29/07/2021. Tôi nghĩ là phải điểm lại một chút bối cảnh
đã khiến Hoa Kỳ đề xuất nâng cấp mối quan hệ lên thành đối tác chiến lược, cũng
như mối quan hệ song phương từng bước được cải thiện từ 25 năm nay.
Chúng ta thấy là ngày càng có nhiều thỏa thuận
và các chuyến công du song phương, ví dụ Đối thoại Quốc phòng song phương do Bộ
Chỉ Huy Thái Bình Dương Hoa Kỳ chủ trì, Đối thoại Chính trị - An ninh - Quốc
phòng do bộ Ngoại Giao hai nước chủ trì, hoặc Đối thoại về Chính sách Quốc
phòng được bộ Quốc Phòng hai nước tổ chức… Song song đó là các chuyến công du
cũng tăng lên, đặc biệt trong những năm 2010, như những chuyến thăm Hoa Kỳ của
nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam, hay hai chuyến công du Việt Nam của nguyên thủ Mỹ
Barack Obama và Donald Trump vào năm 2016 và 2017.
Đặc biệt hơn liên quan đến Biển Đông, chúng ta
thấy là Hoa Kỳ ngày càng chú tâm nhiều hơn vào vấn đề các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, nhất là dưới thời tổng thống Donald Trump. Trước đó, Washington chỉ
đơn thuần kêu gọi tôn trọng luật pháp quốc tế về tự do lưu thông hàng hải,
nhưng cũng đẩy Hà Nội và Bắc Kinh vào thế đối đầu nhiều hơn về vấn đề chủ quyền
các quần đảo. Dưới thời tổng thống Trump, tuy không công nhận những yêu sách chủ
quyền của Việt Nam, nhưng Washington đã thay đổi lập trường đối với Trung Quốc
khi cáo buộc đích danh Bắc Kinh “bành trướng”.
Chúng ta cũng thấy là từ năm 2017, tầm quan trọng
chiến lược của Việt Nam đã được Hoa Kỳ tái khẳng định, kể cả trong nhiều tài liệu
quan trọng như Chiến lược an ninh Quốc gia Hoa Kỳ (National Security Strategy)
năm 2017 và 2018 và trong báo cáo Ấn Độ - Thái Bình Dương năm 2019. Những sự kiện
này đã đưa đến bối cảnh hiện nay, trong đó Mỹ và Việt Nam đã có mối quan hệ
quan trọng trong nhiều lĩnh vực, dĩ nhiên là từ kinh tế, quân sự cho đến văn
hóa và khoa học.
Vì Hà Nội và Washington đã nâng tầm quan hệ
lên thành đối tác toàn diện vào năm 2013, nên theo tôi, việc hướng đến đối tác
chiến lược sẽ chủ yếu mang tính biểu tượng để tăng cường mối quan hệ song
phương, vốn đã vững mạnh, và cho thấy mức độ tin cậy còn cao hơn giữa hai nước.
*
RFI : Liệu thái độ quá nhiệt tình của Mỹ có gây ảnh
hưởng cho Việt Nam, cũng như tác động đến quan hệ Việt - Trung không ?
Laurent Gédéon : Có,
có lẽ sẽ có tác động vì khi nhìn vào cách mà tôi gọi là “áp lực” của Mỹ tới Việt
Nam, muốn Hà Nội xích lại gần với Washington và khi nhìn vào “lời mời” Việt Nam
tham gia đối tác chiến lược với Mỹ, dĩ nhiên đằng sau đó có một thông điệp gửi
đến Trung Quốc.
Rõ ràng từ quan điểm của Washington, sự phát
triển nhanh chóng quan hệ đối tác giữa Việt Nam và Mỹ có thể được cho là cả hai
nước có chung nhận thức về mối đe dọa liên quan đến Trung Quốc, trong đó có vấn
đề Biển Đông. Vẫn theo Mỹ, Việt Nam có vai trò chủ đạo cần đảm nhiệm trong việc
bảo đảm lối vào khu vực biển này được tự do và rộng mở, đồng thời biết rằng Việt
Nam là đối tác không thể thiếu trong nỗ lực này.
Điểm này được thể hiện qua các chuyến thăm
song phương, qua những thỏa thuận được ký kết mà chúng ta nêu ở trên. Tôi muốn
nói thêm đến những chuyến thăm cảng của các tầu sân bay Mỹ Carl Wilson vào
năm 2018 và Theodore Roosevelt vào năm 2020. Đây là những chuyến thăm đầu tiên
của Mỹ theo kiểu này kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Ngoài vấn đề biểu tượng, những chuyến thăm này
còn tỉ lệ thuận với tầm quan trọng của Việt Nam trong chiến lược quân sự hàng hải
của Mỹ. Chúng ta cũng thấy là vị trí của Việt Nam luôn được nhìn nhận như là một
tiềm lực quân sự đáng kể trong khu vực so với Trung Quốc, cũng như đối với
QUAD+ (Bộ Tứ mở rộng, gồm Úc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và các đối tác, đồng minh).
Các bước tham gia của Việt Nam chắc chắn sẽ được chuẩn bị kỹ lưỡng để không làm
đảo lộn mối quan hệ tế nhị giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Liên quan đến mối quan hệ chiến lược có thể ký
với Mỹ, chắc chắn là Việt Nam sẽ rất thận trọng trong mảng quân sự để thỏa thuận
này không bị coi như là một kiểu liên minh quân sự trá hình nhắm trực tiếp đến
Trung Quốc. Nhưng đồng thời, điều quan trọng đối với Hà Nội cũng là tăng cường
khả năng răn đe đối với Bắc Kinh thông qua mảng hợp tác quân sự của đối tác chiến
lược này.
Vì thế Hà Nội ở thế khó : Không được tỏ
ra quá đe dọa, nhưng cũng phải thể hiện đáng tin cậy, mà vẫn có sức răn đe đối
với Trung Quốc. Tôi nghĩ là phải chú ý đặc biệt đến vế quân sự trong đối tác
chiến lược nếu được ký kết, vì điểm này sẽ cho thấy những ý định rõ ràng của cả
hai bên, cũng như những ẩn ý của Hà Nội và Washington.
RFI
Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, trường Sư phạm
Lyon (ENS de Lyon), Pháp.
***
Các nội dung liên
quan
Bộ
trưởng Quốc Phòng Mỹ thảo luận với đồng nhiệm Việt Nam về mở rộng hợp tác an
ninh
Bộ
trưởng Quốc Phòng Lloyd Austin công du Hà Nội, nâng cấp quan hệ Việt-Mỹ
Bộ
trưởng Quốc Phòng Mỹ thăm Việt Nam, trọng tâm là hợp tác quân sự và an ninh
No comments:
Post a Comment