‘Khủng
hoảng tàu ngầm’ ảnh hưởng ra sao đến Biển Đông và vai trò Việt Nam?
21/09/2021
https://gdb.voanews.com/07B03962-15A3-490D-B1FB-D9C805696402_cx0_cy0_cw86_w650_r1_s.jpg
Tàu ngầm chạy bằng
năng lượng hạt nhân lớp Los Angeles USS Cheyenne của Hoa Kỳ.
Việc Australia huỷ bỏ hợp đồng mua tàu ngầm
thông thường của Pháp trị giá 40 tỷ đô la để chuyển sang thoả thuận đóng ít nhất
8 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân với Hoa Kỳ và Anh sau khi công bố mối
quan hệ đối tác an ninh ba bên vào cuối tuần qua đang gây ra “sóng gió” trong
quan hệ của các đồng minh phương Tây.
Phía Pháp tỏ ra rất tức giận, nói rằng Úc đã
“phạm sai lầm ngoại giao to lớn” và việc huỷ bỏ hợp đồng đã đạt được từ năm
2016 là một “cú đâm sau lưng” của các đồng minh. Nước này cũng huỷ bỏ các sự kiện
liên quan ngoại giao ở Washington và lập tức triệu hồi đại sứ từ Washington và
Canberra về nước.
Trong khi đó, Thủ tướng Morrison bảo vệ quyết
định của Australia với lý do “lợi ích quốc gia” và khẳng định rằng đã thông báo
cho Pháp về khả năng hủy “hợp đồng thế kỷ” này từ hồi tháng 06/2021.
Giữa lúc tình trạng căng thẳng giữa các cường
quốc đồng minh phương Tây chưa có dấu hiệu được giải quyết, phóng viên Khánh An
của VOA thực hiện cuộc phỏng vấn với Giáo sư Carl Thayer của Học viện Quốc
phòng Australia, Đại học New South Wales, để tìm hiểu về những ảnh hưởng và tác
động của sự kiện này đối với vấn đề an ninh và cân bằng quyền lực trên Biển
Đông, cũng như vai trò của Việt Nam trong chiến lược của mối quan hệ an ninh vừa
mới thành lập AUKUS.
*
VOA: Thưa giáo sư,
trong sự việc căng thẳng mới nhất xảy ra giữa các đồng minh phương Tây, về phía
Pháp, mà cụ thể ở đây là Bộ trưởng Ngoại giao Jean-Yves Le Drian, đã lên án việc
Australia huỷ hợp đồng mua tàu ngầm của Pháp và ông nói rằng thỏa thuận tàu ngầm
mới của Australia với Hoa Kỳ và Vương quốc Anh là hành động “đâm sau lưng” của
các đồng minh. Là một nhà nghiên cứu các vấn đề quan hệ quốc tế và là một công
dân Australia, ông đánh giá thế nào về sự kiện này?
GS. Carl Thayer: Trong
chín năm qua, Australia và Pháp đã phát triển mối quan hệ quốc phòng-an ninh.
Năm 2012, hai bên đã thông qua Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược.
Năm 2016, Pháp và Australia đã ký một thỏa thuận để Pháp đóng tàu ngầm thông
thường cho Australia.
Sau khi ông Emmanuel Macron đắc cử tổng thống
Pháp, ông đã dành nhiều thời gian và nỗ lực để xây dựng nền tảng này. Pháp và
Australia đã công bố Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược nâng cao vào
năm 2017 nhằm tăng cường sự tham gia của họ ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương,
mang lại lợi ích ưu tiên cho các mối quan hệ chính trị, quốc phòng, an ninh và
tình báo. Năm 2018, hai nước đã thông qua Tuyên bố Tầm nhìn về Mối quan hệ
Úc-Pháp.
Thỏa thuận tàu ngầm với Tập đoàn Hải quân của
Pháp là một vấn đề nan giải về chi phí thực hiện và thời hạn kéo dài. Không
nghi ngờ gì việc Thủ tướng Scott Morrison đã đề cập với Tổng thống Macron về những
khó khăn này khi họ gặp mặt trực tiếp trong năm nay, nhưng ông Morrison đã
không nói với ông Macron rằng vì hoàn cảnh chiến lược thay đổi nhanh chóng mà
những tàu ngầm của Pháp sẽ được thay thế bằng các tàu ngầm chạy bằng năng lượng
hạt nhân do Mỹ thiết kế.
Tổng thống Macron chưa bao giờ được tiết lộ về
các cuộc đàm phán kéo dài nhiều tháng giữa Australia, Mỹ và Anh. Ông Macron chỉ
biết về quan hệ đối tác AUKUS vào đêm trước khi nó được công bố. Dĩ nhiên ông
Macron và nước Pháp cảm thấy bị phản bội vì cách xử lý kém của ông Morrison
trong vụ này. Điều này đặt ra câu hỏi về những nỗ lực đã đạt được trong 9 năm
qua trong việc Pháp và Australia hợp tác với tư cách là đối tác chiến lược nhằm
đảm bảo một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương hòa bình và ổn định.
*
VOA: Pháp nói rằng nước
này đang gặp “khủng hoảng” với Australia và Mỹ sau khi hợp đồng tàu
ngầm trị giá hàng chục tỷ đô la bị hủy bỏ. Trong khi Pháp
cũng là một trong các bên tham gia vào những nỗ lực của phương Tây
trong việc kiềm chế những hành vi lấn lướt và quyết đoán của Trung Quốc ở
Biển Đông, theo giáo sư, liệu cuộc khủng hoảng có ảnh hưởng gì đến những
nỗ lực của phương Tây hay không? Và liệu nó có đề ra bất kỳ mối quan
ngại hay rủi ro nào về an ninh ở Biển Đông hay không?
GS. Carl Thayer: Việc
hình thành quan hệ đối tác an ninh ba bên AUKUS là một bước phát triển chiến lược
quan trọng gắn kết Australia với Hoa Kỳ trong nhiều thập niên tới. Nhưng những
bước phát triển không kém phần quan trọng khác cũng đang diễn ra bên cạnh việc
chuyển giao công nghệ hạt nhân. Nhóm Bộ tứ sắp tổ chức cuộc họp trực tiếp đầu tiên
để vạch ra chiến lược nhằm chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc ở Ấn Độ - Thái
Bình Dương. Riêng Australia đã củng cố quan hệ quốc phòng song phương với Nhật
Bản, Ấn Độ, Indonesia và Hàn Quốc.
Dấu ấn về phòng thủ của Hoa Kỳ tại Australia sẽ
ngày càng phát triển mạnh hơn cùng với việc gia tăng triển khai luân phiên Thủy
quân lục chiến Hoa Kỳ, và việc đồn trú các tàu chiến và máy bay quân sự của Hoa
Kỳ tại các căn cứ quân sự của Úc. Australia sẽ có được khả năng tấn công tên lửa
tầm xa trước khi các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân của họ được triển
khai.
Những lợi ích chiến lược của Pháp trong việc bảo
vệ các vùng lãnh thổ của họ ở Ấn Độ Dương và Nam Thái Bình Dương sẽ không thay
đổi, cũng như lợi ích của Pháp trong việc giữ cho các tuyến thuỷ lộ trên Biển
Đông được an toàn và an ninh cũng không thay đổi. Thời gian sẽ trả lời nếu như
Pháp quyết định đi một mình. Điều này sẽ chỉ ảnh hưởng nhẹ đến sự cân bằng ở Biển
Đông, nơi Mỹ, Nhật Bản và Australia sẽ đóng vai trò lớn hơn.
*
VOA: Vâng. Như vậy, liệu
cuộc khủng hoảng giữa các đồng minh phương Tây có mang lại lợi ích gì cho
Trung Quốc hay không?
GS. Carl Thayer: Trung
Quốc có thể có được một số lợi ích chính trị ngắn hạn từ cuộc khủng hoảng này ở
châu Âu. Nhưng Trung Quốc nay phải đương đầu với một thực tế là việc hiện đại
hóa quân đội của họ sẽ phải đối mặt với một thách thức thậm chí còn ghê gớm hơn
ở Biển Đông, không chỉ bây giờ nhưng trong những thập niên tới khi Australia có
được 8 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân.
*
VOA: Có ý kiến cho rằng
Hoa Kỳ sẽ đạt được ba mục tiêu nếu mua lại các tàu ngầm Shortfin Barracuda
của Pháp và sau đó chuyển giao chúng cho Việt Nam. Các mục tiêu sẽ đạt được bao gồm:
Chính quyền Biden sẽ sửa chữa được mối quan hệ với đồng minh lâu đời nhất
của Mỹ là Pháp. Thứ hai, cung cấp cho một đối tác an ninh đang lên bằng
những phương tiện mới mạnh mẽ để thách thức chủ nghĩa bành trướng của
Trung Quốc. Thứ ba, hành động này sẽ kiểm tra được cam kết của Tổng
thống Emmanuel Macron đối với an ninh quốc tế ở Biển Đông. Giáo sư bình luận
gì về ý kiến này? Liệu đây có thể là một lựa chọn khả thi để giải quyết cuộc
khủng hoảng giữa các đồng minh phương Tây hiện nay?
GS. Carl Thayer: Đề
xuất này chỉ là một chiếc bánh vẽ. Việt Nam đang sở hữu 6 tàu ngầm thông thường
Varshavyanka (lớp Kilo) do Nga sản xuất. Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào Nga
và một số quốc gia quen thuộc với công nghệ quân sự của Nga (như Ấn Độ,
Belarus, Ukraine) về hải quân, trong đó có hạm đội tàu ngầm. Sẽ là một cơn ác mộng
về chi phí nếu tích hợp công nghệ của Pháp vào cơ cấu lực lượng hiện nay của Việt
Nam.
Không rõ liệu Việt Nam có đủ khả năng để tích
hợp tàu ngầm của Pháp vào hạm đội hải quân của mình hay không. Cũng không rõ liệu
Việt Nam có thực sự phát triển chương trình về hạm đội tàu ngầm để bổ sung cho
chiến lược hàng hải của mình hay không. Bên cạnh đó, việc thêm các tàu ngầm
Shortfin Barracuda của Pháp cũng sẽ không làm thay đổi cán cân sức mạnh hàng hải
trên Biển Đông.
Có bốn yếu tố khác cần phải được tính đến.
Thứ nhất, Việt Nam đã chậm lại đáng kể trong
việc mua lại các phương tiện phòng thủ lớn trong những năm gần đây do chi phí bảo
trì và bảo dưỡng hiện tại. Việc mua lại các tàu ngầm Shortfin Barracudas sẽ chỉ
làm cho tình hình thêm nghiêm trọng.
Thứ hai, Việt Nam lâu nay có chính sách quốc
phòng “ba không” và được mở rộng thành “bốn không” vào cuối năm 2019. Đó là:
không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không liên kết
với một nước chống lại nước thứ ba và không sử dụng vũ lực trước. Vì vậy, Việt
Nam không thể bị mua chuộc trong việc tham gia cùng Hoa Kỳ để chống lại Trung
Quốc.
Thứ ba, bất chấp tranh chấp Biển Đông, quan hệ
song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn đang tiến triển khá tốt.
Thứ tư, vấn đề là liệu luật pháp Hoa Kỳ và/hoặc
Quốc hội Mỹ hiện tại có cho phép một thỏa thuận như vậy xảy ra hay không.
*
VOA: Vâng, thưa giáo
sư, nói về AUKUS, liệu quan hệ đối tác an ninh ba bên mới hình thành này
có mang lại lợi ích cho các nước ASEAN là các bên tranh chấp chủ quyền
trên Biển Đông hay không? Liệu Việt Nam có là một trong những quốc
gia quan trọng trong chiến lược của mối quan hệ vừa hình thành giữa
Australia, Mỹ và Anh hay không?
GS. Carl Thayer: Các
nước ASEAN, bao gồm cả Singapore, không muốn bị buộc phải chọn phe. Nhưng đa số
đều cho rằng sự hiện diện liên tục của Hoa Kỳ là mang lại sự cân bằng và ổn định
trong việc kềm chế hành vi của Trung Quốc. Sự kết hợp của Bộ tứ cộng với AUKUS
sẽ quyết định sự cân bằng quyền lực trong tương lai trong khu vực. Điều này
giúp cho các bên tranh chấp ASEAN có thời gian để phục hồi sau đại dịch
COVID-19 và phát triển nền kinh tế của họ. Tuy nhiên, cần phải nói rõ rằng đối
trọng với việc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc không giống như giải quyết
các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
Riêng Việt Nam sẽ đóng một vai trò quan trọng
như một lực lượng trung gian mới nổi. Việt Nam sẽ tìm cách tăng cường quyền tự
chủ trong các hành động độc lập và tránh ngả về phía Hoa Kỳ hay Trung Quốc. Tuy
nhiên, Việt Nam cũng đã thêm vào một cảnh báo trong “bốn không”. Sách Trắng Quốc
phòng năm 2019 của Việt Nam nói thêm rằng, “Tùy vào hoàn cảnh và điều kiện cụ
thể, Việt Nam sẽ xem xét phát triển các mối quan hệ quốc phòng và quân sự cần
thiết, phù hợp với các nước…”
*
VOA: Vâng. Cám ơn Giáo sư Carl
Thayer đã dành thời gian cho VOA.
No comments:
Post a Comment