Amy Zegart - The Atlantic
Trà
Mi dịch
Posted on June
16, 2019 by editor
Giới phân tích người Mỹ vẫn cố nhét Trung Hoa vào những
nếp quen thuộc – nhắm mắt làm ngơ rất nhiều điều cho thấy nó là một ngoại lệ.
Như một hành động
phản kháng cuối cùng, sinh viên đã dựng lên bức tượng Nữ thần Dân chủ tại Quảng
trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh vào năm 1989. Ảnh: Jacques Langevin /
Sygma Via Getty
Ba mươi năm trước tuần này, tôi đã theo dõi tin tức
từ Bắc Kinh và bắt đầu xé khăn trải giường. Đó là đêm trước khi tốt nghiệp đại
học, tôi đang học chính trị Trung Hoa, và tin tức cho hay sinh viên đại học như
chúng tôi đã bị bắn chết ở Quảng trường Thiên An Môn sau nhiều tuần hăng say biểu
tình ôn hòa đòi dân chủ – được loan tải trên truyền hình quốc tế. Tại quảng trường
nơi mà Mao Trạch Đông đã tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân nhiều chục
năm trước đó, nghững người sinh viên đeo kính của những trường đại học tốt nhất
của Trung Hoa đã cắm trại, treo áp phích với các khẩu hiệu đòi tự do bằng tiếng
Hoa và tiếng Anh. Tượng “nữ thần dân chủ” mô phỏng theo Tượng Nữ thần Tự do thể
hiện hy vọng của họ, và của chúng tôi – để giải phóng chính trị ở Trung Hoa.
Trong viện đại học của tôi hồi đó chỉ có một số ít
sinh viên chuyên ngành nghiên cứu Đông Á. Tìm hiểu về cuộc đàn áp tàn bạo ở Bắc
Kinh, bằng cách nào đó chúng tôi đã tìm thấy nhau, tập hợp bạn bè và thức đêm làm
hàng trăm chiếc băng trắng đeo ở cánh tay cho các bạn cùng lớp để bắt đầu biểu
tình vào ngày hôm sau. Vật lộn với thực tế lạnh lùng của thế giới thực mà chúng
tôi sắp bước vào, chúng tôi không biết phải làm gì khác. Vì vậy, chúng tôi xé
khăn trải giường và khóc cho những gì có thể đã là.
Ngày 4 tháng 6 năm 1989, vụ thảm sát là một cảnh tượng
kinh hoàng mà chính phủ Trung Hoa đã tìm cách xóa khỏi ký ức quốc gia kể từ đó.
Nhưng, 30 năm sau, suy ngẫm về những gì có thể đã là quan trọng hơn bao giờ hết.
Nhìn lại, Quảng trường Thiên An Môn đóng vai trò như một lời nhắc nhở tiếp tục
về việc Trung Hoa đã thách thức cỡ nào, và tiếp tục bất chấp, tỷ lệ cược và dự
đoán của giới chuyên gia. Thực
tế là nhiều thế hệ của những giới hoạch định chính sách, giới khoa học chính trị
và giới kinh tế Mỹ đã hiểu sai về Trung Hoa thường hơn so với việc họ hiểu đúng
về quốc gia này. Trong việc nội chính, phát triển kinh tế và chính sách
đối ngoại, Trung Hoa đã vạch ra một con đường coi thường nhưng tiên đoán chuyên
nghiệp, lý thuyết chung về bất cứ điều gì và kinh nghiệm của các quốc gia khác.
Ngày nay, khi giới hoạch định chính sách và giới
bình luận khẳng định rằng chiến tranh thương mại dễ thắng hoặc chiến tranh sôi
bỏng với Trung Hoa là không thể xẩy ra hoặc không thể tránh khỏi, kinh nghiệm bị
chứng minh là sai hết lần này đến lần khác sẽ nhắc nhở chúng ta rằng, nhiều khả
năng tương lai sẽ không xảy ra như đã dự đoán.
Trong những năm 1950 và thập niên 60, chính sách của
Mỹ đối với Trung Hoa đã hỏng vì quan điểm “cộng sản như nhau” đã ảnh hưởng mạnh
đến nhóm lập chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Mặc dù bây giờ chúng ta biết rằng
Trung Hoa và Liên Xô có mô hình cộng sản và lợi ích quốc gia rất khác nhau – và
mối quan hệ của họ đã rất khó khăn – những chính quyền liên tiếp ở Hoa Kỳ
vẫn đặt Trung Hoa và Liên Xô vào cùng một phe địch. Mãi cho đến khi chính quyền
Nixon, Hoa Kỳ mới bắt đầu bình thường hóa quan hệ với Trung Hoa, và đó là một
trong những chiến thắng ngoại giao vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
[Và chỉ phải trả giá rất thấp với việc cả Việt
Nam trở thành nước cộng sản; không lâu sau cộng sản Việt Nam xâm lăng cộng sản
Cambodia và ngay sau đó cộng sản Trung Hoa xâm lăng cộng sản Việt Nam. Tất cả
là kết quả phù phép của Henry Kissinger – TM].
Nếu giới lãnh đạo Mỹ đã nhận ra và tận dụng sự chia
rẽ Trung-Xô sớm hơn 1973, người ta tự hỏi sân khấu lịch sử thế giới đã có thể
diễn ra khác ra sao.
Đánh giá về kinh tế Trung Hoa cũng chẳng hay hơn. Nếu
là một nhà kinh tế trong những năm đầu sau Thế chiến II, như Michael Spence,
người đoạt giải Nobel đã chỉ ra, người ta sẽ dự đoán rằng các quốc gia châu Phi
có khả năng phát triển nhanh hơn Trung Hoa vì họ giàu có về tài nguyên thiên
nhiên. Và người ta đã lầm to. Năm 1960, GDP bình quân đầu người ở Cộng hòa Dân
chủ Congo là 220 đô la, gấp đôi GDP bình quân đầu người ở cả Nigeria và Trung
Hoa. Vào năm 2017, GDP bình quân đầu người của Trung Hoa đã tăng vọt lên gần
9.000 đô la nhiều hơn bốn lần so với Nigeria và gấp 19 lần so với Congo. Kể từ
khi chính phủ Trung Hoa bắt tay vào chương trình hiện đại hóa, năm 1978, Bắc Kinh đã đưa hơn
850 triệu người thoát khỏi đói nghèo và duy trì tốc độ phát triển kinh tế nhanh
nhất trong lịch sử loài người.
Hệ thống nội chính của Trung Hoa cũng đã bất chấp mọi
dự đoán. Nhiều người tuyên bố rằng Trung Hoa cuối cùng sẽ đi theo con đường của
những “con hổ khác của Châu Á” – Nhật Bản, Đài Loan và Nam Hàn, đã trở nên dân
chủ hơn khi họ trở nên giàu có. Điều đó không bao giờ xảy ra. Và khi làn sóng
dân chủ quét qua thế giới cộng sản từ năm 1989 đến năm 1991, kết thúc Chiến
tranh Lạnh và khiến một số người tuyên bố rằng “giờ kết thúc của lịch sử” đã điểm;
nhưng là sóng dân chủ đó đã bỏ sót Trung Hoa. Với tốc độ chóng mặt, Bức tường
Berlin sụp đổ, Đông và Tây Đức thống nhất, Liên Xô sụp đổ, Bức màn sắt sụp đổ,
và tất cả các chế độ cộng sản trước đây của Đông Âu đã được thay thế bằng các
chính phủ được bầu chọn một cách dân chủ. Lực lượng bảo vệ cộng sản già nua đã
bị lật đổ ở khắp mọi nơi trừ Bắc Kinh [Hà Nội, Pyongyang, Vientiane, và
Havana – TM]. Khi thời điểm quyết định của Trung Hoa đến, giới lãnh đạo
Đảng Cộng sản ở đây đã chọn viên đạn chứ không phải là lá phiếu. Và họ đã thực
hiện một thỏa thuận mạo hiểm, lâu dài loại Faustian [đổi linh hồn lấy kiến thức]
đổi sự bảo đảm có được phát triển kinh tế bằng sự kiểm soát tiếp tục của đảng vẫn
kéo dài kể từ đó.
Kể từ năm 1989, các chính quyền Dân chủ và Cộng hòa
kế tiếp ở Mỹ đã tin tưởng rằng việc sáp nhập Trung Hoa vào Tổ chức Thương mại
Thế giới sẽ biến Trung Hoa thành một quốc gia có trách nhiệm và làm cho Trung
Hoa trể nên giống như các nước dân chủ tư bản phương Tây. Thực tế, Trung Hoa đã
sử dụng trật tự quốc tế tự do để bảo đảm hệ thống chính trị phi tự do của mình
và tạo ra lợi thế thương mại bất công thiên vị các tập đoàn nội địa trong khi
công khai ăn cắp tài sản trí tuệ lớn đến nỗi, vào năm 2012, Tướng Keith
Alexander, khi đó là giám đốc Cơ quan An ninh Quốc gia và chiến tranh không
gian, gọi đó là sự “chuyển giao tài sản lớn nhất trong lịch sử.” Đây
là một người nổi tiếng không khi nào nói quá lời.
Tại sao nhiều người đã quá sai lầm về Trung Hoa quá
lâu như vậy? Một phần là vì giới hoạch định chính sách và các học giả đều tìm
kiếm những mô hình chứ không nhìn thấy ngoại lệ. Chúng ta được đào tạo để
khái quát hóa qua các trường hợp và sử dụng lịch sử như một bảng chỉ đường cho
tương lai. Nhưng Trung Hoa luôn luôn là một nước đặc biệt – một nước phát minh
trong thế giới cổ đại đã trở thành một quốc gia nghèo đói trong thế giới hiện đại;
một quốc gia có lịch sử đế quốc sâu sắc và đáng tự hào do một ban lãnh đạo Cộng
sản cai trị sau năm 1949 luôn nhớ về quá khứ đó; một quốc gia quê mùa với khả
năng kỹ thuật giám sát tinh vi nhất thế giới.
Ngoài ra còn có một sự trật nhịp rất căn bản trong
cách giới lãnh đạo Mỹ và Trung Hoa nhìn thời gian. Đối với người Mỹ, ký ức là
ngắn ngủi, sự chú ý là thoáng qua và chính sách đi từ khủng hoảng này sang khủng
hoảng khác. Ở Washington, phê chuẩn một ngân sách và giữ đèn sáng dường như là
những hành động anh hùng. Ngược lại, ở Trung Hoa, ký ức thì dài, sự chú ý cũng
lâu dài và chính phủ luôn lập kế hoạch cho một đoạn đường dài. Sự trỗi dậy của
Trung Hoa về trí tuệ nhân tạo và những kỹ thuật cao khác đã được chuẩn bị từ
nhiều năm. Hiện đại hóa quân sự của Trung Hoa bắt đầu vào những năm 1990. Khi
đó, một đô đốc Trung Hoa đã được hỏi bao lâu trước khi Trung Hoa chế tạo được
tàu sân bay riêng. Ông ấy trả lời, trong một “tương lai gần” – ông nấy nói thế
nghĩa là một lúc nào đó trước năm 2050. [“Tương lai gần” của Trung Hoa nghĩa
là cỡ 50-60 năm. – TM]
Những quan điểm khác nhau về thời gian còn lợn cợn
trên địa chính trị hiện đại. Đối với giới lãnh đạo Mỹ, vị trí lãnh đạo toàn cầu
của Hoa Kỳ là lý lẽ của mọi thứ. Đối với giới lãnh đạo Trung Hoa, đó là một sự
lầm lạc: Trung Hoa là một cường quốc đến khi cuộc chiến tranh nha phiến vào những
năm 1840 mở ra “một thế kỷ nhục nhằn” vì phương Tây. Tại Bắc Kinh, Trung Hoa trỗi
dậy không phải là điều mới lạ. Nó là một sự đảo ngược mọi thứ thường như vậy.
Chính quyền Donald Trump, đã lật trang, thừa nhận rằng
Hoa Kỳ và Trung Hoa đang ở trong một cuộc chiến đấu cạnh tranh, có một số lợi
ích chung và có nhiều xung đột. Sự thay đổi cơ bản của chính quyền Trump đối với
Trung Hoa không có sự chú ý hay khen ngợi xứng đáng. Dù vậy, việc lập một chính
sách của Hoa Kỳ đối với Trung Hoa cho đúng không phải là chuyện dễ dàng. Nền
kinh tế của chúng ta (Mỹ-Trung) liên kết chặt chẽ với nhau, chính trị trong nước
của chúng ta đang căng thẳng và lợi ích an ninh của chúng ta ngày càng mâu thuẫn
nhiều hơn. Một chính sách tốt đôi với Trung Hoa bắt đầu bằng cách nhận ra rằng
Trung Hoa trỗi dậy bằng nhiều cách độc đáo, và vì thế những mô hình và dự đoán
chung chung có thể che khuất nhiều hơn là có thể làm cho sự việc sáng tỏ.
© 2019 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
--------------------------
Nguồn: Decades
of Being Wrong About China Should Teach Us Something | Amy Zegart |
The Atlantic | June 8, 2019.
Amy Zegart là biên tập viên cho The Atlantic. Bà là
một viện sĩ tại Viện Hoover và Viện Freeman Spogli tại Đại học Stanford. Cuốn
sách gần đây nhất của bà là “Political Risk: How Businesses and
Organizations Can Anticipate Global Insecurity” viết chung với
Condoleezza Rice.
No comments:
Post a Comment