Đăng
lại : Dung
Tran
Chiều 21-3-1978, Hội trường của trường đảng Nguyễn
Ái Quốc II ở Thủ Đức như nghẹt thở. Mấy trăm cán bộ cơ quan trung ương và các tỉnh,
thành phố phía Nam được triệu tập về đây từ hai, ba ngày trước. Ăn, ngủ ngay tại
đây, nội bất xuất, ngoại bất nhập, công an giám sát chặt chẽ. Tôi là phóng viên
báo Tiền Phong, Trung ương Đoàn trưng dụng làm “nhiệm vụ đặc biệt” cũng nằm
trong số đó.
Nhiệm vụ đặc biệt gì không ai được biết. Qua vài
thông tin rò rỉ, các “quân sư quạt mo” nhận định chuẩn bị đánh tư sản thương
nghiệp, mật danh X-3, dưới sự chỉ huy của “Bàn tay sắt” Đỗ Mười và giờ G đã điểm!
Khi đó, ông Đỗ Mười là Phó Thủ tướng kiêm Trưởng ban Cải tạo Công Thương nghiệp
Xã Hội Chủ Nghĩa, phụ trách vấn đề cải tạo Công thương nghiệp Xã Hội Chủ Nghĩa
tại miền Nam.
Hôm đó, Đỗ Mười mặc chiếc quần Kaki màu cà phê đậm,
chiếc áo sơ mi ngắn tay cùng màu, chân đi dép, khổ người khệnh khạng, mặt chữ
“nãi”, trán ngắn đầy nếp nhăn, miệng cá trê, bờm tóc dựng trông rất dữ tợn. Tôi
đã được nghe nói nhiều về tính bốc đồng, nóng nảy của Đỗ Mười, hôm đó được giáp
mặt, quả đúng vậy.
Đúng như mọi người dự đoán, chiến dịch X-3 đã bắt đầu.
Đỗ Mười đọc Quyết định của Thủ tướng, đọc Chỉ thị
100-CP, và triển khai kế hoạch cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại
thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam.
Đỗ Mười nói: “Từ sau giải phóng chúng ta đã thực hiện
X-1, tập trung bọn ngụy quân, ngụy quyền học tập cải tạo. (Rất cần phải nhắc lại
cái kế hoạch X-1 do hung thần Đỗ Mười đề xuất: Sĩ Quan "Ngụy" từ
Trung Úy trở lên, Công chức từ cấp Chánh Sự Vụ trở lên: “Tử hình!”. May mà tuị
Pol Pot bên Campuchia làm quá nên bị cả Thế Giới nguyền rủa và lên án nên Cộng
Sản Việt Nam mới chùn tay). Đã thực hiện X-2 đánh bọn Tư Sản mại bản. Bây giờ
chiến dịch X-3, quyết liệt nhất, nhằm tiêu diệt tận gốc rễ Chủ Nghĩa Tư Bản,
tay sai đế quốc Mỹ, diệt triệt để, diệt không nương tay…ông vừa nói vừa chém
tay vào không khí.
“Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập đầu rồi,
nhưng con rắn Tư bản đánh dập đầu nó chưa chết, cái đuôi nó còn nguy hiểm hơn
cái đầu. Không giần cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn tác oai tác quái phá
chúng ta. Vừa qua kẻ nào vơ vét mì chính (bột ngọt), vải vóc, đường, sữa đầu cơ
trục lợi, rồi lại đổ tội cho nhà nước ta chuyển ra Bắc nên thị trường khan hiếm
(nhưng hỡi ôi, đúng là nhà nước vét hết để chở ra bắc vì dân bắc sống sung sướng
trong thiên đường XHCN nên các cửa hàng trống rỗng, thực phẩm phải mua bằng tem
phiếu, vải được phân phối mỗi năm 4 mét/người). Chính là bọn Tư sản thương nghiệp!
Kẻ nào tích trữ thóc gạo để dân ta đói? Chính là bọn đầu nậu lúa gạo. (thực ra
chính CS đã đầu nậu). Tôi hỏi các đồng chí, kẻ nào cung cấp lương thực, thực phẩm
cho tổ chức phản động trên Lâm Đồng chống phá cách mạng? Kẻ nào? Chính là bọn
Tư sản đấy! Bọn gian thương đầu cơ, phá hoại, bọn ngồi mát ăn bát vàng, rút rỉa
máu xương đồng bào ta, ngăn cản con đường tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa của Đảng
ta...”.
Đỗ Mười nói say sưa, hùng hồn, quyết liệt. Mép sủi bọt.
Tay vung vẩy. Mồ hôi trán đầm đìa. Lúc đầu mặc quần áo nghiêm chỉnh, sau một hồi
diễn thuyết khoa chân múa tay, Đỗ Mười bật nút áo sơ mi phanh ngực ra. Cuối
cùng cởi phăng cái áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi, trên người ông chỉ còn mỗi chiếc áo
may ô ba lỗ.
Đỗ Mười vẫn hăng nói: “Cho nên chúng ta phải róc thịt
chúng ra. Bắt chúng lao động sản xuất, tự làm lấy mà ăn. Phải biết cày ruộng, cấy
lúa, trồng ngô. Đất hoang còn nhiều, bắt chúng đổ mồ hôi sôi nước mắt kiếm miếng
ăn…”
Bầu không khí ngột ngạt và kích động muốn nổ tung hội
trường. Sức nóng từ Đỗ Mười truyền đến từng người. Tiếng vỗ tay rào rào, tiếng
cười tiếng nói hả hê. Những gương mặt hừng hực khí thế “xung trận”.
Xin đừng ở vị trí hôm nay phán xét những
người trong cuộc ba mươi lăm bốn mươi năm trước, thời điểm đó tư duy của mọi
người khác bây giờ, nhất là tư duy của những cán bộ đảng viên vốn tin tưởng tuyệt
đối vào đường lối chính sách của Đảng. Những người mà Đảng bảo sao cứ làm đúng
phóc như vậy. Hãy bình tĩnh nhìn lại một cách trung thực, khách quan, để thấy một
phần nỗi đau của mình, bạn bè mình, dân tộc mình, nỗi đau từ sự ấu trĩ, nóng vội,
làm ào ào, đặt trái tim không đúng chỗ ngay từ khởi đầu!
Đỗ Mười kết thúc buổi triển khai chiến dịch X-3, bằng
mấy cái chém tay như có ‘thượng phương bảo kiếm’: “Anh nào, chị nào nhụt ít chí
thì lui ra một bên. Kẻ nào tỏ ra nhân nhượng với bọn tư sản là phản bội giai cấp,
không phải Bôn-sê-vích, có tội với đảng với dân, sẽ bị trừng trị!”
Chúng tôi ra về với một tâm trạng nặng nề, mang theo
lời cảnh tỉnh "Tuyệt đối bí mật”.
Nhưng hình như linh tính đã báo điềm chẳng lành cho
thành phố Sài Gòn. Đó là cảm giác của tôi khi chạy xe máy từ cầu Công Lý lên cảng
Bạch Đằng vòng qua Chợ Lớn. Người dân đổ ra đường nhiều hơn, vội vã, tất tưởi,
gương mặt thất thần, nhiều tốp người tụm nhau bàn tán. Người ta nháo nhào đi
mua từng cân muối ký gạo, như sắp chạy càn. Người dân thành phố vốn nhạy cảm và
đó lại là cảm giác đúng: Thủ tướng nào thì chưa biết, nhưng trước hết phải lo
thủ lấy miếng ăn!
Bảy giờ sáng hôm sau, ngày 23-3-1978, tất cả các cửa
hàng kinh doanh to nhỏ, đủ mọi ngành nghề, ngóc ngách, đóng cửa, án binh bất động
theo lệnh của Ủy ban nhân dân thành phố (UBND) Hồ Chí Minh. Một bản thông báo
ngắn gọn do ông Vũ Đình Liệu thay mặt UBND thành phố ký được ban hành ngay sau
đó, xác nhận “Chiến dịch X-3”, bắt đầu ở thành phố "mang tên
Bác".
Bên cạnh các chiến dịch đánh tư sản, Hà Nội còn áp dụng thêm một số biện
pháp có tính toán nhằm triệt tiêu mầm mống tư sản ở miền Nam thông qua cái gọi
là “kinh tế mới”. Ảnh: Internet
Tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán, nhà hàng, cửa
hàng, kho tàng, trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Danh sách đã được lên từ trước!
Họ làm bí mật lâu rồi. Như một trận đánh giặc đã được trinh sát, điều nghiên tỉ
mỉ, chính xác. Các tổ công tác ập vào từng điểm bất ngờ, nhanh chóng niêm phong
tài sản, khống chế mọi người trong gia đình nội bất xuất, ngoại bất nhập. Mỗi
điểm niêm phong có tối thiểu một tổ ba người, không cùng cơ quan, không quen biết
nhau. Họ là thanh niên xung phong, thanh niên công nhân các nhà máy, sinh viên
các trường đại học, cả những thanh niên các phường được huy động vào chiến dịch.
Ngay buổi chiều hôm ấy một cuộc mít tinh tuần hành từ
Nhà văn hóa thanh niên do Thành Đoàn tổ chức. Hàng ngàn học sinh, sinh viên rầm
rộ xuống đường, diễu hành khắp các phố chính Sài Gòn, Chợ Lớn, hoan nghênh
chính sách cải tạo công thương nghiệp của Đảng, đả đảo bọn gian thương! Suốt
đêm Câu lạc bộ thanh niên vang lên bài ca “Tình nguyện”, “Dậy mà đi”. Khi chống
Mỹ sinh viên học sinh hát những bài hát ấy, giờ cũng hát những bài hát ấy để
tăng bầu nhiệt huyết đánh tư sản!
Ngày 26-3-1978, cô công nhân Nguyễn Thị Bé B. ở nhà
máy dệt Phong Phú được kết nạp Đoàn vì từ chối nhận một món quà của một cơ sở
kinh doanh mà cô canh giữ. Tiếp theo một trường hợp tương tự, anh thanh niên Vũ
Ngọc Ch. ở nhà máy dệt Thắng Lợi.
Mấy ngày sau tiếng trống ở trường Trần Khai Nguyên
quận 5, vang lên, như trống trận. Đó là nơi tập trung của 1.200 thanh niên học
sinh người Hoa xuống đường ủng hộ chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản
tư doanh, người dẫn đầu là cô học sinh lớp 11, có gương mặt búp bê, mái tóc cắt
ngắn: Lý Mỹ.
Lý Mỹ là con gái một gia đình kinh doanh buôn bán,
có một cửa hàng ở đường Cách mạng Tháng Tám, quận 10. Khi X-3 nổ ra, Lý Mỹ mới
17 tuổi, được tổ chức Đoàn tuyên truyền giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa,
được kết nạp đoàn khóa 26-3, được nghe đích thân Đỗ Mười nói chuyện về chính
sách cải tạo công thương nghiệp. Trái tim non trẻ của cô học sinh mười bảy tuổi
như sôi sục bầu máu nóng đấu tranh giai cấp, cô đã chọn đối tượng để đấu tranh:
đó chính là cha mẹ mình!
Lý Mỹ vận động thuyết phục cha mẹ kê khai tài sản,
cha mẹ chần chừ, cô trực tiếp đứng ra kê khai. Cô theo dõi bố mẹ cất giấu vàng
bạc, của cải, báo cho tổ kê khai moi móc ra bằng hết. Lý Mỹ phát biểu trên báo:
“Tinh thần Pavel Corsaghin sáng chói trong trái tim tôi! Tôi không cần vàng bạc,
của cải, cha mẹ tôi bóc lột của nhân dân. Từ hôm nay tôi từ bỏ giai cấp bóc lột,
bước sang cuộc sống mới, hòa vào dòng người lao động vinh quang xây dựng xã hội
chủ nghĩa” (Báo Tiền Phong số 40,1978).
Khi cha mẹ vật vã than khóc, và dọa ra nước ngoài,
Lý Mỹ tuyên bố nếu cha mẹ xuất cảnh, cô sẽ ở lại một mình, chấp nhận cuộc sống
cô đơn để cống hiến cho lý tưởng Cộng Sản!
Không phải chỉ có một Lý Mỹ, mà hàng trăm “Lý Mỹ”
như vậy. Những “Lý Mỹ” được sinh ra nóng hổi dưới lá cờ Đoàn Thanh Niên Cộng Sản
Hổ Chí Minh, và qua sự khích động của Đỗ Mười.
Trong cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc có con tố
cha mẹ, vợ tố chồng, bạn bè tố nhau. Những cán bộ từng hoạt động bí mật trong
chiến tranh, được những gia đình buôn bán, giàu có bao bọc, giờ quay ngoắt lại
tịch thu tài sản ân nhân của mình. Những tính từ bọn, đồng bọn, “tên tư sản”,
“con buôn” thay danh từ ông, bà, anh, chị. Gần ba chục năm trước, người bị quy
là địa chủ, phú nông xấu xa thế nào, thì 1978, người bị gọi là tư sản, con buôn
xấu xa như vậy. Người ta, vì ngu dốt như Đỗ Mười, đã phủ nhận một tầng lớp tiên
tiến của xã hội, nhục mạ tầng lớp đó, đào hố ngăn cách giữa các tầng lớp nhân
dân, và kéo lùi sự phát triển của đất nước, đó là một sự thật lịch sử cần ghi
nhận.
Chiến dịch X-3 ở thành phố Hồ Chí Minh đã đánh gục
28.787 nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, hộ buôn bán.
Ông Nguyễn Văn Linh nói: “Khi tôi làm Trưởng ban cải
tạo trung ương, tìm hiểu và dự kiến Sài Gòn, Chợ Lớn có khoảng 6.000 hộ kinh
doanh buôn bán lớn. Khi Đỗ Mười thay tôi, anh ấy áp dụng theo quy chuẩn cuộc cải
tạo tư sản Hà Nội từ năm 1955, nên con số mới phồng to lên như vậy” (Nguyễn Văn
Linh, "Những trăn trở trước đổi mới").
Đỗ Mười đưa hàng ngàn hộ tiểu thương, trung lưu vào
diện cài tạo, gộp luôn những hộ sản xuất vào đối tượng đó.
Ông Nguyễn Văn Linh nói: “Anh Mười không trao đổi với
chúng tôi. Anh ấy có ‘thượng phương bảo kiếm’ trong tay, toàn quyền quyết định”.
Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm Trưởng ban cải tạo
ngày 16-2-1978. Trong chiến dịch X-3, Đỗ Mười không sử dụng người của Nguyễn
Văn Linh mà đưa hầu hết cán bộ từ miền Bắc vào nắm giữ những vị trí quan trọng.
Đồng thời Đỗ Mười bố trí cán bộ các ngành thương nghiệp, giao thông vận tải,
công nghiệp nhẹ, kho hàng vào tiếp quản. Đỗ Mười đóng đại bản doanh ở Thủ Đức,
trực tiếp chỉ đạo, không tham khảo bất cứ ý kiến ai trong cơ quan lãnh đạo
thành phố Hồ Chí Minh.
Kết
quả X-3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, thu được khoảng
hơn 4.000 (kg) vàng, gần 1.200.000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống
kê hết. Từ chiếc xe hơi, TiVi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà...đều
khê khai và tịch thu chất trong các kho, để rồi không cánh mà bay, hoặc biến
thành phế thải.
X-3, cú đòn trời giáng cuối cùng, biến “Hòn ngọc Viễn
Đông” thành “Thành phố chết”, đẩy thêm dòng người bỏ đất nước ra đi bất chấp hiểm
nguy, bao nhiêu số phận đã rã rời trên biển sâu. Năm 2005, cựu Thủ tướng Võ Văn
Kiệt nhìn nhận: "Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công
thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng
đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế”.
Có lần chúng tôi hỏi nhà báo Trần Bạch Đằng: “Hình
như trong 63 năm tham gia cách mạng và làm lãnh đạo, Đỗ Mười không để lại một
tác phẩm nào?”. Ông Trần Bạch Đằng chớp mắt nhếch cái miệng méo xẹo: “Cha ấy để
lại cho đời tác phẩm cải tạo công thương nghiệp, biến Sài Gòn và miền Nam thành
những vùng đất chết!”.
Ông Đoàn Duy Thành, nguyên Phó Thủ tướng chính phủ kể:
"Một lần anh Mười xuống Hải Phòng, tôi và anh Nguyễn Dần dẫn anh ấy đi
thăm nhà máy đóng tàu. Đi ngang Quán Toan thấy cái nhà hai tầng, anh Mười hỏi:
“Nhà ai đây?” tôi trả lời: “Dạ nhà anh Bút lái xe”, anh Mười nói: “Nếu tôi mà
là bí thư, chủ tịch thành phố tôi sẽ tịch thu ngay cái nhà này làm nhà mẫu
giáo!”.
Đỗ Mười là người đố kỵ với Võ Nguyên Giáp, không biết
vì ghen ghét tài năng hay nguyên nhân gì. Ông Đoàn Duy Thành kể: “Chuẩn bị Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ V, anh Mười gọi tôi tới, nêu vấn đề anh Văn năm 16
tuổi được thực dân Pháp cho sang Pháp học 6 tháng. Rồi anh Mười bảo, về nói cho
đoàn đại biểu Hải Phòng biết, và những ai quen biết ở các đoàn khác cũng nói
cho các đồng chí ấy biết. Tôi hỏi anh Trường Chinh, anh Trường Chinh bảo: “Võ
Nguyên Giáp năm 1941-1942, kể cả việc làm con nuôi Martin trùm mật thám Đông
Dương là chuyện bịa hết! Anh Mười, anh ấy rất võ biền. Các cuộc họp tôi nói,
anh ta thường chặn lời tôi…” (hồi ký "Làm người là khó").
Ông Nguyễn Văn Linh trong một lần hội nghị ở T78 đã
nói thẳng với Đỗ Mười: “Anh Mười tưởng rằng làm Ủy viên Bộ chính trị là to lắm,
muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, muốn phê bình ai cũng được. Đỗ Mười đứng
dậy nói: “Tôi nói đó là tinh thần Bôn-sê-vich” (Làm người là khó).
Ông Đoàn Duy Thành kể tiếp: “Có lần tôi hỏi anh Tô
(Phạm Văn Đồng): “Còn Đỗ Mười thì sao?”. Anh Tô suy nghĩ hai ba phút rồi nói:
“Chỉ có phá!”.
Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rất đúng với trường
hợp cải tạo công thương nghiệp. Cũng đúng thôi, vì ông Mười xuất thân từ nghề
hoạn lợn thiến heo sau đi theo cách mạng. Ông đâu có được học hành gì, bởi thế
những suy tư và hành động của ông là suy tư và hành động của những tên lưu
manh, vô lại, khi bỗng nhiên có chức, có quyền.
Năm nay Đỗ Mười hơn chín chục tuổi rồi. Nghe nói vẫn
phải nuôi con mọn do cô hộ lý sinh ra và nghe nói là con của ông??? Không biết
có đúng không, và nếu đúng, tương lai nó sẽ ra sao? Cầu trời, nó đừng như những
“đứa con” sinh ra từ cuộc cải tạo công thương nghiệp 1978 như Lý Mỹ!
Nguyên
Hồng.
Ảnh : Ông Đỗ Mười .
( Tên thật là Nguyễn Duy Cống. 1917-2018 )
( Tên thật là Nguyễn Duy Cống. 1917-2018 )
--------------------------------
XEM
THÊM
Lê Phú Khải
03/10/2018
Về cuộc đời và “sự nghiệp” chính trị của Tổng bí thư
Đỗ Mười thì ai cũng đã biết, và cũng đã viết về ông, tôi không nhắc lại nữa.
Tôi chỉ muốn kể những “kỷ niệm” đầy chất humour về ông mà thôi...
Đó là vào đầu năm 1995, trước Đại hội Đảng lần thứ
8, cũng là dịp kỉ niệm 20 năm ngày đất nước thống nhất, với tư cách là phóng
viên Đài Tiếng Nói Việt Nam thường trú nhiều năm tại Đồng bằng sông Cửu Long,
tôi có viết một bài nhan đề “Hai mươi năm Đồng bằng sông Cửu Long”. Bài này sau
đó đăng trên báo Sài Gòn giải phóng liền hai số báo ra vào các
ngày 18-4 và 19-4-1995. Trước khi đăng báo, tôi có gửi bản thảo viết tay ra Hà
Nội cho ông Sáu Phan (Nguyễn Hà Phan) đương kim Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đảng,
vốn là người sinh ra và lớn lên ở Miền Tây Nam Bộ, để ông tham khảo. Sau khi nhận
được thư, ông Sáu Phan viết thư tay trả lời tôi. Trong thư có đoạn viết “...tôi
xem thấy hay, chụp gửi các anh lãnh đạo và Tiểu ban chuẩn bị văn kiện Đại hội
8”.
Vì lẽ đó, khi Tổng bí thư Đỗ Mười vô TP Hồ Chí Minh
sau đó, ông Sáu Phan có gọi điện cho tôi bảo lên T78, tức nhà khách của Trung
Ương, để gặp TBT Đỗ Mười báo cáo thêm... Tôi lên T78 và mang theo cuốn sách mới
in có tên “Viết từ đồng bằng sông Cửu Long” (NXB TP.HCM) để tặng Tổng bí thư.
Gặp ông Đỗ Mười, tôi chủ yếu nghe ông nói là chính.
Trong khi nói, ông luôn đưa tay “chém gió” và thú thật tôi chẳng hiểu ông nói
gì, vì chuyện nọ xọ chuyện kia, không ra đầu ra đuôi gì cả... Lúc tôi xin phép
ra về, ông còn tiễn tôi ra cửa. Ông nắm lấy cánh tay trên của tôi, nắm rất mạnh
còn lắc lắc... và nói: Sao cậu gầy thế [Miền Nam kêu là... ốm thế!]. Tôi
trả lời: Có phải đảng viên đâu mà béo được! [Miền Nam kêu là... mập được!]. Ông
liền bảo tôi: Thế là tốt!!!
Trên đường về, tôi rẽ qua cơ quan đại diện báo Quân
đội nhân dân ở TP Hồ Chí Minh, kể lại câu chuyện béo, gầy này với Đại
tá nhà báo kiêm nhà thơ Trần Thế Tuyển. Anh Tuyển “mắng” tôi: Ông ngu bỏ mẹ!
Người ta nói “tốt”... là tốt cho Đảng. Người như ông mà vào Đảng là chỉ có phá
Đảng mà thôi! Người ta làm chính trị nên chỉ nói đến thế... Ông phải tự suy ra
mà hiểu, còn đi khoe cái nỗi gì. Ông ngu quá!!!
Chúng tôi đã ôm nhau cười...!!!
Về cái điệp ngữ “Thế là tốt!” của ông Đỗ Mười, sau
này tôi còn được nghe nhiều giai thoại. Chẳng hạn, có lần ông Đỗ Mười hỏi cậu bảo
vệ: Ông già cậu ở quê dạo này thế nào? Cậu bảo vệ thưa: Dạ, bố con mới mất! Ông
liền bảo: Thế là tốt!!! Có lần ông hỏi cậu lái xe: Tên cậu là gì? Thưa: - Tên
con là Kim. Chiều ông lại hỏi: Tên cậu là gì? Thưa: - Từ sáng đến giờ tên con vẫn
là... Kim! Tôi còn được gặp ông Đỗ Mười nhiều lần trong các cuộc ông đi kinh lý
Nam Bộ. Có lần ông nói chuyện với các trí thức ở Mặt trận Tổ quốc TP Hồ Chí
Minh, trong đó có các trí thức tên tuổi như Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh, từng là
Phó thủ tướng chế độ Sài Gòn cũ... Khi giải lao, Tiến sĩ Oánh và nhiều người
khác đến hỏi tôi về những điều ông Đỗ Mười vừa nói, các vị đó không hiểu ông đã
nói gì?! Có lẽ vì ông nói giọng Bắc, dùng nhiều từ bình dân của dân Bắc và lại
nói chuyện nọ dọ chuyện kia nên các vị ấy không hiểu! Tôi đành trả lời các vị
trí thức Miền Nam rằng: Quả thật tôi cũng không biết ông nói gì!!!
Một lần, vào khoảng đầu năm 1997, tôi ra Hà Nội, một
vị lãnh đạo ở Bộ Nông nghiệp bảo tôi: Ông Trần Đức nguyên Phó ban Nông nghiệp
Trung ương rất muốn gặp tác giả hay viết về Đồng bằng sông Cửu Long là tôi. Ông
Trần Đức là tác giả cuốn sách rất nổi tiếng mang tên: “Kinh tế trang trại - sức
mạnh của nền nông nghiệp Pháp” mà tôi rất muốn có, vì thế, tôi đi liền. Nhà ông
Trần Đức ở đầu đường Phạm Đình Hổ, sát vách nhà ông Đỗ Mười. Khi đến, tôi rất bất
ngờ về vẻ đẹp của bà Mai, vợ ông Trần Đức. Tuy đã lớn tuổi nhưng bà Mai có một
vẻ đẹp vô cùng quý phái và ăn nói rất lịch thiệp. Nghe đâu, sau hòa bình 1954,
tỉnh Thanh Hóa “điều” bà Tỉnh ủy viên Tây học này ra Hà Nội để làm mai
cho Bác Hồ, nhưng việc không thành!!!
Trong lúc chờ cơm, ông Đức dẫn tôi lên sân thượng
hóng mát. Ông Đức chỉ tay vào cái sân thượng liền kề và bảo tôi: Chúng ta bước
qua cái thành lan can này sang sân thượng nhà ông Đỗ Mười rồi đi “từ trên đầu”
xuống, thăm ông Mười!!! Tôi nghe theo... Ông Đỗ Mười đã tiếp tôi và ông Đức, và
ông vẫn”chém gió” như thường ngày... Sau đó chúng tôi lại đi ngược lên sân thượng
nhà ông Mười để về... “nhà mình” ăn cơm trưa.
Suy nghĩ về TBT Đỗ Mười, tôi có nhận xét riêng của
mình, xin cứ mạo muội trình bày: Ông là tấn bi hài kịch của một người lãnh đạo
Đảng Cộng sản xuất thân từ tầng lớp bình dân trong xã hội Việt Nam nông nghiệp
lạc hậu phong kiến nửa thực dân trước 1945. Vì yêu nước, ông đi làm cách mạng,
từng bị thực dân tù đày, tra tấn. Nhưng vì đi lạc vào quỹ đạo Cộng sản nên bị
“ma dẫn lối, quỷ đưa đường...!”. Đó là bi kịch cho chính ông và cho cả nhân dân
của ông, trong đó có người viết những dòng này!!!
Ảnh 1: Ông Đỗ Mười (trái) với trong tay cuốn “Viết từ đồng bằng sông Cửu
Long” do tác giả (phải) tặng.
Ảnh 2: Người thắt cà-vạt là Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh cùng các trí thức Miền
Nam với ông Đỗ Mười, tác giả đứng sau TBT Đỗ Mười với máy ghi âm trong tay...
Ảnh 3: Chữ ông Đỗ Mười rất đẹp... trong sổ tang của nhà văn hóa Nguyễn Khắc
Viện (1997). (Ảnh do tác giả chụp lại từ sổ tang)
Ảnh 4: Thư của ông Sáu Phan gửi tác giả đề ngày 15.4.1995.
L.
P. K.
Tác giả gửi BVN
No comments:
Post a Comment