Henry Kissinger
Trọng
Đạt lược dịch
Posted by adminbasam on
13/04/2015
Lời
giới thiệu
Năm 1956 Đại Tướng Henri Navarre, Tư lệnh quân đội
Viễn chinh Pháp tại Đông Dương (5/1953–6/1954) viết Agonie de l’Indochine, Đông
Dương Hấp Hối, dầy 335 trang. Tác giả cho thấy tình trạng không thể cứu chữa được
của Đông Dương khi mà người dân và chính phủ Pháp đã quá chán nản không muốn tiếp
tục cuộc chiến. Cựu Tư lệnh bào chữa cho chính ông và quân đội Pháp về nguyên
do thất thủ Điện Biên Phủ, qui trách nhiệm cho chính phủ Pháp đã đưa tới sự hấp
hối sụp đổ cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất 1946-1954. Cách đây hai năm tôi
đã dịch và lược dịch vài chương chính trong Agonie de l’Indochine để trình bày
với quí độc giả về tình hình bi đát của Đông Dương những năm 1953, 1954.
Hơn hai mươi năm sau, Henry Kissinger, Cố vấn an
ninh Tổng thống cũng kể lại tình trạng hấp hối của miền nam Việt Nam trong hồi
ký của ông. Chiến tranh Việt Nam hay chiến tranh Đông Dương cũng là một vì hơn
90% cơn khói lửa đã diễn ra tại Việt Nam. Tại đây Henry Kissinger nói về sự khởi
đầu của sụp đổ, thực trạng, nguyên do Việt Nam hấp hối vào năm 1969 trong cuộc
chiến Đông Dương lần thứ hai.
Năm 1979 Kissinger viết hồi ký White House Years, Những
Năm Tại Tòa Bạch Ốc dầy 1,500 trang khổ giấy lớn, tương đương cuốn sách 2,000
trang khổ giấy trung bình. Chương thứ VIII trong cuốn này: The Agony of
Vietnam, Việt Nam Hấp Hối, dài 85 trang (226 -311) tương đương một cuốn sách
trên 100 trang. Nó cùng tên gọi với cuốn hồi ký của Tướng Navvare kể trên, cùng
mục đích diễn tả lại sự chán nản của người dân cũng như Hành pháp Mỹ.
Trên đống tro tàn quá khứ, Henry Kissinger quay lại
khúc phim bi kịch miền nam VN năm 1969, dần dần những sự thật phũ phàng về cuộc
chiến Đông Dương đã được tiết lộ. Henry đã làm sống lại cả một giai đoạn lịch sử
mà quyết định sai lầm trầm trọng của tân Tổng thống Nixon và Nội các mới đưa tới
thảm kịch mấy năm sau. Theo ông, người Mỹ đã sai lầm lớn khi nhượng bộ Hà Nội với
hy vọng khai thông bế tắc tại cuộc hòa đàm Ba Lê. Trước hết cuối tháng 10-1968,
Tổng thống Johnson đã cho ngưng oanh tạc toàn diện Bắc Việt theo yêu cầu của Hà
Nội và sau đó, năm 1969 tân Tổng thống Nixon đã nhượng bộ Hà Nội rút quân đơn
phương. Henry Kissnger cho rằng cả hai nhượng bộ đều không được CSVN đếm xỉa tới,
hòa đàm vẫn bế tằc cho tới khi địch thảm bại trong trận mùa hè đỏ lửa 1972 họ mới
chịu nhượng bộ Mỹ nhiều điều khoản khai thông Hội nghị vào tháng 9 và tháng
10-1972.
Riêng về trường hợp Nixon, Henry cho rằng tân Tổng
thống đã thực hiện rút quân đơn phương về nước bắt đầu từ gần cuối 1969 nhằm
hai mục đích chính:
-Thúc đẩy đàm phán tại Ba Lê tiến nhanh hơn, nhượng
bộ Hà Nội cho rút quân không điều kiện.
-Xoa dịu dư luận chống đối trong nước
Nhưng ông nhận định cả hai mục tiêu trên đều không đạt
được, trước hết tại cuộc hòa đàm phía Hà Nội không hề thay đổi lập trường. Yêu
cầu của họ vẫn y như cũ, giống như những lời khắc trong đá: Mỹ rút quân không
điều kiện, loại bỏ Thiệu, lập chính phủ Liên hiệp, cắt viện trợ VNCH… Sở dĩ địch
cứng đầu vì họ nắm được cái tẩy của Hành pháp Mỹ đang bị Quốc hội và người dân
chống đối mạnh.
Việc Mỹ rút quân để xoa dịu dư luận trong nước cũng
hoàn toàn thất bại, tại Mỹ phong trào chống đối vẫn lên cao, người dân không
bao giờ vừa ý. Sau này chính Nixon phải công nhận trong hồi ký (No More Vietnạms)
mặc dù đã đem lại hòa bình (1-1973) lấy tù binh, đưa quân về nước nhưng phong
trào phản chiến vẫn ngoan cố tiếp tục chống đối mạnh, hết chống chiến tranh họ
chuyển sang vụ Watergate.
Nhậm chức năm 1969, Nixon vừa phải tiến hành cuộc
chiến tại Đông Dương, đương đầu với CSBV ngoan cố tại bàn Hội nghị, nhất là phải
xoa dịu Quốc hội và phong trào phản chiến. Nixon tứ bề thọ địch, phải chống đỡ
tại mặt trận ngoại quốc cũng như đối chọi với mặt trận tại đất nhà mà mặt trận
này xem ra còn khốc liệt hơn: Quốc hội thù nghịch chống đối, đảng đối lập Dân
chủ nay bắt tay với phong trào phản chiến chống lại Hành pháp Cộng hòa ngày một
rộng lớn. Thật là khôi hài, một nền Hành pháp, một chính phủ phải năn nỉ Quốc hội,
xoa dịu người dân, đương đầu với chính tình hình trong nước, một chính phủ
không có thực quyền như thế thử hỏi còn làm được gì?
Kissinger chỉ trích chương trình rút quân của Nixon
cho là sẽ làm sụp đổ miền nam vì họ không đủ sức chống lại cuộc xâm lăng mấy
năm sau. Tác giả Walter Isaacson trong cuốn Kissinger a Biography (trang
234-241) có đề cập nhiều về chương trình này, mà theo Walter do Bộ trưởng quốc
phòng Laird đề nghị, Nixon chấp nhận, Kissinger chống đối nhưng không can ngăn
được Nixon. Kissinger phản đối rút quân vì cho rằng nó sẽ làm mất thế mạnh tại
bàn Hội nghị, tại đây có sự bất đồng ý kiến giữa các nhà lãnh đạo Hành Pháp.
Laird đặt tên chương trình này là Việt Nam hóa chiến tranh (Vietnamization) mà
Walter Isaacson cho là nghe thì lịch sự nhưng tàn nhẫn, vô cảm, độc ác. Kế hoạch
rút khỏi Việt Nam sinh ra một học thuyết mới: Thuyết Nixon (The Nixon doctrine)
chủ trương không can thiệp vào nước khác (Interventionism) mà đứng biệt lập
(Isolationism). Các nhà học giả Mỹ về chiến tranh VN cho rằng các danh từ hoa mỹ
như Việt nam hóa chiến tranh, học thuyết Nixon chẳng qua chỉ là rút quân bỏ chạy
trá hình.
Mặc dù phản đối chương trình này cho là sẽ nguy hại
tới an ninh miền nam VN nhưng Kissinger không đưa ra một phương án cụ thể nào
khả dĩ thay thế rút quân mà ông chỉ nói cần làm mạnh vào năm 1970, có nghĩa là
oanh tạc mạnh CSBV bằng B-52 để lấy lợi thế. Các phụ tá của Kissinger đã nghiên
cứu một kế hoạch quân sự: phong tỏa Hải phòng, oanh tạc các cơ sở quân sự Bắc
Việt trong 4 ngày… để buộc CS đàm phán nghiêm chỉnh nhưng chính ông không dám đề
nghị kế hoạch táo bạo này lên Nixon.
Trong phần kết luận chương này, Kissinger bi quan
không tin tưởng vào kế hoạch, bằng giọng chán chường thất vọng, ông lấy làm tiếc
đã không can ngăn được Tổng thống và Nội các khi họ đã lựa chọn giải pháp tàn
nhẫn này. Kissinger nói ông đã tiên đoán trước sự thất bại của chương trình
(rút): tại Ba Lê đối phương vẫn cứng đầu không chịu đàm phán, tại mặt trận đất
nhà bọn phản chiến ngày càng ngoan cố, leo thang chống đối, cuối cùng miền nam
VN sụp đổ vì không đủ lực lượng gánh vác toàn bộ chiến trường. Henry nói.
“Một khi tiến hành (rút) không quay lại, tôi biết là
nó có thể là một con đường dài bi thảm và có thể đưa tới thất bại – mà tôi đã
nhiều lần trình bầy sơ lược những những nguy hiểm của nó với Tổng thống
(Nixon)”
Kissinger đã đặt cho Chương VIII này cái tên “cường
điệu” Viêt Nam Hấp Hối để lên án sự sai lầm trầm trọng và nguy hại của kế hoạch,
dù sao đây cũng chỉ là quan điểm riêng của tác giả về chương trình này.
Quí vị có thể tham khảo thêm trong cuốn sách nổi
tiêng Kissinger a Biography (từ trang 234 tới 241) của Walter Isaacson nói về đề
tài này.
Và tôi xin lược dịch Chương VIII, The Agony of
Vietnam trong White House Years, từ trang 226 tới 311.
Trọng Đạt
_______
Chương “The Agony of Vietnam” nằm trong sách White House Years
Việt
Nam Hấp Hối
Kissinger nói tôi không thể viết về Việt Nam mà
không đau lòng. Khi chúng tôi tới nhận nhiệm sở (vào Bạch Ốc), hơn nửa triệu
quân Mỹ đang chiến đấu cách xa nước Mỹ mười ngàn dặm. Chúng tôi chưa nghĩ tới
việc rút quân, 31,000 người đã chết, năm 1969 uy tín và niềm tin vào cuộc chiến
đã bị hủy hoại, cuộc chiến tranh của chúng ta không công khai và không được Quốc
Hội, người dân, truyền thông ủng hộ. Năm 1969 người dân chống đối dữ dội, ngày
càng tăng hơn, họ gồm bốn thành phần: Những người yêu hòa bình không muốn Mỹ
tham gia cuộc bắn giết; nhóm thực tiễn không thấy kết quả tốt; nhóm biệt lập
không muốn Mỹ can thiệp; nhóm lý tưởng kết án cuộc chiến dã man.
Hành pháp Nixon vào Tòa Bạch ốc, những người (Dân chủ)
đã gây ra cuộc tham chiến tại VN, mới đầu họ trung lập sau quay ra chống đối. Họ
buộc Nixon có trách nhiệm về cuộc chiến mà ông chỉ thừa hưởng, họ tấn công ông
ta nhân danh những giải pháp mà chính họ đã không thực hiện khi còn cầm quyền.
Một siêu cường chấm dứt chiến tranh bỏ một nước nhỏ
cho bọn bạo chúa là thiếu đạo đức và còn phương hại tới bang giao quốc tế. Người
Mỹ muốn chấm dứt chiến tranh, qua thăm dò và qua bầu cử cho thấy họ coi mục
đích cuộc chiến là đáng trân trọng, họ không muốn Mỹ bị thua nhục nhã. Chính phủ
phải quan tâm kính trọng những gia đình có con chết cho đất nước (US) và họ
không muốn những hy sinh ấy là vô ích
Tôi nghĩ chiến tranh VN là một sự ngây thơ về lý tưởng,
đất nước phải mắc nợ những hy sinh của những thanh niên Mỹ.
Tôi
sa vào chỗ sa lầy
Cuộc chiến VN là do Bắc Việt muốn chiếm miền Nam bằng
vũ lực, Trung Cộng điều khiển cuộc chiến này. Walt Rostow, Giám đốc nghiên cứu
chính sách Bộ ngoại giao nói người Pháp có mấy trăm ngàn quân ở Đông Dương thất
bại, họ không có lực lượng lưu động như Mỹ. Việc lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm
làm mất niềm tin các nước Đông Nam Á, mặc dù sau đó thắng về quân sự nhưng
không bù lại những thất bại chính trị. Trước 1963 địch chỉ đánh du kích nhưng
sau khi đảo chính Ngô Đình Diệm chúng mới đánh chính qui. Năm 1965 Kissinger
nói ông nằm trong số đám đông thầm lặng ủng hộ chính phủ Johnson đưa quân vào
chống lại CS Hà Nội xâm lăng miền nam VN. Cabot Lodge mời ông sang thăm VN
tháng 10 -1965 hai tuần và tháng 7-1966 trong mười ngày, và vài ngày tháng 10-
1966. Kissinger nhận dịnh ta không thể thắng được vì địch có căn cứ hậu cần bên
Lào, Miên. Chúng ta oanh tạc Bắc Việt đưa tới chống đối trên thế giới rất nản
chí và sau này nó là yếu tố quyết định.
Thiệt hại nhân mạng lính Mỹ tạo lên ý kiến chống đối
chính trong nước, tôi nghĩ trong một cuộc nội chiến, thắng lợi về quân sự sẽ vô
nghĩa trừ khi đưa tới một thực tế chính trị còn tồn tại sau khi ta rút đi.
Thương thuyết chỉ có được nếu Hà Nội nhận thấy họ sẽ mất ảnh hưởng chính trị
nhiều đối với dân miền nam (VN) khi cuộc chiến kéo dài. Bắc Việt và Việt Cộng
chiến đấu trên địa diện quen thuộc, họ chỉ cần kéo dài cho tới khi Hoa Kỳ chán
nản cuộc chiến. Thử thách của chúng ta là chiến đấu đồng thời tăng sức mạnh cho
miền Nam sống được khi không có ta, nói khác đi là ta rảnh nợ. Nguyên tắc du
kích chiến là nếu họ không thua tức là thắng, (nguyên tắc) quân chính qui nếu
không thắng là thua. Chúng ta chiến đấu bằng quân sự với một kẻ thù lẩn trốn, địch
tranh thủ chính trị với một khối dân cố định, quân chính qui BV đưa lực lượng
ta vào chỗ mất ý nghĩa chính trị, còn Việt Cộng phá các vùng nông thôn VNCH.
Kissinger viếng Vĩnh Long tháng 10-1965, ông tỉnh trưởng cho biết 80% yên ổn,
khi thăm VN tháng 7-1966, ông tỉnh trưởng Vĩnh Long nói an ninh tiến bộ nhiều,
nay 70%.
Giữa tháng 7 tới tháng 10-1967, chính phủ Johnson nhờ
Kissinger làm trung gian hòa giải, ông mang lời nhắn nhờ hai nhà trí thức Pháp
mà ông quen. Một người trong đó quen thân Hồ Chí Minh từ 1940, đã cho Hồ Chí
Minh ở nhờ khi sang Pháp thương thuyết, hai người (Pháp) tới Hà Nội gặp Hồ Chí
Minh. Vài tháng sau Kissinger gặp họ ở Paris, cố gắng này thất bại nhưng nó là
bước đầu cho cuộc hòa đàm một năm sau.
Cuối năm 1968 Kissinger nhận định:
-Kế hoạch quân sự không thể thắng
-Miền Nam phải đoàn kết.
-Hoa Kỳ bớt gia tăng trách nhiệm điều khiển cuộc chiến
cho VNCH.
-Hà Nội cứng rắn, ta phải thực hiện những giải pháp
đơn phương
Tháng 1-1969, Kissinger không đồng ý cho rút quân
đơn phương về Mỹ.
Chúng
ta Chiến Đấu ra sao
Những lời công khích, kể cả của Dân chủ làm như
chính Nixon là người đã tham chiến can thiệp vào VN. Khi Nixon vào tòa Bạch Ốc,
hơn một nửa triệu quân Mỹ, thực ra con số còn tiếp tục tăng lên tới đỉnh cao là
549,500 người vào tháng 4-1969 do Chính phủ trước hoạch định như vậy (thực sự
tháng 4-1969 là 543,000 người). Chiến phí là 30 tỷ cho tài khóa 1969, thiệt hại
trung bình 200 người (Mỹ) một tuần từ nửa năm sau 1968 (thời Johnson), tổng cộng
có 14,592 người (Mỹ) chết tại mặt trận năm 1968. Số lính Mỹ bị giết từ 1961 tới
20-1- 1969 tổng cộng là 31,000 người, phía VNCH khoảng 90,000 người tử trận. Cuộc
chiến bế tắc, ta thắng trận Mậu Thân (tháng 2-1968) nhưng người dân Mỹ không ủng
hộ cuộc chiến khiến phải ngưng oanh tạc (cuối tháng 10-1968) nhiều áp lực bắt
ta phải rút quân. Quân đội VNCH năm 1968 là 826,000 người tăng nhiều so với năm
trước (1967 là 743,000 người). Họ được trang bị nhiều hơn nhưng trách nhiệm nặng
nề: canh gác một biên giới dài hơn 600 dặm (1,000 km) và bảo đảm an ninh cho đất
nước. Việt Cộng bị thiệt hại nhưng nay hầu như quân chính qui Bắc Việt đảm nhiệm
vai chính, không còn chiến tranh nhân dân. Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm Tổng
thống năm 1967, tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn ước lượng 65% dân toàn quốc, 81% miền
quê chịu ảnh hưởng của CS. Tình trạng miền quê không tiến gì hơn năm 1966 khi
Kissinger qua thăm VN, CSBV đánh Mỹ để gây tổn thất, VC thì quấy phá VNCH. Giữa
năm 1968, Tướng Creighton Abrams thay Tướng Westmoreland, ông thay đổi chiến lược,
thay vì tấn công CSBV, ông lo bảo vệ người dân, quân Mỹ lo bảo vệ các thành phố
lớn.
Ngày 1-11-1968, Mỹ ngưng oanh tạc miền Bắc và Hà Nội
ngầm không tấn công các thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng. Từ nhiều năm qua,
các giới chức quân sự than phiền các nhà lãnh đạo dân sự kìm hãm họ, nhưng khi
Nixon hỏi họ về chiến lược mới thì họ nói tái oanh tạc Bắc Việt (mà đã bỏ từ
31-10-1968). Chỉ thị mới của Nixon là ông không muốn mâu thuẫn với Chính phủ
Sài Gòn và không muốn để Hà Nội phá vỡ cơ cấu chính trị của VNCH. Văn thư
nghiên cứu của Hội đồng an ninh quốc gia (HĐANQG) đòi hỏi các Bộ, phủ trả lời
những câu hỏi. Những người tương đối lạc quan như Bunker, Abram, McCain cho là
CSBV yếu thế nên phải đàm phán, ta thuận lợi nhưng Ngũ giác đài, CIA bi quan
cho là phải thảo luận rút quân về nước.
Bắc
Việt tấn công và cuộc oanh tạc bên Miên
CSBV gia tăng xâm nhập khi Nixon lên làm TT, ngày
24-11-1968, Bộ trưởng quốc phòng nói có thể sẽ oanh tạc trở lại, khi nhiệm kỳ mới
bắt đầu , chính phủ hy vọng đất nước đoàn kết để đạt đàm phán trong danh dự. Điều
không may là khó mà oanh tạc Bắc Việt trở lại. Kissinger, Laird (Bộ trưởng quốc
phòng), Tướng Wheeler (TMT liên quân) họp bàn tại Ngũ giác đài để bảo vệ miền
nam VN, Wheeler nói quân Mỹ nay đã được đưa tới VN rất nhiều, ta cần đánh khu
Phi quân sự hay oanh tạc Bắc Việt trở lại. Cuộc họp đưa tới việc oanh tạc căn cứ
CSBV tại Miên, đó không phải là khiêu chiến mà là cách tránh oanh tạc Bắc Việt
và để ngăn chặn những cuộc tấn công địch gây thiệt hại cho Mỹ 400 người chết một
tuần.
Những người xét lại cho rằng Chính phủ Nixon tấn
công một nước trung lập. Trong bốn năm qua, bốn sư đoàn Bắc Việt đã hoạt động dọc
theo biên giới Miên-Việt, chúng tấn công VNCH rồi rút về bên kia biên giới, có
thể oanh tạc vùng này được vì không có dân, chỉ có CSBV tấn công giết VNCH và Mỹ
rồi tháo chạy về biên giới. Trước hết Tướng Wheeler đề nghị tái oanh tạc căn cứ
Bắc Việt tại biên giới Miên, ngày 9-2 Tướng Abram ở Sài Gòn điện tín về cho
Wheeler nói Bộ chỉ huy CS toàn miền nam ở bên kia biên giới. Abrams xin oanh tạc
bằng B-52, Đại sứ Bunker ủng hộ ý kiến này trong một điện tín của ông gửi Bộ
ngoại giao.
TT Nixon gửi ghi chú cho Kissinger nói chúng ta cần
phá hủy hậu cần CSBV tại biên giới Miên. Tướng Wheeler cho biết các kiện hàng
hóa quân sự được đưa vào cảng Sihanoukville. Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn cho biết từ
tháng 10-1967 tới tháng 9-1968 có hàng chục nghìn tấn hàng quân sự đã qua cảng
Sihanoukville, còn CIA và Bộ ngoại giao cho là vũ khí qua đường mòn Hồ Chí Minh
rất nhiều cho CSBV tại miền nam VN. Những người chủ trương đánh sang Miên nhấn
mạnh hải cảng Sihanoukville, những người chống thì đánh giá thấp. Sau khi đánh
sang Miên xong năm 1970, hàng vũ khí do tầu thủy chở tới đây nhiều rất xa so với
dự đoán.
Ngày 18-2, nhận được báo cáo từ Sài Gòn, Kissinger
trình lên Tổng thống rằng Tướng Abrams xác nhận không có dân trong vùng ta định
oanh tạc. Khi Nixon hoãn lại cuộc tấn công vào vùng căn cứ địa của địch định
thương thuyết, Bắc Việt bèn tấn công lớn khiến tuần đầu Mỹ thiệt mạng 453 người,
tuần thứ hai 336 người , tuần thứ ba 351 người, phía VNCH mỗi tuần trung bình
500 người chết một tuần. Trận đánh diễn ra một ngày trước khi Nixon đi ngoại quốc
làm nhục ông tân Tổng thống, chủ đích của Bắc Việt là giết người Mỹ để gây ảnh
hưởng phản chiến. Nixon nghe báo cáo trận đánh rồi nuôi ý định đánh trả địch, từ
nhiều năm trước ông luôn chỉ trích TT Johnson tiền nhiệm trả đũa yếu quá, nhưng
nếu (Nixon) trả đũa sẽ bị chống đối tại Ân châu. Phản ứng duy nhất của Tòa Bạch
Ốc là Kissinger gọi cho Đại Sứ Nga nói nếu Bắc Việt tiếp tục tấn công Mỹ sẽ trả
đũa. Trong khi trên đường đi từ Mỹ tới Bỉ ngày 23-2 bỗng nhiên Nixon ra lệnh
oanh tạc căn cứ địa CS tại Miên, Kissinger biết là Nixon quyết định một mình
trên không trung nên ông đánh điện khuyên TT hoãn lại 48 giờ.
Phụ tá Haig, Haldeman và Kissinger bay tới Bỉ rồi
cùng họp nhau trên Air Force One bàn luận về cuộc oanh tạc, sẽ oanh tạc trong
phạm vi cách biên giới năm dặm và không tuyên bố trước, nếu chính phủ Miên phản
đối thì Mỹ sẽ bồi thường thiệt hại. Haig và các chuyên viên Ngũ Giác Đài trở về
Mỹ thuyết trình cho Bộ trưởng Laird nghe, ông này đánh điện từ Hoa Thịnh Đốn
cho biết không thể giữ kín cuộc oanh tạc, báo chí sẽ đề cập, người dân sẽ chống
đối.. và ông đề nghị ta tạm hoãn tới khi địch tấn công rõ ràng. Kissinger cho rằng
việc ngưng ném bom tháng 10-1968 (thời Johnson) coi như thất bại, ông ta đồng ý
với Laird về oanh tạc trả đũa tại Miên, nếu không có phản ứng với cuộc tấn công
xỏ lá của CSBV thì coi như không thể thương thuyết tốt đẹp.
Hà Nội thấy Nixon bị dư luận chống đối không dám làm
gì nên họ sẽ cưa Nixon như đã từng cưa Johnson. Kissinger nghĩ khó mà mở cuộc tấn
công khi Tổng thống đi Âu châu vì sẽ bị chống đối và đã khuyên Nixon, hôm sau tại
Bonn Tổng thống bỏ kế hoạch này. Báo New York times ngày 9-3 trách tân Chính phủ
đang nghiên cứu kế hoạch tấn công gây hấn CSBV. Ngày 4-3 TT họp báo nói nếu
chúng ta kiên nhẫn chịu đựng tức là yếu thế. Ta sẽ không tha cho những tiếp tục
vi phạm những cái đã ngầm thỏa thuận, không tha cho những cuộc tấn công gây tổn
thất cho Mỹ trong khi chúng ta đang tìm hòa bình tại Paris.
Ngày 4-3 Kissinger trình Tổng thống văn thư của
Laird, ông chống đề nghị oanh tạc miền Bắc của Bộ TM liên quân mà ủng hộ oanh tạc
biên giới Miên. Nixon nghe theo và ra lệnh oanh tạc Miên ngày 9-3. Ngày 7-3
Rogers (Bộ trưởng ngoại giao) phản đối vì vấn đề hòa đàm nên Nixon lại thôi,
ông không muốn tấn công Bắc Việt nhưng phải tấn công một chỗ nào đó. Ngày 14-3
ông trả lời trong cuộc phỏng vấn nay tổn thất nhân mạng Mỹ giảm từ 400 người một
tuần xuống còn 300 nhưng vẫn còn cao, ta không cần cảnh cáo địch, nếu tổn thất
nhiều hơn ta sẽ trả đũa. Hôm sau chúng pháo kích Sài Gòn 5 quả, tổng cộng có 32
cuộc tấn công VNCH trong hai tuần đầu tháng 3. Trưa hôm địch pháo kích Sài Gòn,
Kissinger nhận được điện thoại của TT, ông ra lệnh oanh tạc căn cứ địch tại
biên giới Miên.
Lệnh chưa được thi hành, Kissinger đề nghị Nixon nên
hỏi ý kiến các cố vấn để tránh chống đối, trong phiên họp ở phòng Bầu dục Tòa Bạch
ốc, Kissinger cho biết có thể địch sẽ làm mạnh hơn, dân Mỹ sẽ chống đối. Tại
phiên họp ngày 16-3 tại phòng Bầu dục gồm Rogers, Laird, Wheeler, lần đầu tiên
Nixon gặp một quyết định cụ thẻ mang tính quốc tế (có liên quan Miên). Laird,
Wheeler ủng hộ mạnh, Rogers (Bộ trưởng ngoại giao) chống đối vì sợ dư luận
trong nước. Nixon có quyền đánh CSBV vì chúng vi phạm nền trung lập của Miên,
Rogers sợ Quốc hội chống đối, Laird và Wheeler đề nghị TT giữ quyết định, sau
cùng Rogers đồng ý cho oanh tạc Bộ chỉ huy CSBV (tại biên giới Miên)
Sau phiên họp, TMT Liên quân Wheeler đề nghị oanh tạc
quân Bắc Việt vi phạm Khu phi quân sự nhưng lời đề nghị không được chấp thuận.
Ngày 18-3, B-52 ném bom căn cứ CSBV 353 cách biên giới 5 dặm. Tháng 4-1969
Nixon lại cho oanh tạc vì Hà Nội và Nam Vang không phản đối và vì kết quả tốt
ngoài sự mong đợi, đánh trúng các kho dầu, đạn dược gây 73 tiếng nổ phụ tại
đây. Nixon hoãn lại cuộc oanh tạc vì Rogers và Laird phản đối mạnh, ông đã chứng
tỏ cho Hà Nội biết mình không bị tê liệt.
Tháng 5-1969 Nixon cho oanh tạc dẫy căn cứ dọc biên
giới, sau đó cuộc tấn công được tiến hành đều đặn. Sau này năm 1974 Ủy ban tư
pháp Hạ viện đã kết án TT Nixon về cuộc oanh tạc này vì đã dấu nhẹm Quốc hội.
Kissinger nói những lời kết án này là sai vì chúng nằm sát biên giới, cả CSBV
và chính phủ Miên không hề tố cáo có thường dân bị giết. Cuộc oanh tạc kéo dài
tới tháng 5-1970 khi Mỹ oanh tạc để yểm trợ quân đội Mỹ và VNCH mở cuộc hành
quân sang Miên tấn công các căn cứ CSBV. Những báo cáo về cuộc oanh tạc đều đã
được trình Tổng thống. Tháng 12-1969 và tháng 2-1970 Nixon hỏi về những thất bại
của nó, Laird báo cáo cho biết Tướng Abrams, Đại sứ Bunker ở Sài Gòn quả quyết
cuộc oanh tạc biên giới Miên rất hiệu quả. Abrams đánh giá nó rất tốt đã tiêu hủy
hậu cần, kho hàng, ngăn chận các cuộc tấn công đe dọa Sài Gòn, Laird cho tiếptục
oanh tạc.
Hà Nội không phản đối cuộc oanh tạc, tại cuộc Hòa
đàm Paris, ngày 22-3 họ đồng ý mật đàm (đi đêm) theo lời yêu cầu của Mỹ.
Sihanouk không phản đối và cho là cuộc tấn công không liên hệ tới ông vì tại những
đia điểm oanh tạc này không có dân Miên mà chỉ có quân Bắc Việt. Sihanouk là
ông vua thừa kế, được người dân ủng hộ, ông đã giành độc lập, là người cần thiết
của đất nước, ông trung lập hóa Miên năm 1965 và đoạn giao với Mỹ. Hà Nội khuyến
khích giúp đỡ Khmer đỏ, Sihanouk đã tuyên án tử hình khiếm diện lãnh đạo CS
Miên. Kissinger ủng hộ mạnh ý kiến của Rogers khuyên Tổng thống tháng 2-1969 cố
thân thiện với Sihanouk và rồi Mỹ mở lại tòa Đại Sứ. Từ ngày 10-1-1968 thời
chính phủ Johnson, Sihanouk đã nói với Bowles đặc phái viên Tổng thống
“Chúng tôi không muốn bọn VN ở Miên, nếu các ông
đánh Việt Cộng trong vùng Miên chúng tôi sẽ không chống đối, các ông giải phóng
chúng tôi khỏi bọn VC, mong các ông đuổi chúng khỏi nước tôi”
Ngày 13-5-1969, khoảng hai tháng sau cuộc oanh tạc,
Sihanouk họp báo tuyên bố không phản đối vì tại đây không có thường dân, không
xác định được có ai thiệt mạng, không mất một con bò, đó chỉ là chuyện giữa Mỹ
và VC. Ngày 22-8-1969, Sihanouk cũng nói như vậy với Thượng nghị sĩ Mansfield,
người Khmer không phản đối Mỹ khi họ chỉ đánh VC và ông yêu cầu họ đừng gây thiệt
hại cho người dân Miên. Ngày 31-7, chỉ sau bốn tháng rưỡi oanh tạc căn cứ địa Bắc
Việt tại biên giới Miên, Sihanouk nồng nhiệt mời TT Nixon sang thăm Khmer, liên
hệ tốt đẹp cho tới khi ông bị lật đổ.
Oanh tạc Miên chỉ là hành động tự vệ tối thiểu vì
CSBV đã chiếm đóng Miên bốn năm, chúng lập căn cứ, đánh giết Mỹ chết 400 người
một tuần. Cuộc oanh tạc được giữ kín vì có thể khiến Bắc Việt trả đũa và chính
phủ Miên yêu cầu ngưng oanh tạc. Bắc Việt không dám lên tiếng vì nó sẽ để lộ việc
họ chiếm đóng trái phép tại Miên, cuộc oanh tạc đã cứu nhiều lính Mỹ và VNCH. Tờ
New York times ngày 26-3 và 27-4 và Washington Post ngày 27-4 tiết lộ cuộc oanh
tạc của B-52 tại Miên, cuộc oanh tạc này đã đưa chiến tranh vào xứ Chùa tháp.
Năm sau Sihanouk bị lật đổ, CSBV công khai chiếm các thành phố lớn, cô lập Nam
Vang và lật đổ chính phủ sau. Cuộc oanh tạc nảy đã được Tòa Đại Sứ Mỹ kiểm soát
kỹ lưỡng nhằm tránh thiệt hại tối đa cho người dân Miên, cuộc oanh tạc cũng
không bị Miên, CSBV, Nga, Trung Cộng phản đối.
Ngoại
giao tìm hòa bình
Dư luận phản chiến buộc chính phủ đàm phán, cổ võ
nhượng bộ. Thượng nghị sĩ Robert Kennedy trong cuộc tranh cử năm 1968 đề nghị.
-Ngưng ném bom Bắc Việt
-Quốc tế giám sat.
-Giảm kế hoạch tìm và diệt địch.
-Thương thuyết với Mặt trân GP (VC)
-Bảo đảm tổng tuyển cử tại miền nam VN.
Sau khi Robert Kennedy bị ám sát, ba người lãnh đạo
phản chiến Dân Chủ là McGovern, McCarthy và Edward Kennedy cùng chủ trương.
-Ngưng ném bom không điều kiện
-Đàm phán rút quân Mỹ và CSBV
-Khuyên VNCH và MTGP hòa giải
-Giảm các cuộc tấn công của Mỹ tại miền nam VN.
Những đề nghị này bị phản đối trong cuộc họp của Dân
Chủ vì nhu nhược quá.
Harriman, đại diện Mỹ tại hòa đàm Paris 1968-69 dưới
thời Johnson cho rằng giải pháp quân sự không thuận lợi vì nó sẽ khiến Trung Cộng
can thiệp nên cần phải thương thuyết, ông đề nghị Mỹ và Bắc Việt phải rút khỏi
miền nam VN. Khác với mong đợi của TT Johnson, ngày 3-11-1968, tức hai ngày sau
khi Johnson ngưng oanh tạc, CSBV lại đòi thêm nhiều hơn như lật đổ chính phủ
Sài Gòn. Tân TT Nixon phải đương đầu với đường lối ngoại giao điên khùng của
CSBV. Căn bản vấn đề, CS coi cuộc chiến là sinh tử, họ không cho Hòa đàm Paris
là một công cụ hòa bình nhưng là dụng cụ của cuộc chiến tranh chính trị. Chúng
là vũ khí để gây ảnh hương làm tiêu hao người Mỹ về tâm lý, chia rẽ tách rời Mỹ
và VNCH, chia rẽ ý kiến người dân cho họ biết rằng Hành pháp Mỹ điên, không tưởng.
Họ không muốn có tiến bộ hòa đàm, muốn đi đêm vì không muốn cho người ta thấy
có tiến bộ Hội nghị. Mỗi khi họ giải quyết một vấn đề thì họ cố làm ảnh hưởng
dư luận Mỹ, cuộc chiến Mỹ bị người dân, truyền thông chỉ trích vì họ thấy Bắc
Việt có vẻ biết điều nhất là đối với những người chống hay chửi chính phủ. CSBV
xâm lăng VNCH, Miên, Lào, không tuyên chiến, vi phạm hiệp định Genève trung lập
Lào 1962.
Khi Hà Nội sẵn sàng ký kết (tháng 10-1972) mà trước
đây họ chỉ gây rối khéo léo. Trước búa phản chiến và đe Hà Nội, Tổng thống rất
nghi ngờ, ông không tin là đàm phán có thể tốt nếu tình hình quân sự không thay
đồi nhiều. Nixon cho rằng địch chịu tìm hòa bình vì không còn đường nào khác,
nói chung ông chọn chính sách dùng áp lực mạnh tối đa, ông chỉ muốn đàm phán
khi đã thắng về quân sự. Rogers thì muốn tránh chống đối trong nước,
Laird vừa nghi ngờ đàm phán vừa nghi ngờ cả chiến thắng
quân sự. Ông này muốn ta phải rút khỏi VN trước khi bị chống đối, nhưng ông lại
muốn làm như vậy mà không đưa tới sụp đổ miền nam VN và cổ võ Việt Nam hóa chiến
tranh. Laird quả quyết rút quân là tốt nhất, đó là mối quan tâm hàng đầu của
ông. Kissinger lại hy vọng ở đàm phán sẽ có kết quả tốt trong vòng một năm và
ông không hy vọng vào rút quân.
Tổng thống tiền nhiệm Johnson đã để mất cơ hội chiến
thắng, nếu ta tiếp tục cuộc chiến VC sẽ không thích mà chúng thích thương thuyết.
Thảo luận về rút song phương (cả Mỹ và CSBV) trở
nên vô ích, Bắc Việt không muốn rút mà ta muốn rút đơn phương. Thảo luận hai
bên cùng rút ta sẽ để lại bao nhiêu? Các ý kiến cho 100,000 phụ lực quân nhưng
vấn đề bị đảo lộn vì biến cố vì người dân (tức Mậu Thân). Bộ ngoại giao và phái
bộ tại Ba Lê thảo luận Mỹ ngưng oanh tạc, tấn công, pháo kích. Bộ Tư lệnh (US)
tại Sài Gòn, Bộ TM liên quân (tại Mỹ) phản đối vì nếu nhượng bộ chúng sẽ lập
căn cứ mạnh. Một vấn đề đáng nói là Hà Nội không bao giờ chịu xuống thang, họ
không muốn ngưng bắn mà chỉ muốn chiến thắng bằng quân sự.
Đương đầu với CS ngoan cố Nixon muốn đàm phán với áp
lực nhưng không bằng triển khai chiến lược quân sự. Tháng một, tháng hai phái
đoàn Paris đòi hỏi Mỹ phải họp mật, cuộc họp ngày 22-3 Hà Nội đòi Mỹ phải rút
không điều kiện và lật đổ Thiệu, Kỳ. Các Bộ đều muốn đàm phán, Rogers thảo luận
với Đại sứ Nga Dobrynin ngày 8-3, ông nói muốn đề cập cả chính trị và quân sự
cùng lúc. TT Nixon không muốn đàm phán bí mật khi Sài Gòn bị pháo kích.
Rogers muốn đi đêm ngay với Hà Nội, ông đề nghị mật
đàm cả VNCH, Mặt trận GP, ông không đòi CS ngưng tấn công các nơi đông dân cư
(như Sài Gòn). Kissinger thất vọng ở lập trường Rogers, còn Nixon thì không mưốn
ra lệnh cho người cấp dưới trừ khi những người này bất đồng ý kiến với ông. Nội
các Nixon không đồng ý với nhau, trong nhóm làm việc của ông không đoàn kết đã
là nguyên do chính của Watergate. Nixon cử Kissinger gặp Đại sứ Nga Dobrynin
ngày 11-3 cho biết chỉ có mật đàm Mỹ- Bắc Việt trước khi mở rộng ra cho cả VNCH
và VC.
Laird chủ trương rút đơn phương, Ngũ giác đài thông
báo giảm 10% phi vụ B-52 bắt đầu từ 30-6 vì lý do ngân sách. Kissinger nói ông
muốn để dành chút tài sản (ý nói sức mạnh quân sự) để thương thuyết với Bắc Việt,
Kissinger chủ trương rút song phương trái với Laird. Một ký giả nói Hà Nội coi
đây là bước đầu của rút quân còn Sài Gòn cho rằng đây là dấu hiệu giảm sự can
thiệp vào miền Nam. TT Nixon tuyên bố giảm phi vụ B-52, Kissinger nhận xét Hà Nội
không bao giờ trả tiền cho cái quà mà họ bỏ túi (tức không bao giờ đáp ứng thiện
chí Mỹ). Với Hà Nội Mỹ đã mất vị thế khi nhượng bộ rút đơn phương, trong nước
Nixon giảm chống đối nhưng cũng làm nản lòng những người ủng hộ cho kế hoạch để
chiến thắng. Kissinger nói những người này không hiểu rằng tiềp tục chiến đấu
cho sự rút lui trong danh dự là một điều hão huyền. Kissinger cho rằng hành
pháp không được sự ủng hộ của những người họ coi chiến tranh là một bài học đạo
đức cho nước Mỹ không hoàn hảo lắm.
Sứ
mệnh của Vance
Kissinger nói ta bị bất lợi về thời thế, khi được cử
làm Phụ tá an ninh QG ông đề cử Cyrus Vance làm Thứ trưởng ngoại giao, Rogers
(Bộ trương ngoại giao) trong khi Vance không có ý kiến cũng không từ chối.
McNamara người xếp cũ của ông thúc dục làm. Thế rồi ông từ chức Phụ tá trưởng
phái đoàn Paris ngày 19-2-1969, TT Nixon gửi điện tín cám ơn. Trong cuộc nói
chuyện với Đại Sứ Nga Dobrynin, Kissinger nhấn mạnh về quan hệ Nga-Mỹ hợp tác
giải quyết cuộc chiến thì ông ta tránh trả lới và nói Nga ảnh hưởng tới Hà Nội
ít lắm. Phía Mỹ đáp lại Nga bằng cách trì hoãn những thảo luận mà Nga quan tâm
như: Vấn đề tài giảm binh bị, Trung Đông, giao thương nhưng không đề nghị gì vế
Sô viết đối với VN.
Kisinger gặp Vance ngày 18-3 để giải thích về việc cử
ông ta đi Moscow: đàm phán tài giảm binh bị và bí mật gặp đại diện Bắc Việt,
Vance hỏi nhiều chi tiết về sứ mệnh này ngày 3-4. Kissinger chính thức đề nghị
sứ mệnh của Vance lên TT Nixon sau khi chỉ ra những khó khăn tại hòa đàm Paris.
Hành pháp Mỹ cam đoan với người dân sẽ giải quyết cuộc chiến, Mỹ cần phải tiếp
tục áp lực quân sự (oanh tạc) để Hà Nội không đàm phán như tại Bàn Môn Điếm
(Cao Ly 1953), Hà Nội ngoan cố, cần có Nga tham dự. Kissinger gặp Đại sứ Nga và
cảnh cáo liên hệ Nga-Mỹ đang ở ngã tư trong khi ấy Nixon muốn quan hệ này tiến
bộ về mọi mặt, chiến tranh VN là một trở ngại lớn. Để giải quyết vấn đề này TT
đã gửi một phái đoàn cao cấp tới Moscow do Vance đẫn đầu. Nixon đồng ý ngay về
vấn đề tài giảm binh bị, Vance được trao quyền thảo luận với đại diện Bắc Việt,
Mỹ có thể đề nghị ngưng bắn, rút đơn phương, hứa hẹn cho MTGP (VC) được tham
gia chính trị. TT Nixon cho 6 tuần để thương thuyết.
Kissinger nói với Nixon cần làm mạnh nêu không có kết
quả, Hà Nội chỉ muốn chiến thắng, không muốn ngưng bắn và chiếm đóng miền nam
VN, họ cũng không muốn bầu cử. Ngày 12-4-1969, Kissinger nói với Tổng thống về
cuộc họp với Đại sứ Nga ngày 14-4, ông chấp thuận. Kissinger gặp Đại sứ Nga
Dobrynin, ông này hỏi có phải Mỹ đặt điều kiện giải quyết vấn đề VN sau đó mới
bàn về Trung đông, liên quan kinh tế hai nước và tài giảm binh bị? Kissinger trả
lời nếu vấn đề VN xong thì dễ nói chuyện các vấn đề khác nếu không sẽ tạo ra
tình trạng phức tạp. Đại Sứ Nga nói Moscow muốn thảo luận với Mỹ bất luận vấn đề
VN ra sao, ông cũng nói Trung Cộng muốn chia rẽ Nga-Mỹ. Ông ta nói thêm chiến
tranh VN leo thang chỉ lợi choTrung Cộng. Kissinger nói nếu vậy Nga phải hợp
tác với Mỹ để tránh những vấn đề phức tạp.
Phía Nga lặng thinh không trả lời gì, tháng 6 (69) Đại
sứ Nga nói đề nghị của Mỹ đã được chuyển cho Hà Nội nhưng không thấy kế quả.
Ngày 22-12, Đại sứ Nga nói Moscow cố gắng quan tâm, Hà Nội từ chối đàm phán trừ
khi lập chính phủ Liên hiệp.
Nếu cho là Hà Nội giỏi đu giây giữa Nga-Tầu, lấy
Moscow là nới quyết định đàm phán sẽ nguy hiểm.
Trở
lại máy cối xay
Ngày 8-5, phía CSBV đưa ra chương trình mười điểm gồm
những điểm chính như: Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, Mỹ phải rút hết quân vô điều
kiện, loại bỏ VNCH, Mỹ phải bồi thường chiến tranh, Miền nam VN phải Liên hiệp…
Liên hiệp thực ra chỉ là để CS vào chính phủ Sài
Gòn, chương trình Mười điểm đòi hỏi Mỹ phải lật đổ VNCH, rút hết, Chính phủ
liên hiệp chỉ là lâm thời cho tới khi VNCH và VC thương thuyết. Khi CS chiếm miền
nam (1975), chúng không hề lập chính phủ liên hiệp mà Bắc Việt nắm hết. Đề nghị
của CS chỉ là một chiều và láo xược.
Ngày 25-4 Kissinger nhắc nhở TT Nixon về lời Xuân Thủy:
“tại sao ông Nixon không đưa ra một kế hoạch tìm hòa bình. Ngày 14-5 Nixon lên
TV nói ông duyệt lại bốn tháng từ khi nhậm chức Tổng thống như: Đã làm suy yếu
cuộc tấn công của địch, cải thiện bang giao với VNCH, và phát huy lập trường
đàm phán phía Mỹ. Nixon đề nghị Chương trình Tám điểm thể hiện tiến bộ lớn
trong cuộc đàm phán so với thời Johnson, ủng hộ việc rút song phương. Mỹ đồng ý
MTGP (tức VC) tham gia chính trị tại miền nam VN bằng bầu cử có quốc tế giám
sát. Nixon đặt lịch trình rút, ngưng bắn có quốc tế giám sát.
(còn tiếp)
*
*
Henry Kissinger
Trọng
Đạt lược dịch
Posted by adminbasam on
13/04/2015
Tiếp theo Bài 1
Khởi
đầu của rút quân
Sau diễn văn ngày 14-5 (Nixon) nói sơ lược đàm phán,
chúng ta quay ra chương trình rút quân. TT Johnson củng cố quân đội Mỹ tại miền
nam VN nhưng không có kế hoạch rút. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng (thời Johnson)
ngày 29-9-1968 cho biết Mỹ chỉ tăng chứ không giảm quân. Kissinger cho rằng
Hành pháp Nixon ngây thơ tin tưởng rút quân sẽ được người dân củng hộ ta vững mạnh,
và số quân còn lại cộng với vị thế vững chắc của ta sẽ làm Hà Nội phải nghiêm
chỉnh đàm phán. Đồng thời nếu ta củng cố quân đội VNCH vững mạnh, sự rút quân của
ta chấm dứt sự can thiệp mà chẳng cần ký Hiệp định với Hà Nội.
Nixon thuận rút quân vì hai lý do trên, trong cuộc họp
báo ngày 14-3 ông nêu lên ba tiêu chuẩn: Quân đội VNCH chiến đấu một mình được;
tiến bộ của hòa đàm; tùy mức độ hoạt động của địch. Chiến lược Nixon trong những
tháng đầu là làm suy yếu địch tối đa, gấp rút trang bị tối tân cho quân đội miền
nam VN rồi bắt đầu rút, ông nghĩ đó là cách để lấy lòng dân trong nước.
Tướng Wheeler ngày 25-1-1969, trong phiên họp Hội đồng
an ninh QG (HĐANQG) nói ông Thiệu có lẽ đồng ý cho Mỹ rút quân từ từ để xoa dịu
người dân, Rogers nói ta có thể rút 50,000 quân để dần dần làm dịu chống đối của
người dân. Ngày 6-2, Thiệu nói chính phủ Mỹ có thể rút một số quân trong năm
1969. Tướng Goodpaster, phụ tá của Tướng Abrams tham dự HĐANQG ngày 28-3 và báo
cáo chương trình VN hóa chiến tranh đã tiến mạnh, Mỹ rút được,
(de-Americanizing) từ bỏ Mỹ hóa. Danh từ Việt Nam hóa được thành hình và Nixon
thích từ này.
Ngày 10-4 Kissinger ra văn thư yêu cầu các bộ, nha
ra thời khóa biểu VN hóa chiến tranh. Nixon cho là thời gian đã chín mùi sau buổi
nói chuyện ngày 14-5, trong buổi nói chuyện này ông muốn thông báo quyết định của
mình không cần Rogers và làm trước Laird.
Mỹ chuẩn bị họp với Thiệu ngày 8-6, địa điểm tại
Midway, sở dĩ không họp tại Mỹ vì sợ phản chiến biểu tình, họ không chọn họp tại
Hawaii vì Johnson đã họp với các lãnh đạo miền nam VN tại dây. Trên đường đi
Midway, Nixon triệu tập một phiên họp (nội bộ Mỹ) tại Honolulu ngày 7 -6 với
Rogers, Laird, Tướng Wheeler, Đại sứ Lodge, Kissinger, Đại sứ Bunker, Tướng
Abrams, Đô đốc McCain. Buổi họp quyết định cho rút quân. Một điều rõ ràng là giới
quân sự xúc động vì biết rằng họ đã uổng công chiến đấu tuy nhiên không thể chiến
thắng và kết cục trong danh dự cũng không dễ, diễn tiến rút ra coi như không thể
tránh được. Từ nay sẽ là cuộc chạy đua giữa khả năng chiến đấu giảm dần của Mỹ
và sự tăng cường lực lượng miền nam VN mà kết quả chưa rõ.
Trái với huyền thoại, quân đội ít khi chống lạị Tổng
Tư lệnh (Nixon) dù là tiếp xúc riêng. Tướng Abrams không thích thú lắm nhưng
cũng phải đồng ý rút 25,000 quân, trách nhiệm của ông sẽ lo hậu cần, ông không
thể chiến thắng khi lực lượng của ta giảm dần. Chúng ta giao (bán cái) vấn đề
cho ông Thiệu, theo Kissinger chính phủ Thiệu phải lo bảo vệ nền dân chủ tự do
khi 300,000 quân CSBV lấn chiếm.Thiệu phải vừa thắng cuộc chiến vừa tái tổ chức
hệ thống phòng thủ trong khi đại quân Mỹ rút về nước, và xây dựng hiến pháp dân
chủ trong một nước chiến tranh liên tục. Ông là nhà lãnh đạo quốc gia được siêu
cường khuyến khích lật đổ vị Tổng thống cũ (ông Diệm). Thiệu không được viếng
thăm Mỹ, nay bước xuống máy bay tại Midway, Kissinger nói thật đáng buồn cho
ông, ông ta có lỗi gì trước áp lực dư luận Mỹ, ông chỉ là người đại diện cho miền
nam VN không muốn bị CSBV xâm chiếm. Người VN không chịu chấp nhận số phận, họ
chiến đấu chống quân xâm lăng từ nước ngoài qua nhiều thế kỷ và chiến đấu chống
lẫn nhau (Quốc –Cộng) để quyết định vận mạng của họ mà không chịu khuất phục.
Có hai phiên họp, phiên quyêt định họp tại căn nhà
tân trang của vị Chỉ huy gồm Nixon, Kissinger, Thiệu. Tổng thống miền nam VN
không xin xỏ ân huệ, ông lên tiếng trước và đề nghị vấn đề rút quân này. Phía Mỹ
đề nghị bắt đầu mật đàm với Hà Nội (tại Paris), Thiệu đồng ý nói miễn là cho
ông ta biết diễn tiến cuộc nói chuyện. Sau một giờ rưỡi thảo luận, Nixon tuyên
bố về cuộc rút quân đợt đầu.
Nixon coi thông báo rút quân là một thắng lợi chính
trị, các cố vấn của ông cũng tin vậy nhưng chúng tôi lầm, chúng ta đã vượt lằn
ranh định mệnh. Cuộc tháo lui này khiến các gia đình Mỹ có con em còn ở lại
(VN) sẽ mất tinh thần vì con em họ sẽ bị nguy hiểm và chương trình vẫn bị chỉ
trích nhiều. Đa số những người cho rằng vì họ chống đối mà Chính phủ phải khởi
sự rút và họ họ sẽ gây áp lực thêm để Chính phủ rút mạnh hơn, họ còn mong rút mạnh,
càng rút nhiều hơn thì càng mau sụp đổ (miền Nam).
Sáu tháng trước cựu Bộ trưởng quốc phòng Clifford
(thời Johnson) xác nhận Mỹ không rút quân nhưng nay ông ta tuyên bố trên một
bài báo Foreign Affairs thúc dục Hành pháp rút đơn phương 100,000 quân cuối năm
1969 và rút tất cả lính tác chiến cuối 1970 chỉ để lại lính quân cụ và không
quân. Mặc dù mọi cố gắng để diễn tả với Tổng thống (can ngăn), nhưng nó đã bị hủy
hoại, lập trường đòi rút song phương của ta không còn hy vọng gì. Cuộc chiến
can thiệp của ta nay đưa tới rút đơn phương khiến trong nước (US), trên thế giới
nhất là VN đã thấy rõ, nay không thể đảo ngược được. Hy vọng cuối cùng tiêu tan
khi Bộ Quốc phòng bắt đầu lên kế hoạch ngân sách, giảm quân, giảm chi tiêu chế
tạo vũ khí. CSBV rất thích thú thấy lực lượng Mỹ giảm dần (tại VN). Hà Nội cũng
luôn thúc ép Mỹ rút cho nhiều, Kissinger tiếc rẻ nói yêu cầu rút song phương đã
thành trống rỗng khi ta đơn phương rút nhanh, càng rút nhanh, miền nam VN càng
dễ sụp đổ. BV luôn khiếu nại ta chỉ rút nhỏ giọt, sau một năm, BV đòi thời hạn
rút vô điều kiện.
Laird đã soạn năm kế hoạch rút trong năm 1969 từ ít
nhất 50,000 và nhiều nhất là 100,000 quân. Rogers ủng hộ con số 85,000 người,
Laird biết quan điểm của Bộ TM liên quân, ông chính thức ủng hộ số ít nhất
50,000 người. Về thới hạn lâu dài Laird đưa thời biểu từ 18 tới 42 tháng và ấn
định số tối đa còn để lại-số này tới khi BV rút hết- nằm trong khoảng từ
260,000 tới 360,000 người. Trong văn tư Laird đệ trình Tổng thống ngày 2- 6,
ông đưa ra một thời khóa biểu có thể được: 42 tháng (từ lúc mới rút cho tới
1971) và để lại 260,000 người. Ông cảnh báo nếu CSBV không rút, ta rút nhanh sẽ
ảnh hưởng xấu chương trình bình định khi đồng minh giảm lực lượng có thể đưa tới
sụp đổ miền nam VN.
Có hai khuynh hướng trong nội các. Khi sự tin tưởng
vào VN hóa chiến tranh lên Ngũ giác đài, Bộ ngoại giao có thể chia phần chấm dứt
chiến tranh bằng nhiều nỗ lực. Họ gửi rất nhiều thư về việc ông Thiệu (kém may
mắn) tiến hành cải tổ chính trị kinh tế. Ông ta cải cách chế độ đất đai, điền địa,
thực ra là do Mỹ thúc ép hơn là do tự tin của ông. Ngày 11-7, Thiệu đề nghị bầu
cử tự do có CS tham dự và có quốc tế quan sát cùng với VNCH, VC. Ngày 7-7 Tổng
thống họp với Rogers, Laird, Wheeler, Kissinger bàn về chiến sự nay đang giảm
xuống, nó bớt gây thiệt hại nhân mạng cho Mỹ và tại đất nhà tình hình bớt căng.
Mọi người đồng lòng ta phải giảm chiến dịch quân sự có hiệu lực từ 15-8, cung cấp
tối đa cho VNCH củng cố sức mạnh, yểm trợ chương trình bình định, làm giảm tiếp
viện địch.
Ngày 30-7, Nixon trong chuyến du hành trên thế giới
có ghé Sài Gòn, tới phi trường ông đi trực thăng về dinh Độc Lập. Nixon bảo Thiệu
chương trình rút quân để lấy lòng dân, đã làm thời khóa biểu, chúng tôi sẽ rút
khỏi VN bằng đàm phán nếu có thể, nếu cần rút đơn phương.
Họp
mật với Xuân Thủy
Ngày 1-6, Kissinger dự định đàm phán, ông nhờ người
bạn cũ Jean Sainteny, vợ ông này là học trò cũ của Kissinger. Ông ta nói theo
giọng điệu những người Pháp đã phục vụ trong cuộc chiến Đông Dương: “Người Mỹ
các ông làm sao thắng được khi chúng tôi trước đây đã thất bại? Trái với những
người Pháp khác, Jean hiểu sự quan trọng cho Mỹ và các nước đồng minh rút ra
trong danh dự, ông ta được BV tin tưởng. Ngày 24-6 Kissinger đề nghị Nixon mời
Sainteny viếng Mỹ, ông tin tưởng có thể đi một đường hướng khác vì nay đang bị
trì trệ. Tại Paris ngày 15-7 Sainteny gặp TT Nixon, Kissinger thông dịch bằng
tiếng Pháp loạng quạng nên không chính xác hoàn toàn. Sainteny nói ông ta sẽ đi
Hà Nội mang thống điệp của Mỹ, ông đề nghị Kissinger gặp Lê Đức Thọ, một đảng
viên then chốt của Bộ chính trị Hà Nội, thỉnh thoảng Thọ qua Paris và mật đàm với
Harriman. Nixon cho thảo một bức thư gửi Hồ Chí Minh nhờ Sainteny mang đi với nội
dung: “ Chúng tôi sẵn sàng tiến tới hòa bình cho VN, chúng ta quay lại hòa bình
hơn là theo đuổi chiến tranh”
Hà Nội không đồng ý, không cấp giấy Thông hành cho
Sainteny, thư được gửi cho Mai Văn Bộ, đại diện phái đoàn BV tại Paris. Để tìm
cách khắc phục trở ngại, Kissinger nhờ Sainteny thu xếp cho ông ta gặp đại diện
BV.
Cuối tháng 7, Kissinger theo Nixon đi du hành thế giới
bắt đầu bằng đi đón phi thuyền Apollo 11rớt xuống (biển) và thăm các nước Đông
Nam Á, Ấn, Hồi, và Lỗ Ma Ni, Kissinger bỏ đi thăm Bỉ khi Nixon về Mỹ. Ngày 4-8
tại nhà Sainteny, Kissinger gặp Xuân Thủy, ông ta đại diện cho Bộ ngoại giao BV
không có nhiều thẩm quyền, Lê Đức Thọ đã rời Paris. Khi có vấn đề đám phán quan
trọng, Thọ sẽ tới Paris với tư cách “Cố vấn đặc biệt”, ông ta có quyền kết thúc
đàm phán. Chuyến đi của Kissinger lấy danh nghĩa là thuyết trình với Tổng thống
và Thủ tướng Pháp về chuyến du hành thế giới của TT Mỹ. Chiều ngày 4-8,
Kissinger cùng một số phụ tá tới nhà Sainteny, Tướng Walters làm thông dịch,
ông này biết nói 9 thứ tiếng. Cuộc đàm phán với Xuân Thủy kéo dài ba giờ rưỡi,
Kissinger nói tiếng Anh, có người dịch ra tiếng Pháp rồi có người dịch ra tiếng
Việt cho Xuân Thủy, khi XuânThủy nói thì có người dịch ra tiếng Anh. Lần đấu
tiên Kissinger đóng vai chính đàm phán, ông ta vẫn tin tưởng có thể tiến bộ nếu
mình thật lòng. Họp với đại diện siêu cường bậc nhất thế giới, CSBV tỏ ra quỷ
quái, kỷ luật và kiên nhẫn, trừ một lần khi họ bắt đầu mở cuộc tấn công năm
1972, họ láo xược. Họ thường lịch sự, họ không tỏ ra nóng nẩy, lộn xộn, họ
chuyên về chiến tranh chính trị. Họ nhận sự nhượng bộ của Mỹ một cách thản
nhiên mà không nhượng bộ lại. Họ coi Hiệp định biểu lộ yếu kém, không bao giờ
nao núng trước lập trường Mỹ, mục đích của CSBV chỉ là chiếm trọn miền nam VN
hoặc làm cho đối phương mất tinh thần rồi đánh gục sau. Họ chỉ từ bỏ tham vọng
chiến thắng sau khi thảm bại trong trận Tổng tấn công dịp lễ Phục sinh 1972.
Khi bắt đầu đàm phán sau ngày ngưng ném bom BV
1-11-1968 (thời Johnson), Mỹ hứa rút đơn phương 25,000 (không có BV) và sẽ rút
thêm, chấp nhận cho bầu cử có MTGP (VC) thì Hà Nội không trả lời. Người Mỹ chuẩn
bị đàm phán chương trình Mười Điểm của MTGP nhưng phía Mỹ không thể chấp nhận
Mười điều răn được khắc trong đá chứ không phải để đàm phán. Kissinger cố gắng
đàm phán Mười điểm của MT với Tám điểm của Nixon ngày 14-5, đặc biệt Mỹ chuẩn bị
rút hết, ông ta nói chúng tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả. Cả hai bên chỉ đòi dược
ở bàn hội nghị cái mà họ thắng tại mặt trận, Kissinger đề nghị với Nixon mở một
ngả đàm phán đặc biệt (đi đêm). Nếu đàm phán nghiêm trọng cần xử dụng quân sự để
hậu thuẫn, đầu tháng 11 không có tiến bộ Mỹ sẽ phải dùng sức mạnh quân sự.
Khi họp với Xuân Thủy, Kissinger đề nghị Mỹ sẽ rút hết
đơn phương, giảm các chiến dịch quân sự. Xuân Thủy kể lại các cuộc chiến chống
xâm lăng của tổ tiên VN nhiều thế kỷ trước, về sau phía Mỹ cứ phải nghe mãi những
giai thoại này. Sau bốn mươi năm phút họp, Xuân Thủy nói chương trình Mười điểm
của họ không phải là Mười điều răn, Mười giáo điều (Ten Commandments) như
Kissinger nói mà đó là lý lẽ thực tế để giải quyết cuộc chiến.
Theo Xuân Thủy có hai vấn đề quân sự và chính trị, về
quân sự Mỹ phải rút toàn bộ cùng các nước “chư hầu”, Mỹ chưa đưa thời biểu rút.
Vê giải pháp chính trị Mỹ phải loại bỏ chính phủ Thiệu- Kỳ- Hương và lập Chính
phủ liên hiệp gồm Chính phủ Cách mạng lâm thời và Chính phủ Sài Gòn (Nam VN).
Ông ta nói hai vấn đề chính trị quân sự liên kết nhau. Như vậy nói khác đi cho
dù Mỹ rút đơn phương chưa chắc đã kế thúc cuộc chiến và lấy được tù binh. Chúng
tôi (lời Kissinger) thay đổi lập trường từ đòi rút song phương (cả Mỹ, BV)
nhưng Hà Nội không thay đổi, chúng ta sẽ không có hòa bình, lấy tù binh trừ phi
lật đổ chính phủ đồng minh của chúng ta (VNCH).
Chúng tôi không thể làm cho CS cái mà chính họ không
làm được, chúng tôi (US) từ chối lật đổ đồng minh, nó là vấn đề duy nhất tạo bế
tắc cho tới ngày 8-10-1972 khi mà Hà Nội rút lại đòi hỏi này. Xuân Thủy cho biết
họ không muốn trung gian từ nước khác và muốn Chính phủ Mỹ và cử một người nhận
và gửi tin tức. Kissinger cử Tướng Walters làm nhiệm vụ này. Một bản tóm tắt
(buổi mật đàm) được gửi cho tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn để trao lại TT Thiệu, ông
đã đồng ý (tại Midway) cho đi đêm. Ngày 11-8 CS tấn công hàng trăm tỉnh, thị xã
và các căn cứ ở miền nam VN.
Một
sự đánh giá khác
Đáp lại cuộc tấn công của CS, Nixon tuyên bố ngày
23-8 tại San Clemente rằng ông hoãn rút quân cho tới khi ông về lại Tòa Bạch Ốc.
Mặc dù quyết định đúng với 2 trong 3 tiêu chuẩn rút thông báo từ tháng ba được
nhắc lại luôn (hoạt động của địch, tiến triển hòa đàm, tăng cường lực lượng
VNCH) nhưng đã khiến Quốc hội và truyền thông tức giận. Ngày 25-8 Hồ Chí Minh
trả lời thư của Nixon viết từ 15-7 (thực ra nhận được ngày 30-8, ba ngày trước
khi Hồ chết), bức thư lập lại ý chí cứng rắn của BV.
Hà Nội chỉ muốn chiến thắng quân sự, họ chỉ chờ cho
nước Mỹ hết kiên nhẫn không muốn tỏ ra có tiến bộ trong hòa đàm có lợi cho Hành
pháp Mỹ. Rút quân được thực hiện vào một thời điểm đặc biệt, áp lực một phần do
dân, phần do chính Nội các, ngày 23-8 Nixon ngưng rút để phản đối Hà Nội nhưng
đây là lần cuối cùng ông ngưng rút.
Ngày 12-9 Hội đồng an ninh QG họp để bàn rút đợt
sau, ngày 16-9 Tổng thống nói sẽ cho rút 40,500 người vào ngày 15-12 (cuối
năm). Tổng số rút lại tăng lên 65,500, Rogers thấy cần thêm 15,000 người để lấy
lòng dân, Tổng thống lại tuyên bố đợt tiếp theo. Sau khi đòi Mỹ ngưng ném bom
(30-10-1968) Hà nội đã thực hiện thêm một mục tiêu nữa mà chẳng phải nhượng bộ
gì: nay Mỹ rút đơn phương.
Chúng ta (US) tiến tới một đoạn đường dài, ta chấp
nhận rút hết, ta bắt đầu rút đơn phương, nay ta giảm cường độ quân sự, tất cả đều
không được Hà Nội đáp ứng nhượng bộ ta.
Tôi (lời Kissinger) bắt đầu cảm thấy không thoải mái
với chính sách này, tại phiên họp Hội đồng ANQG ngày 12-9 Kissinger nói:
“Chúng ta phải có kế hoạch chấm dứt chiến tranh chứ
không phải chỉ là rút quân. Đó là cái người dân mong đợi”
Hai ngày trước phiên họp HĐANQG, Kissinger trình văn
thư lên Tổng thống nói nỗi quan tâm của ông ta về sự lượng giá VN hóa chiến
tranh (rút), Kissinger nói rút quân ví như đậu phộng rang (ăn rồi ăn mãi). Đối
với người dân, quân rút càng nhiều họ càng mong rút cho nhiều hơn cho tới chỗ
đòi rút trong một năm. Kissinger phản đối chiến lược quân sự của Mỹ (rút quân)
vì nó không đủ thỏa mãn yêu sách của người dân và có thể Hà Nội chờ cho ta rút
thật nhiều để mở cuộc tổng tấn công miền nam VN. Tôi không nghĩ chính sách của
chúng ta (rút quân) sẽ có hiệu quả (văn thư trình TT này in ở sau cuốn hồi ký
White House Years).
Kissinger đề nghị lập trường của Mỹ với BV: không loại
bỏ VNCH, cho các đảng chính trị hoạt động tự do tại miền nam VN, nếu bị phía CS
từ chối ta sẽ ngưng rút quân, phong tỏa Hải phỏng, oanh tạc đường xe lửa Việt
Hoa mục đích để đàm phán hòa bình nhanh. Kissinger tập trung các phụ tá của ông
nghiên cứu một kế hoạch xử dụng biện pháp quân sự mạnh tấn công BV để buộc đối
phương chấp nhận đàm phán nghiêm chỉnh. Ông ta hỏi các phụ tá: giữa rút nhanh để
tỏ cho Hà Nội biết và rút thật chậm để xoa dịu dân, giả sử Tổng thống không tin
tưởng chính sách rút quân này, không muốn đầu hàng địch ông sẽ làm gì để kết
thúc cuộc chiến nhanh? Kissinger nói ông muốn một kế hoạch mạnh (quân sự) với địch,
lượng giá hậu quả ngoại giao và viễn tượng đàm phán kết cục, kế hoạch này mang
tên Duck Hook.
Bộ TM liên quân sáng kiến kế hoạch gài mìn hải cảng
BV, oanh tạc phá hủy các mục tiêu quân sự kinh tế trong 4 ngày, tấn công từ 48
giờ tới 72 giờ nếu Hà Nội không chịu đàm phán nghiêm chỉnh. Ngày thực hiện sẽ
là 1-11-1969 nhân dịp một năm ngưng oanh tạc BV mà họ đã hứa sẽ đàm phán nghiêm
chỉnh.
Khi xong kế hoạch Kissinger nghĩ nó sẽ không thực hiện
được, trong nội các không có sự đồng lòng ủng hộ kế họach táo bạo này. Ngày
17-10 tôi (lời Kissinger) khuyên Tông thống hoãn xét đề nghị này tới khi ông có
thể biết tỷ lệ quân BV xâm nhập vào cuối năm. Sự nghi ngờ của Kissinger với VN
hóa chiến tranh kéo dài thể hiện sự bế tắc giữa vấn đề quân BV và vấn đề chống
đối tại Mỹ. Ngày 30-10 Kissinger gửi văn thư cho Tổng thống nói ông không tin kế
hoạch VN hóa chiến tranh (rút).
Theo Kissinger thực ra chưa có sự chống đối nào đòi
rút ngay năm 1969, đây có thể là sự phản bội làm sụp đổ đồng minh (VNCH), họ
không được tự vệ. Chính sách này có thể làm các nước Á châu không tin tưởng vào
Mỹ như Nhật, không hề có nhà lãnh đạo Âu châu nào đòi ta từ bỏ cuộc chiến này.
Trong khi Trung Cộng tìm cách lại gần Mỹ vì họ sợ bị Nga đe dọa tại biên giới,
thật không hợp lý nếu ta rút ngay 500,000 người. Ngũ giác đài ước lượng từ 12 tới
18 tháng mới rút hết số quân đã đưa sang VN trong 4 năm. Qua thăm dò, rút đơn
phương bị đa số đám đông thầm lặng chống, tình cảm người dân trái ngược với các
nhà kế hoạch của Chính phủ. Họ muốn ta rút khỏi VN nhưng không muốn ta thất bại.
Trên hết Hà Nội đã nhắc đi nhắc lại Mỹ không thể chấm dứt chiến tranh, lấy tù
binh cho dù rút đơn phương, họ cũng bảo ta phải lật đổ đồng minh của chúng ta
(VNCH) và dựng lên chính quyền CS Liên hiệp.
Từ 1970, dư luận chống đối đòi Chính phủ phải thông
báo thời hạn rút cuối cùng nhưng đó chỉ là sự thay đổi của VN hóa chiến tranh
hay tương đương đầu hàng. Nếu thời hạn quá ngắn, độc đoán thì chỉ là một phương
thức đưa tới sụp đổ, nếu thời hạn chót có thể thực hiện được của VN hóa chiến
tranh thì hãy thông báo cho dân biết. Vấn đề là lời thông báo sẽ thuận lợi hay
ngăn trở ta thoát ra khỏi cuộc chiến, một khi thông báo sẽ khiến cho Hà Nội
không muốn đàm phán, họ chờ tới khi ta rút hết. Và làm sao chúng ta giải thích
cho các gia đình Mỹ con em họ (đóng ở VN) sẽ bị nguy khi ta ấn định ngày rút hết?
Nhiều lời chỉ trích kể cả của Clifford (cựu Bổ trưởng QP 1968) đòi hỏi rút quân
tác chiến trước vào cuối 1970 bỏ lại nhiều quân nhân khác, chúng tôi rút cứ 4
tháng một lần.
Một đề nghị khác thúc ép Hành pháp Mỹ không cho VNCH
phủ quyết lập trường đàm phán của Mỹ để đánh một đòn vào chính phủ (đàn áp dân)
VNCH. Thật là vô lý khi cấm đoán một Chính phủ mà ta dóng quân tại nước họ mà họ
có quyền ảnh hưởng tới chính sách của ta. Niềm tự tin, sự hợp pháp, và sự sống
còn của họ là một trong những vấn đề then chốt của của cuộc chiến. Nếu ta làm
nó sụp đổ vì gây áp lực mạnh là ta đã hoàn thành niềm mong muốn của Hà Nội.
Nhưng ảnh hưởng của ta tại Sài Gòn rất lớn để họ mở mang hạ tầng và đồng ý
tranh thủ nhân tâm với CS, thực hiện cải cách điền địa. Chính trị tại Sài Gòn
đa dạng, huyên náo chứ không như người Mỹ chỉ trích, họ nhân bản hơn độc tài CS
nhiều.
Chính phủ miền nam VN có khuynh hướng xứ quân, người
Mỹ chịu trách nhiệm về việc lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm (dân sự) năm 1963
đưa tới các chính phủ sau thuộc về nhà binh. Thể chế chính trị của những quốc
gia giầu có (như US) có truyền thống tự do không thể áp dụng hoàn toàn tại một
nước kém mở mang (như VN) bị chiến tranh tàn phá. Chúng tôi (lời Kissinger) bỏ
kế hoạch leo thang quân sự vì sợ chống đối, Kissinger và nội các đều muốn chấm
dứt chiến tranh. Chúng tôi nhắm vào việc rút nhưng không thông báo thời hạn
chót vì hy vọng Hà Nội có thể đàm phán, trả giá cho ta một chút để thúc đẩy rút
hoàn toàn.
Nhóm
Bồ câu bất trị
Trước ngày lễ nhậm chức TT của Nixon, phóng viện
Chalmers Roberts viết trên tờ Washington Post ngày 12-1-1969, xin sơ lược “Nước
Mỹ và Quốc hội sẽ cho tân Tổng thống Nixon thời hạn 6 tháng để rút khỏi VN trong
danh dự nhưng chắc 6 tháng không đủ. Cuộc bầu cử TT cho thấy đa số người Mỹ muốn
ra khỏi VN nhưng bằng cách không làm nhục 31,000 người lính đã hy sinh”. Ngày
tháng trôi qua trong năm 1969, nhiều người chống đối, biểu tình, truyền thông,
Quốc hội đòi nhượng bộ (BV) rút đơn phương. Họ cho rằng trở ngại không phải tại
Hà Nội mà tại Hành pháp Mỹ thiếu thiện chí hòa bình. Các thế hệ sau khó nhận thức
các sự rối loạn trong nước do chiến tranh VN mang lại.
Ngày 2-7-1969, phụ nữ phản chiến đốt thẻ trưng binh
tại New York, ngày 6-7 các Hội viên phụ nữ đình công vỉ hòa bình lên Đại học
Toronto gặp ba đại diện Việt Cộng. Hai ông thị trưởng làm đơn xin Tổng thống
ngưng đưa các con ông ấy qua VN, hàng tuần có biểu tình tại Ngũ giác đài, ngày
3-9 có 225 nhà tâm lý học biểu tính ngoài Tòa Bạch Ốc chống cuộc chiến VN, họ đọc
danh sách lính Mỹ tử trận tại VN. Mùa hè sinh viên trở lại trường học, họ chống
mạnh hơn. Ngày 5-9 trên tờ Washington Post, Chalmers Roberts tiên đoán “Hồ chí
Minh chết, đại diện Hà Nội tại Paris ám chỉ Mỹ rút mạnh sẽ khiến hòa đàm khởi động,
những biến cố có lợi cho Bồ câu. Các Thượng nghị sĩ Muskie, Cooper, Nelson…
ngày 3 và 5-9 đề nghị Tổng thống lợi dụng Hồ Chí Minh chết để tìm hòa bình.
Thượng nghị sĩ Kennedy tấn công chính sách của Tổng
thống VNCH coi đó là trở ngại cho hòa bình. Từ 24-9 tới 15-10 có 11 nghị quyết
chống chiến tranh được đưa ra Quốc hội gồm cả Nghị quyết của TNS Goodell đòi cắt
ngân khoản cho các lực lượng chiến đấu.. Tháng 12-1970, có TNS đòi ấn định ngày
rút hết quân khỏi VN, nhiều TNS, 79 ông Viện trưởng các trường đại học tư viết
thư xin Tổng thống cho thời khóa biểu rút quân. Đã có nhiều cuộc biểu tình đông
đảo tại Hoa Thịnh Đốn, Nữu Ước, tại Boston 100,000 người biểu tình được coi là
lớn nhất, họ hát “Hòa bình ngay”. Tất cả các cuộc biểu tình hàng mấy chục ngàn,
các TNS, dân biểu cho rằng Nixon là trở ngại cho hòa bình.
Báo Time và Newweek viết những người biểu tình đòi
rút quân hết ngay, ông (Nixon) phải rút nhanh hơn, ông Tổng thống sẽ khó khăn
trong hai, ba năm sau để được người dân ủng hộ mà ông tin đưa quân ra khỏi VN
trong danh dự. Thật đáng buồn khi đất nước bị phân hóa vì cuộc chiến. Tháng 10
Chính phủ thông báo rút hơn 50,000, giảm 20% các phi vụ B-52, máy bay chiến thuật
giảm 25%, chấm dứt các chiến dịch tấn công địch. Hành pháp tiền nhiệm (Johnson)
đưa đại binh qua VN 550,000 người, họ ám chỉ sẽ để lại đạo quân đông đảo. Thế
mà nay họ chỉ trích nói xấu tân Tổng thống, đề nghị ông ký Hiệp định và rút
trong 12 tháng, cho bầu cử tự do. Chúng tôi (nội các) nghĩ đầu hàng sẽ làm mất
uy tín nước Mỹ và sẽ ảnh hưởng an ninh thế giới. Những sự chống đối phần lớn do
ở truyền thông.
Theo thăm dò Gallup năm 1969, có dưới 44% ủng hộ
chính sách Hành pháp về cuộc chiến và 26% chống, cuộc biểu tình lớn tháng 10 có
58% ủng hộ, 32% chống. Năm tháng trôi qua, mỗi nhượng bộ lại đưa tới những đòi
hỏi nhượng bộ khác. Trườc sự chống đối của truyền thông và Quốc hội nhưng họ
không có căn cứ gì vững chắc. Báo Washington Post ngày 12-10 viết.
“Không thể tin việc làm của Tổng thống và ước đoán
ông làm cái gì, ông không phải là thánh phần của đám đông muốn chấm dứt chiến
tranh”
Tờ New York times trong năm 1969 luôn kêu Mỹ nhượng
bộ để có cơ hội hòa bình, họ leo thang đề nghị mà năm 1968 (thời Johnson) họ đề
nghị hai bên cùng rút và nay đề nghị Mỹ cứ rút không cấn đòi thiện chí của Hà Nội,
nay đề nghị thời khóa biểu rút hết. Khi Nixon họp tháng 6 tại Midway họ khen bước
đầu lui binh vào tháng 9, khi Nixon cho rút 60,000 người họ nói đó là rút ít,
tượng trưng. Về chính trị Times kêu gọi bầu cử tự do tại miền nam VN, cắt bỏ
chiến dịch lùng diệt địch tháng 4-1969. Khi Hà Nội bác bỏ đề nghị họ kêu gọi
chính phủ nhượng bộ thêm chứ không kêu gọi cứng rắn. Khi không có tiến bộ họ đổ
trách nhiễm cho Mỹ hay VNCH, Quốc hội cũng chống Nixon.
Bồ câu chứng tỏ nó là loại chim tồi tệ nhất
Năm 1967 McNamara bi Johnson ép từ chức và sau đó giữ
chức đứng đầu Ngân hàng thế giới. Năm 1967 ông ta là động lực chính thương thuyết
ngưng ném bom qua trung gian hai người Pháp, sau khi thất bại Johnson ép ông từ
chức lấy lý do McNamara nghi ngờ (cuộc chiến) nên khó làm việc hiệu quả.
Ra khỏi tòa Bạch Ốc họ (Dân chủ) tập trung lại để chống
tân Tổng thống (Nixon) qua vấn đề VN. Những người (DC) chống chiến tranh nhưng
trước đây phải miễn cuỗng ủng hộ Johnson. Humphrey nay chống ra mặt, trọng tâm
chính trị của người Mỹ nay chuyển qua chống chiến tranh, Nixon cũng như De
Gaulle tại Algerie, chủ trương rút nhưng không để sụp đổ. Những người chống chiến
tranh muốn rút nhanh, nếu nó không đưa tới thất bại thì cũng làm cho Hoa Kỳ mất
thế mạnh tại bàn hội nghị, địch hưởng lợi do tình hình tại Mỹ. Mặc dù thăm dò
cho thấy đa số dân Mỹ muốn giải pháp danh dự hơn là đầu hàng (CS) mà Nixon có
thể khéo léo xử dụng động lực chính trị Mỹ trong đường hướng rút đơn phương. Đối
với chính phủ Nixon vừa phải kìm hãm những chống đối rối loạn mà thực hiện một
chính sách rút quân có trật tự phải nói đó không phải là một thành tích nhỏ. Vừa
phải giữ bốn năm, phải kết thúc trong hòa bình và cân bằng lực lượng tại VN tuy
tạm bợ nhưng cũng là một kỳ công chính trị. Cuộc hành trình cam go hơn nhưng sự
hỗn loạn khiến TT Nixon bị ảnh hưởng, xúc động mạnh. Ông đã rút quân, giảm chiến
sự, thay vì được ca ngợi lại bị kết tội không rút nhanh mà chính họ (DC) trước
đây đã không dám rút. Báo chí, nhóm phản chiến hợp nhất, họ chấp nhận (Mỹ) thua
trận để trả thù cho thế hệ, Nixon không ngờ tới sự bùng phát của giới trẻ nhất
là sinh viên.
Kissinger đồng ý với chính sách về VN của Tổng thống,
ông nói: tôi đã soạn thảo nhiều trong đó, tôi chỉ trích ông ở chỗ trì hoãn chấp
nhận sự lựa chọn bi đát trước mắt. Kissinger nói cuộc chiến phải chấm dứt nhưng
không phải để đáp ứng những kẻ chống đối. Trong buổi họp tháng 10-1969,
Kissinger nói dù đầu hàng (CS) cũng không chấm dứt hiện tượng chống đối, nếu chống
đối trên đường phố thành công nó sẽ thay đỏi kiểu chính trị của nước Mỹ. Một điều
mâu thuẫn là Chính phủ và và những kẻ chống đối bài bác nhau về cái họ cùng
mong muốn: đàm phán sớm chấm dứt chiến tranh VN. Trong khi đó Hà Nội yên lặng tọa
sơn quan hổ đấu, họ thấy nước Mỹ không đàm phán với kẻ thù (BV) mà đàm phán với
nhau (Chính phủ và dân).
Mò
mẫm tìm một chiến lược
Chúng tôi đang trên đường ra khỏi VN, chúng tôi thử
đứng giữa đầu hàng và sự bế tắc triền miên do chính phủ cũ để lại. Có thể ta
thành công do khả năng giải quyết một lô những vấn đề chính trị, quân sự, ngoại
giao trong khi đương đầu với sự chống đối liên tục.
Nixon tìm cách thuận lợi giải quyết vấn đề trong nước.
Ngày 19-9 trong một cuộc nói chuyện tại Tòa Bạch Ốc, Nixon và Laird thông báo
rút 60,000 từ VN nên chúng tôi bãi bỏ trưng binh tháng 11 và 12 … ngày 26 tháng
11 Nixon ký luật cho cho sổ số (rút thăm) trưng binh, tháng 10 sẽ cho sổ số.
Tháng 8 chính phủ mở chiên dịch đòi CSBV tuân thủ qui ước Geneve về tù binh.
Hành pháp có kết quả tốt về vấn đề đối xử tù binh nhưng mấy năm sau lại bất lợi
cho Mỹ khi vấn đề tù binh được thêm vào cho việc rút quân đơn phương và loại bỏ
VNCH (mà BV đòi). Trong các cuộc viếng thăm tại ngoại quốc Nixon ám chỉ ông đã
hết kiên nhẫn với BV và tuyên bố sẽ làm mạnh nếu không có kết quả đàm phán.
Hôm 20-10 Nixon gặp Dobrynin (đại sứ Nga), ông cần
Nga giúp vấn đề VN, ông cho biết đã ngưng ném bom BV một năm (1-11-1968), nếu
không có tiến bộ Mỹ sẽ có cách chấm dứt chiến tranh VN, nếu Nga hợp tác đưa cuộc
chiến tới kế thúc trong danh dự thì Mỹ sẽ cải thiện quan hệ với Nga. Mặc dù Sô
viết mong mỏi muốn đàm phán tài giảm binh bị nhưng khi Mỹ đề nghị tháng 6 họ giả
vờ không tha thiết, Đại sứ nga đề nghị giữa tháng 11 mới bàn vấn đề này.
Đầu tháng 11, Nixon đọc diễn văn tỏ ra cứng rắn
không nhượng bộ những người chống dối, Kissinger đồng ý, Tổng thống chủ trương
hòa bình trong danh dự. Bài diễn văn của ông đụng chạm mạnh những người chống đối
cũng như sự trông đợi của CSBV và mọi người khi ông cho biết không thay đổi lập
trường, không rút quân. Đây được coi như sự kêu gọi “đám đông thầm lặng đa số”
Mỹ để ủng hộ vị Tổng tư lệnh (Nixon). Lần đầu tiên ông cho biết kế hoạch chấm dứt
chiến tranh gọi là VN hóa và đàm phán và VN hóa có triển vọng đưa tới hòa bình
trong danh dự.
Kissinger nói ông khuyên Tổng thống không bênh vực cho
việc đưa quân can thiệp vào VN của chính phủ trước mà chỉ đề cập rút quân nhưng
Nixon không đồng ý nói: Tôi tin rằng người dân Mỹ không chấp nhận sự hy sinh
cho một cuộc chiến mà nó không có một mục đích vững chắc. Bài diễn văn cứng rắn
nhưng có chút thay đổi trong lập trường đàm phán trong khi bài ngày 14-5 đề nghị
rút một phần lớn quân Mỹ trong năm trong khi bài ngày 3-11 chấp nhận rút hết
trong một năm nếu hai bên rút song phương. Bài ngày 14-5 nói về ngưng bắn có
quan sát bao gồm có thể dàn xếp địa phương hay toàn bộ trong khi bài ngày 3-11
về ngưng bắn chỉ giải quyết một vấn đề. Tuy nhiên Nixon nói vấn đề không liên hệ
chi tiết nhưng về nguyên tắc cơ bản “Hà nội không bàn tới đề nghị của ta mà họ
chỉ đòi ta chấp nhận không điều kiện những đièu khoản của họ là rút hết quân
(US) ngay không điều kiện và lật đổ chính phủ VNCH sau khi rút”
Nixon đưa từng bước rút quân, giảm oanh tạc, huấn
luyên VNCH, ông nhấn mạnh VN hóa gồm rút hết quân chiến đấu (US) và thay bằng
các lực lượng VNCH theo thời khóa biểu rút. Như Kissinger đã gợi ý, Nixon tiết
lộ những văn thư mật với BV trước ngày nhậm chức, những thảo luận với Nga để
kích động đàm phán và những thư mật với Hồ Chí Minh hồi tháng 7 và tháng 8
nhưng ông không tiết lộ cuộc họp mật với Xuân Thủy. Nhưng ông giải thích chân
thật rằng “không có chút tiến bộ nào (đàm phán) ngoài sự đồng thuận về hình
dáng cái bàn Hội nghị”
Và ông nói về những vấn đề cơ bản: “tại San
Francisco mấy tuần trước, tôi thấy những người biểu tình phản chiến mang biểu
ngữ “thua ở VN, mang thanh niên về”. Là Tổng thống Mỹ tôi sẽ làm trái lời tuyên
thệ nếu để cho chính sách của đất nước do một nhóm có quan điểm áp đặt bằng
cách biểu tình ngoài phố.
Từ 200 năm qua, chính sách của đất nước được thực hiện
dưới Hiến pháp do các vị lãnh đạo Quốc hội, tòa Bạch ốc và người dân. Nếu một
nhóm nhỏ có nhiệt tâm áp đảo ý chí và lý lẽ của đa số, đất nước này sẽ không
còn là một xứ tự do”
Bài diễn văn được đáp ứng rất nhanh, hàng vạn điện
tín ủng hộ được gửi tới nó đã đè bẹp những bài chỉ trích của báo chí, truyền
hình. Thăm dò cho thấy tỷ lệ ủng hộ lên cao, Nixon xúc động, người dân Mỹ có thể
chán chiến tranh nhưng họ không muốn bại trận, ông giữ cả chồng điện tín ủng hộ
để trên bàn không vứt bỏ.
Từ đó áp lực giảm lần đầu tiên từ tháng 1, Chính phủ
thoải mái nhưng cần nhiều hơn thế nữa để sẽ giải quyết bọn lãnh đạo cứng đầu Hà
Nội. Năm 1969, BV không đàm phán, từ chối mọi đề nghị hòa bình, không bầu cử tự
do hay ngưng bắn. Đơn phương rút quân không thể làm đàm phán tiến nhanh hơn. Hà
Nội không cho thấy một tia hy vọng đàm phán tiến bộ, nhượng bộ dần (của US) chỉ
khiến BV thêm ngoan cố. Chắc Mỹ sẽ phải nhượng bộ lớn hơn, còn nếu bị họ bác bỏ
sẽ phải làm mạnh bằng quân sự, nếu không có khủng hoảng, Nga sẽ không can thiệp.
Nếu Mỹ đã không nhượng bộ BV trong ba năm 1970, 1971, 1972 mà đánh mạnh từ 1970
thì cuộc chiến đã kết túc sớm hơn. Thật khó mà nói sau khi ta rút đi, miền nam
VN có gánh vác một mình được chiến trường hay không sau khi ký Hiệp Định. Đối
diện với phong trào chống đối trong nước, nội bộ chính phủ chia rẽ, tôi (lời
Kissinger) không dám phân tích, góp ý riêng, tôi tham gia quan điểm chung rằng
Việt Nam hóa chiến tranh (rút quân) là sự tổng hợp mọi áp lực từ quốc tế, quân
sự, trong nước.
Một khi tiến hành (rút) không quay lại, tôi biết nó
có thể là một con đường dài bi thảm và có thể đưa tới thất bại – mà tôi đã nhiều
lần trình bầy sơ lược những những nguy hiểm của nó với Tổng thống (Nixon). Tôi
cũng tin là nó tốt hơn những giải pháp mà khủng hoảng trong nước muốn ta làm. Tổng
thống tường trình Quốc hội chính sách đối ngoại lần đầu ngày 18-2-1970, tóm tắt
chính sách về VN rất ôn hòa.
Tường trình tiến bộ rất thường xuyên trong thời ký
can thiệp vào VN chứng tỏ quá lạc quan, tuy nhiên về kế hoạch ta chú ý hai vấn
đề cơ bản.
-Ta không thể gạt đối phương (CS) được, họ biết rất
rõ tình hình (tại US)
-Ta không thể gạt ta được, người Mỹ cần phải biết hết
sự thật, ta không thể làm mất niềm tin vào phán đoán của ta và của lãnh đạo ta.
Báo cáo xác nhận những vấn đề chưa giải quyết và
đánh dấu để duyệt xét sự tiến bộ trong tương lai. Chúng tôi chấp nhận chính phủ
chưa biết hết cấu trả lời cuối cùng về ý định của địch, viễn tượng của VN hóa:
-Địch có phà hỏng những thành quả.
-Đồng minh VNCH về khả năng, lãnh đạo, tiếp liệu,
chiến thuật.
Trong khi lãnh đạo Hà Nội quyết định chiến thắng, nhận
định của họ năm 1969 trái ngược ta, họ không đàm phán hòa bình, mục đích của họ
là độc quyền chính trị và quyền lực, nó phản ảnh phần lớn chính sách lãnh đạo
chính trị, quân sự của CS mà ta bắt được cuối năm 1969.
Nghị Quyết số 9 của Trung ương cục miền nam (Bộ chỉ
huy CSBV đặt tại miền nam), họ coi sự nhượng bộ của Mỹ không phải thiện chí hòa
bình mà vì thất bại:
“Chiến lược chiến tranh hạn chế (US) phá sản, chúng
bị khủng hoảng phải xuống thang chiến tranh dần dần và thực hiện VN hóa, rút
quân, bắt đầu bằng 25,000 người hy vọng thoát ra khỏi cuộc chiến xấm lược. Sau
đại thắng chiến dịch mùa Xuân (1969) quân dân ta đã mở cuộc tổng tấn công quân
sự, chính trị, ngoại giao: cuộc tấn công mùa hè và và chương trình 10 điểm tại
cuộc hòa đàm Ba Lê. Nixon đã bị ta đánh một đòn nặng qua chiến dịch 1969. Thua
tại mặt trận, thất bại tại Hòa đàm Ba Lê, Nixon bị nhân dân Mỹ và thế giới lên
án phải chấm dứt cuộc chiến VN.
Nixon phải mở chương trình 8 điểm, họp với Thiệu tại
Midway, bắt đầu cho rút 25,000 quân, nó cho ta thấy Đế quốc vẫn ngoan cố và thấy
khủng hoảng bế tắc của Chính phủ Nixon qua một bậc mới, đó là cơ hội cho ta thắng
địch. Theo Trung ương cục mục tiêu 1969 là giết nhiều lính Mỹ để gây phong trào
phản chiến, làm suy yếu Ngụy quyền và kế hoạch bình định của chúng, ép Mỹ chấp
nhận Chính phủ liên hiệp để tiến tới thống nhất Tổ quốc.
a- Tấn công quân Mỹ, gây thiệt hại cho chúng
b- Đánh mạnh quân Ngụy gây thiệt hại cho địch.
c- Củng cố chính trị quân sự để tấn công mạnh.
d- Đánh bại và làm suy yếu Ngụy và chính sách bình định
của chúng, đưa cao vai trò của Chính phủ cách mạng lâm thời.
e- Đánh bại ý chí xâm lăng của Mỹ, buộc chúng phải
chấm dứt chiến tranh nhanh, rút quân về nước. Trong khi Ngụy yếu mà phải thay Mỹ,
ép Mỹ chấp nhận giải pháp chính trị, chấp nhận miền nam (VN) trung lập, độc lập,
liên hiệp chờ thống nhất.”
CSBV tin chắc như vậy, ta (lời Kissinger) ta phải cho
họ biết thế là sai, Kissinger theo dõi sự mơ hồ của chính sách phức tạp (VN
hóa) mà không tiên đoán được nhưng không còn đường nào khác mà ta cho là thành
công, nếu thất bại sẽ ảnh hưởng những người tin tưởng vào Mỹ. Chúng ta (US) phải
tiếp tục chiến đấu cho tới khi Hà Nội nhận thấy cần thay đổi. Nếu ta tiếp tục
con đường ấy (rút), Hà Nội sẽ thoải mái nghỉ ngơi nhưng không tìm hòa bình. Một
trách nhiệm bi đát của ta là phải vật lộn với một đối phương ngoan cố cho tới
khi ta thực hiện được một hòa ước tốt đẹp phù hợp với giá trị của ta, của trách
nhiệm ta đối với thế giới và với niềm tin của đa số người Mỹ.
No comments:
Post a Comment