Ỷ Lan, Phóng viên RFA, Paris
2015-04-27
2015-04-27
Từ trái sang phải: HT
Thích Quảng Độ, Nhật Thường, Thích Nhật Ban, Đồng Ngọc, Thích Trí Lực, Thích
Không Tánh tại TAND TPHCM tháng 8 năm 1995.
Photo courtesy of lehienduc.blogspot.com
Danh
xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ra đời tại Saigon ngày 4
tháng giêng 1964, sau cuộc đấu tranh đòi hỏi bình đẳng tôn giáo và tự do tín
ngưỡng năm 63. Vì trước đó, Dụ số 10 của Pháp bó buộc phải hoạt động theo quy
chế Hiệp hội.
Kể
từ tháng 9 năm 75, cuộc đàn áp Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bắt đầu
theo Chỉ thị số 20 của Đảng do ông Lê Duẩn ký năm 1960, khiến Phật giáo
miền Bắc bị tiêu vong. Nay đem thực hiện tại Miền Nam.
Cuối
tháng 9 năm 75, Hoà thượng Thích Huyền Quang nhân danh Viện Hoá Đạo đã có văn
thư phản đối Chủ tịch Cách Mạng Lâm thời về việc đập phá các tượng Phật lộ
thiên.
Nhiều
hiện tượng khác, như bắt treo hình Hồ Chí Minh trên bàn thờ tổ tiên, áp lực chư
Tăng hoàn tục, hoặc đưa sang chiến trường Kampuchia, cấm treo cờ Phật giáo
trong các chùa viện, cưỡng chiếm các cơ sở văn hoá, giáo dục, từ thiện Phật
giáo, như Cô nhi viện Quách Thị Trang, Viện Đại học Vạn Hạnh, v.v…, hàng chục
nghìn Tăng Ni, Phật tử bị đưa vào trại Cải tạo.
Trong
lịch sử Việt Nam, chưa có thời đại nào mà số lượng Tăng Ni, Phật tử bị cầm tù
đông đảo như dưới triều đại Hồ Chí Minh.
Tình
trạng đàn áp bức thiết khiến 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể ngày 2-11 năm 75 tại
Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ, dưới hàng biểu ngữ “Chết vinh hơn sống nhục“.
Đại đức Thích Huệ Hiền để lại chúc thư yêu sách chính quyền Cách mạng thực hiện
nhân quyền, tự do tôn giáo, chấm dứt đàn áp GHPGVNTN.
Tình
trạng đàn áp có chủ trương và chính sách này, không ai lên tiếng rõ hơn Đức cố
Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu. Năm Mậu Thân 68, ngài bị cộng sản bắt đưa lên
rừng rồi đưa ra Hà Nội áp lực tuyên truyền cho chế độ, nhằm đánh lừa dư luận quốc
tế là Phật giáo ủng hộ Bắc Việt. Thế nhưng, trở về lại miền Nam, ngài từ nhiệm
tất cả các chức vụ mà Hà Nội gán cho, lại còn tố cáo đàn áp Phật giáo và thảm
sát cố Hoà thượng Thích Thiện Minh.
Sau
đây là tiếng Ngài qua một băng thu âm, được đăng tải trên tạp chí Quê Mẹ tại
Paris :
“Từ
khi giải phóng đến nay, Phật giáo đồ chúng tôi bị bao nhiêu khổ đau tan tác. Đi
bất cứ đâu, đạo khác thì chúng tôi không biết, chớ về gặp các nhà chùa Phật
giáo, cán bộ, bộ đội phát biểu “Hòa bình Độc lập rồi, tu mà làm gì nữa?
Tuân thủ thờ Cách mạng hơn là thờ Phật“.
“Bắt
đầu từ đó, sự vận động, khủng bố không cho họ được làm lễ. Phá hoại tượng Phật lộ
thiên ở Gia Lai, Kontum, Ban Mê Thuột, Biện Hồ, Vũng Tàu, Quy Nhơn, Quảng Ngãi…
Bộ đội cột giây lên kéo xuống, đập vỡ tan hết.
“Sau
đây còn bắt các vị tu sĩ lấy lý do mấy ông Sư đó phản động theo CIA, theo Mỹ,
theo Nguỵ. Rồi lần lượt bắt cho đến các vị lãnh đạo trong Viện Hoá Đạo nữa, Thượng
toạ Huyền Quang, Thượng toạ Quảng Độ, rồi đến bắt Thượng toạ Thiện Minh nữa, để
Thiện Minh chết nữa.
“Thiện
Minh không có tội chi hết, thì tại sao chính phủ làm cái việc lạ lùng hết sức.
Đi bắt tội người không có tội chi hết là Thiện Minh mà lại dung tha cho người
có tội là cơ quan. Tôi thì không biết rõ luật quốc tế lắm. Nhưng tôi đoán chắc
rằng, luật quốc tế không cho phép để cho người bị bắt chết trong trại giam. Mà
đây Thiện Minh đã chết trong trại giam. Cơ quan nói Thiện Minh chết vì xuất huyết
não. Tôi có thể kết luận, Thiện Minh chết không phải vì xuất huyết não, mà vì
bàn tay tội ác chính trong cơ quan tạo ra. Là bởi được tin Thiện Minh chết, Viện
Hoá Đạo về liền, thấy các ông bỏ trong hòm mà liệm rồi, chỉ chừa cái mặt. Viện
Hoá Đạo xin đem về chôn cất, các ông không cho.
“Tại
sao vậy ? Đây thấy rõ ràng quá. Rõ ràng như hai với hai là bốn. Là trong người
của Thiện Minh đầy cả thương tích. Muốn che đậy thương tích đó, muốn che đậy lấp
liếm cái việc làm của mình, bằng cách bỏ trong hòm liệm đi. Bởi vì sợ người ta
thấy những cái vết thương mà các ông đã đánh đập.
“Là
một công dân, tôi không thể để cho cơ quan làm những việc bất chính như vậy.
Tôi xin nhắc lại ba điều yêu cầu:
“Một
là yêu cầu chánh phủ trả tự do cho tất cả các tu sĩ bị bắt giam cầm đã lâu mà
không can án;
“Thứ
hai là đưa cái chết của Thượng toạ Thiện Minh ra ánh sáng, nghĩa là phải đưa
người giết Thiện Minh ra ánh sáng. Không nói lôi thôi gì hết. Có người giết;
“Thứ
ba phải chấm dứt tình trạng khủng bố các tín đồ ở các địa phương“.
Ngày
16-4-1977, Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Thông báo kêu gọi Phật tử
Saigon đấu tranh chống lại GHPGVNTN. Thông báo cho rằng, “trong giới
lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phái Ấn Quang có nhiều người vốn
có mưu đồ xấu chống cách mạng, chống Cọng sản” (…) “Số này đã thao túng Giáo hội
âm mưu kích động Phật tử chống lại các chính sách của Nhà nước”. Thông
báo còn hăm doạ ra tay đàn áp.
Hăm
doạ biến thành sự thật, bảy vị lãnh đạo Viện Hoá Đạo bị bắt giam. Hoà thượng
Huyền Quang, Quảng Độ bị giam 20 tháng, nhờ áp lực quốc tế mới được thả nhưng bị
quản chế. Hoà thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết tại Trại thẩm vấn X4,
đường Nguyễn Trãi, Saigon, như Hoà thượng Đôn Hậu tố giác.
Suốt
5 năm đàn áp, khủng bố, nhưng không thành công tiêu diệt GHPGVNTN. Năm 1981,
nhà cầm quyền Cộng sản chuyển qua chiêu bài mới, gọi là “Thống nhất
Phật giáo“, thành lập “Hội Phật giáo Việt Nam” tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, ngày
4-11để làm công cụ chính trị cho Đảng và Nhà nước. Ép buộc Tăng Ni, Phật tử thuộc
GHPGVNTN phải gia nhập.
Ông
Xuân Thuỷ, Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân Vận chỉ thị cho ông Đỗ
Trung Hiếu, cán bộ tôn giáo vận, thực hiện cuộc Thống nhất Phật giáo này. Ông
giải thích cho ông Hiếu vì sao phải dẹp bỏ GHPGVNTN như sau :
“Quan
trọng là Đảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
mà ngược lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn
giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức có áp lực chính trị thường
trực với Đảng và chính phủ Việt Nam”.
Năm
1994, hối hận việc làm sai lạc của mình, ông cho phát hành tập sách “Thống nhất
Phật giáo” nói lên tất cả sự thật và tiết lộ :
Cuộc
thống nhất Phật giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên
trong bàn tay Đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và
biến Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Đảng. (…) Nội dung hoạt
động là do cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng
và xã hội. Hội Phật Giáo Việt Nam ở trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, tuân thủ luật
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Kể
từ đó, GHPGVNTN bị đưa ra ngoài vòng pháp luật, dù Nhà nước không có văn kiện
nào chính thức giải thể. Một cuộc đàn áp mới sắp khai trương.
Vài
tháng sau Giáo hội Phật giáo nhà nước ra đời tại Hà Nội, ngày 24-2-1982, Ủy ban
Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định trục xuất hai Hoà thượng Thích Huyền
Quang, Thích Quảng Độ về quản chế tại quê quán Quảng Ngãi và Thái Bình, không
qua sự xét xử của toà án. Ngày 7-7 cùng năm, cưỡng chiếm chùa Ấn Quang là trụ sở
của GHPGVNTN. Toàn bộ tư liệu, hồ sơ của Viện Hoá Đạo bị đốt sạch trong năm
ngày mới hết.
Năm
1991, Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ, Huế.
Nhà nước muốn lợi dụng tang lễ này tuyên truyền chính trị cho Đảng. Nhưng Di
chúc Ngài ngăn cấm không tổ chức rầm rộ, không đọc điếu văn, ca tụng, v.v… Nên
50 Tăng Ni tuyệt thực phản đối tại chùa Linh Mụ. Có vị đòi tự thiêu. Ngài để lại
khuôn dấu Giáo hội và trao quyền cho hai Hoà thượng Huyền Quang và Quảng Độ tiếp
tục lãnh đạo GHPGVNTN để phục hồi quyền pháp lý cho Giáo hội. Mặc dù bị công an
phong toả, cấm đoán, tại lễ tang, Hoà thượng Huyền Quang dõng dạc tuyên bố trước
Linh đài quyết tâm thực hiện Di chúc giao phó :
“Pháp
lý là cái gì ? Giấy tờ chỉ được viết ra cho một tổ chức tân lập, còn Giáo hội
ta đã có mặt trên dải đất này 2000 năm rồi. Đinh, Lê, Lý. Trần đã chấp nhận Phật
giáo.
“Pháp
lý của Giáo hội là 2000 năm truyền đạo trên dải đất Việt Nam này. Địa vị của
Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc,
rộng rãi muôn năm của Giáo hội.
“Như
vậy Pháp lý có thể cho ra và có thể thu lại. Vậy cho nên đừng đặt vấn đề pháp
lý của thời đại, mà phải đặt lịch sử truyền đạo và sự chấp nhận của dân chúng
Phật tử“.
Trước
sự bùng dậy của khối Phật giáo đồ sau tang lễ, tài liệu Tuyệt Mật của Bộ Nội vụ
viết ngày 18-8-1992 chỉ thị 5 biện pháp đấu tranh chống khối Phật giáo Thống Nhất,
đặc biệt là phân hoá cao hàng ngũ giáo sĩ ; “cắt đứt chân tay” với số cực đoan
chống đối ; và thâm nhập đặc tình trong Tăng tín đồ Phật giáo.
Vì
thực hiện và phổ biến Di chúc Ngài Đôn Hậu, chư Tăng chùa Linh Mụ bị đàn áp dữ
dội, đưa tới cuộc biểu tình bốn mươi nghìn Phật tử Huế xuống đường ngày
24-5-1993 đòi hỏi nhân quyền và tự do tôn giáo. Đây là cuộc biểu tình lớn nhất
chưa hề có dưới chế độ Cộng sản. Tại Hội nghị “Diễn biến Hoà bình” ở Hải phòng
ngày 26.6 cùng năm, Tướng Đặng Vũ Hiệp đánh giá cuộc biểu tình của Phật tử Huế
có “nguy cơ mất nước“.
Sự
kiện hi hữu xẩy ra là ngày 2-4-2003, Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp Hoà thượng
Thích Huyền Quang, nhân dịp ngài ra Hà Nội giải phẫu khối u ở mặt. Một thủ tướng
tiếp một tù nhân ! Thủ tướng xin Hòa thượng hỉ xả cho chuyện đã qua, vì cán bộ
cấp địa phương làm sai. Nhiều nhà quan sát tưởng rằng vấn đề Phật giáo được lắng
yên.
Thế
nhưng, sau Đại hội Phật giáo kỳ VIII do Hoà thượng Huyền Quang triệu tập tại Tu
viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định, ngày 1-10-2003, để bổ sung nhân sự vào hai
Viện Tăng Thống và Viện Hoá Đạo, thì chuyến xe chở 10 vị giáo phẩm về lại
Saigon bị chận bắt tại Lương Sơn hôm 8-10, trong số có hai ngài Huyền Quang và
Quảng Độ. Tất cả đều bị bắt đi “làm việc” và ra khẩu lệnh quản chế.
Từ
đó đến nay Giáo hội luôn bị đàn áp, sách nhiễu thường trực. Mọi hoạt động của
20 Ban Đại diện Giáo hội tại các tỉnh thành đều bị ngăn cấm. Chùa Giác Minh của
Hoà thượng Thanh Quang ở Đà Nẵng bị phong toả thường trực, các Đại lễ Phật Đản,
Vu Lan hay Tết bị ngăn cấm tổ chức.
Thế
nhưng Giáo hội không ngừng lên tiếng cho những vấn nạn xã hội hay đất nước. Từ
nơi quản chế Quảng Ngãi, ngày 20-11-1993, Hoà thượng Thích Huyền Quang ra Tuyên
cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn, yêu sách bỏ điều 4 trên Hiến Pháp và bầu cử
lại Quốc hội dưới sự giám sát của LHQ với sự tham gia của tất cả các đảng phái
quốc gia.
Đầu
năm 1994, Hoà thượng Thích Quảng Độ bị bắt khi dẫn phái đoàn Viện Hoá Đạo đi cứu
trợ nạn bão lụt khủng khiếp ở đồng bằng sông Cửu Long. Bị kết án 5 năm tù, giam
tại nhà tù Ba Sao. Được ân xá năm 1998, nhưng vẫn còn quản chế tại Thanh Minh
Thiền Viện, Saigon. Ngài tuyên bố : “Tôi đi từ nhà tù nhỏ vào nhà tù lớn”.
Năm
2001 ngài công bố “Lời kêu gọi cho Dân chủ” với giải pháp 8 điểm thực hiện, mà
ngài xem như giải pháp duy nhất cứu nguy dân tộc.
Ngày
17-5-2007, Hoà thượng Quảng Độ đến uỷ lạo và tiếp tế thực phẩm thuốc men cho
Dân oan khiếu kiện trước tiền đình Quốc hội II ở Saigon. Việc làm bị báo chí
truyền thông nhà nước tố cáo, hăm doạ trong vòng 3 tháng. Ngài cũng nhiều lần
lên tiếng tố cáo về việc Trung quốc xâm lấn lãnh thổ và biển đảo, nạn bô xít
Tây nguyên nơi Trung quốc nắm yết hầu quân sự, chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa,
cho đến gần đây, năm 2014, biến cố giàn khoan Hải dương 981.
Nhiều
vị Đại sứ các nước như Hoa Kỳ, Na Uy, Đức, Anh, Pháp… vẫn thường xuyên đến
vấn an, trao đổi với Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ. Liên tiếp nhiều năm, ngài
được đề cử ứng viên Giải Nobel Hoà bình. Năm 2003, ngài và ngài Huyền Quang được
trao Giải Nhân quyền của Tiệp dưới sự chủ trì của cựu Tổng thống Vaclav Havel,
năm 2006 ngài được Giải Nhân quyền Quốc tế Rafto của Vương quốc Na Uy.
Nhờ
sự lưu tâm quốc tế này mà ngài và hàng giáo phẩm Giáo hội không bị khủng bố, bắt
giam tuỳ tiện như những năm sau 30 tháng Tư 75.
Ngài
xác nhận lập trường Giáo hội suốt 40 năm qua không hề thay đổi như sau:
“Chừng
nào mà chế độ Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam còn, thì Giáo hội không được sinh hoạt
bình thường đâu.
“Họ
dùng đủ cách để mà xoá sổ, xoá sạch cái danh nghĩa của Giao hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất trên đất nước Việt Nam. Mà chưa hết đâu, còn nhiều. Vì thế cho
nên cứ sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để đón nhận, để đương đầu.
“Cho
nên trước khi tiễn đưa Đức Tăng Thống đến nơi an nghỉ cuối cùng, thì chúng tôi
đã nói rồi : Chúng tôi sẽ tiếp tục con đường đi của Ngài.
“Còn
rất nhiều khó khăn, còn rất nhiều chông gai, nhưng sẵn sàng vượt qua. Còn hơi
thở thì vẫn cứ tiếp tục. Đó là cái chí nguyện của Giáo hội”.
--------------------------------------
Hòa thượng Thích
Nguyên Trí - BBC
26-04-2015
Biến
cố ngày 30/4 năm 1975 không chỉ là ‘bước ngoặt đau thương cho dân tộc’ mà còn
‘gây điêu đứng cho Phật giáo’, một tôn giáo đã đồng hành cùng lịch sử hàng
ngàn năm của dân tộc, một vị chức sắc cao cấp của Phật giáo tại hải ngoại
nói với BBC.
‘Không
phát triển được’
Trao
đổi với BBC Việt ngữ tại chùa Bát Nhã tại miền Nam California, Hòa thượng Thích
Nguyên Trí, viện chủ chùa cho biết chính ông đã ‘chịu đựng những đau thương từ
sau năm 1975 cho đến năm 1981’.
“Vì quá đau thương
không thể xây dựng được Phật giáo trong nước nên tôi phải tìm đủ mọi cách ra hải
ngoại làm việc để duy trì Phật giáo cho đến ngày hôm nay,” Hòa thượng Thích
Nguyên Trí nói.
Chùa
Bát Nhã cũng là văn phòng thường trực của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất, một giáo hội bị chính quyền trong nước cấm, tại Hoa Kỳ. Hòa thượng
Thích Nguyên Trí là phó chủ tịch điều hành của văn phòng này.
“Cộng sản không bao
giờ có tín ngưỡng cho nên khi họ đi vào đánh chiếm miềm Nam thì hầu hết các tôn
giáo bị tê liệt, trong đó có tôn giáo gắn liền với lịch sử dân tộc là Phật
giáo,”
ông nói.
Theo
lời ông kể lại thì chính quyền của Đảng Cộng sản chiếm được miền Nam họ đã
‘thanh lọc những vị nào thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra
một bên’ và ‘đưa vào danh sách cần phải lưu ý’.
“Tất cả những hành
động từ cử chỉ đi đứng tới lui sinh hoạt trong chùa chiền gần như bế tắc,” ông nói.
“Họ không cho hoạt
động bất cứ điều gì. Ngay các buổi lễ cũng không cho hành lễ. Những gia đình
Phật tử hồi giờ sinh hoạt tại chùa cũng bị ngăn cấm. Tất cả những ban hộ
niệm, những tổ chức Phật giáo bị tê liệt toàn bộ,” ông nói thêm.
“Ngay cả các vị lãnh
đạo, các vị thầy của chúng tôi như Hòa thượng Thích Huyền Quang, Hòa thượng
Thích Quảng Độ cũng không còn cách nào phát huy tinh thần của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất.”
“Chính vì vậy khi
chúng tôi đặt chân lên bến bờ tự do thì điều trước hết là mở Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất ở hải ngoại và ngày nay có mặt ở khắp nơi,” ông nói và cho biết
từ ngày ông đặt chân đến Mỹ ông đã quyên góp được hơn một triệu Mỹ kim chuyển
về trong nước làm từ thiện và xây dựng chùa chiền.
‘Chỉ
có hình thức’
Nhận
định về tình hình Phật giáo trong nước, Hòa thượng Thích Nguyên Trí nói ‘làm
theo chiều hướng của Đảng Cộng sản chứ không theo tinh thần của Phật giáo’.
Theo
lời ông giải thích thì trong thành phần lãnh đạo của giáo hội Phật giáo trong
nước đều ‘đặt dưới sự chỉ đạo của Nhà nước chứ không được quyền tự bầu cử và ứng
cử’.
“Vấn đề thọ giới thì
là những người trong tôn giáo tự sắp xếp với nhau đưa lên hàng giáo phẩm: vị
nào lên hòa thượng, thượng tọa, đại đức hoàn toàn do giáo hội bổ nhiệm và suy
cử chứ Nhà nước không có quyền nhúng vô,” ông nói.
“Những ngày lễ như Lễ
Phật đản, Lễ Vu Lan phải xin phép chính quyền và người họ đưa ra mới được quyền
đứng ra trước quần chúng làm lễ,” ông nói thêm.
Ngay
cả các Phật viện trong nước, theo lời Hòa thượng Thích Nguyên Trí, thì các
tăng ni sinh đến tu học cũng bị ‘xét lý lịch cá nhân’ chứ ‘không xét theo đạo đức
thế nào’.
Về
đời sống của các tôn giáo trong nước hiện nay, ông nhận xét rằng ‘có phát triển’
nhưng ‘chỉ là hình thức’ vì ‘tự do không có’.
“Chẳng hạn như đối với
Phật giáo Hòa hảo, vị tối tôn trọng của họ là Ngài Huỳnh Giáo chủ thì ngày lễ
lộc tưởng niệm hết sức khó khăn,” ông nói thêm và cho biết Nhà nước ‘theo dõi
các vị chức sắc chức sắc tôn giáo xem họ phát ngôn thế nào nếu nói trật đường
lối là khó sống’.
Về
phương châm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do chính quyền kiểm soát là ‘Đạo
pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa xã hội’, ông cho rằng do Đảng Cộng sản ‘ép buộc phải
đưa chủ nghĩa cộng sản vào’ chứ ‘Đạo pháp không thể đi cùng chủ nghĩa xã
hội’.
“Việc này làm thành
phần trí thức hiểu biết rất đau lòng,” ông nói.
Cuộc
phỏng vấn của BBC Việt ngữ với Hòa thượng Thích Nguyên Trí được thực hiện
trong tháng Tư, 2015 tại Nam California.
No comments:
Post a Comment