Phạm
Hoài Nam
Chinh
Nghia 25/3/2015
Phần 1
Tác
phẩm “Tôi tự hào là người Việt Nam” (TTHLNVN) được ra mắt tại Việt Nam vào
tháng 8 năm 2014. Có lẽ tại Việt Nam từ sau tháng 4/1975 đến nay, hiếm có một
cuốn sách nào được tổ chức ra mắt rầm rộ như cuốn sách này.
Các
cơ quan truyền thông lớn trong nước đều quảng bá quyển sách này và tường thuật
2 buổi “tọa đàm” về tác phẩm tại Sài Gòn ngày 30/8 và Hà Nội ngày 27/9/2014, với
sự tham dự của nhiều nhân vật nổi tiếng và các đại diện của chính quyền.
Đọc
tin trong nước và nghe qua YouTube bàn tán nhiều về cuốn sách này quá, cho nên
vì tò mò, tôi nhờ một người ở VN mua dùm gởi qua.
Theo
chủ biên Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết tác phẩm này là điểm khởi đầu cho dự
án lâu dài, nhiều cuốn “tự hào” khác sẽ được ra đời: “Doanh nhân tự hào là người
Việt Nam” (2015), “Trí thức tự hào là người Việt Nam” (2016), “Người Việt Nam ở
nước ngoài tự hào là người Việt Nam” (2017), “Văn nghệ sĩ tự hào là người Việt
Nam” (2018), “Thanh niên tự hào là người Việt Nam” (2019), “Lãnh đạo mọi cấp, mọi
nơi tự hào là người Việt Nam” (2020) và còn nữa.
Tác
phẩm bao gồm 35 bài viết của 33 tác giả. Mỗi tác giả đại diện cho một lãnh vực:
giáo dục, văn hóa, văn nghệ, trí thức, sử học, y tế, công nghệ, báo chí, tâm lý
học, tư duy chiến lược, quốc phòng… phản ảnh mọi khía cạnh của xã hội ngày nay.
Trong số 33 người này có 16 tiến sĩ, 2 thạc sĩ, 1 thượng tướng, còn lại đều có
bằng cử nhân. Phần lớn các tác giả là những người nổi tiếng tại Việt Nam như chủ
biên cuốn sách là tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, đang là Tổng Giám Đốc công ty sách
Thái Hà; Đặng Lê Trung Vũ là chủ Cà Phê Trung Nguyên; Dương Trung Quốc là sử
gia, cũng từng là Đại Biểu Quốc Hội; Nguyễn Hữu Thái Hòa là Giám Đốc Chiến Lược
của Tập Đoàn FPT; Hùng Cửu Long và Phạm Phú Ngọc Trai là hai đại gia nổi tiếng
hiện nay v.v…
Theo
tiểu sử đăng trong phần đầu của cuốn sách (tr. 3-18), phần lớn các tác giả làm
việc cho các cơ quan nhà nước và một số là doanh nhân. Nói chung tất cả đều thuộc
thành phần ưu tú nhất của đất nước VN hiện nay. Riêng ông chủ biên Nguyễn Mạnh
Hùng đang là thần tượng của giới trẻ VN hiện nay, được ngưỡng mộ đến mức có cả
“Hội những người là học trò của Thầy Nguyễn Mạnh Hùng” (1).
Trong
số 35 bài viết, theo tôi, chỉ có 2 bài hay là “Niềm tin vào con người Việt” của
Alan Phan, và “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” của Lương Hoài Nam.
Bài
“Niềm tin vào con người Việt” ông Alan Phan đã viết từ năm 2011, cho nên không
phải là bài ông viết riêng cho cuốn TTHLNVN. Tương tự bài “Nước Việt Nam ta nhỏ
hay không nhỏ?” của ông Lương Hoài Nam đã viết từ năm 2013 cho diễn đàn “Nước
Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ”, cho nên những chi tiết trong bài viết này không
nói về niềm tự hào dân tộc mà ở một phía cạnh khác, trong đó ông trình bày rất
thẳng thắn về hiện tình của đất nước hôm nay, ngay cả đề nghị “cần phải có cơ
chế thật sự dân chủ và tự do” (tr.62). Tôi đã từng đọc qua một số bài viết khác
của ông và luôn dành cho ông một sự kính trọng.
Riêng
ông Alan Phan (đại diện cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài), tôi thật ngạc
nhiên về sự có mặt của ông trong cuốn sách này. Bài của ông “Niềm tin vào con
người Việt”, viết về sự thành công của một người Việt ở Mỹ. Đây không phải là
bài hay trong số các bài viết của ông.
Ngoại
trừ bài này, những bài viết khác của ông Alan Phan đều “móc” chính quyền CS,
đôi khi có những lời lẽ rất thâm, rất nặng. Càng về sau ông càng nói mạnh hơn.
Trong bài “Những So Sánh Bất Tiện…” vào tháng 11/2014, ông kết luận bài viết bằng
câu: “Cả 90 triệu người đang bị lưu đày trên quê hương của họ.”, điều đó cho thấy
ông khó có thể “tự hào là người Việt Nam” trong hoàn cảnh đất nước hiện nay.
Những
nhận xét tổng quát của tôi dưới đây không bao gồm bài của ông Alan Phan và
Lương Hoài Nam.
Nhận xét tổng quát về tác phẩm:
Về
hình thức
- nhìn chung, sách trình bày không được đẹp lắm, giấy xấu, không hợp lý khi để
tên tác giả cuối bài viết.
Về
nội dung
nói chung:
-
Kiến thức kém so với bằng cấp của các tác giả
-
Quá coi thường độc giả
-
Nhiều “niềm tự hào dân tộc” nêu ra mơ hồ, viễn vông
-
Đặt nặng tính chất chính trị
-
Hoàn toàn né đụng chạm đến chính quyền
-
Nhiều nghịch lý trong cách lý luận
-
Nhiều chi tiết mâu thuẫn nhau, có khi chỉ câu trước câu sau
-
Nhiều dữ kiện trình bày không có bằng chứng
-
Vẫn còn phân biệt giữa “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”
-
Không cho biết nguồn của các các chi tiết quan trọng để độc giả có thể kiểm chứng
Điểm
đáng nói đầu tiên là nhiều tác giả coi thường độc giả quá. Có những kiến thức rất
căn bản lại sai, chẳng hạn như: A.Pazzi là tác giả của “Người Việt cao quý”
(tr.260), ông Đỗ Đức Cương là người đã phát minh ra máy ATM (tr.44), Trần Hưng
Đạo, Võ Nguyên Giáp nằm trong danh sách 10 tướng lãnh xuất sắc nhất trong lịch
sử nhân loại (tr.40), “Mục sư King đã bị bắn chết trong lúc diễn thuyết kiêu gọi
hòa bình và chấm dứt chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam” (tr.70). v.v…
Đây
là những kiến thức mà một người bình thường đều biết, nếu không thì chỉ cần bỏ
ra vài phút là có ngay câu trả lời trên Google.
Cách
chọn lựa bài của chủ biên làm cho cuốn sách mất giá trị, nhiều bài phẩm chất
quá kém, có những bài lý luận không hợp lý chút nào, có những bài người đọc có
cảm tưởng như tác giả đang trong cơn lên đồng, chẳng hạn như bài “Đặt vấn đề
cho sống còn phát triển Việt Nam” của tác giả Hùng Hữu Long (tr.387-393), có những
bài viết cho người đọc có cảm tưởng như tác giả đang sống ở một hành tinh nào
khác chớ không phải ở Việt Nam, có những bài quá lỗi thời trong thế giới văn
minh ngày nay như bài phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bài ca ngợi tinh thần
hỗ trợ doanh nhân của Hồ Chí Minh. Bài “Thành Hoàng làng Hạ” của tiến sĩ Nguyễn
Kim Hồng, đại diện cho giáo dục nhưng nội dung lại phản tinh thần giáo dục
v.v...
Mặc
dầu trong “Lời nói đầu” (tr.29-35) của chủ biên nói rằng cuốn sách này là niềm
tự hào chung của tất cả người VN bao gồm mọi giới, cả người trong nước lẫn người
ngoài nước nhưng nội dung cuốn sách vẫn còn nặng chính trị như bài “Một bài phỏng
vấn Đại Tướng Võ Nguyên Giáp” (tr.127-133) về việc xây dựng đường mòn Hồ Chí
Minh, và bàng bạc trong cuốn sách vẫn nhắc đến niềm tự hào “đánh Mỹ cứu nước”.
Thậm chí ông chủ biên Nguyễn Mạnh Hùng dự định sẽ ra mắt cuốn “Doanh nhân tự
hào là người Việt Nam” vào “nhân dịp ngày 30/4/2015 – 40 năm ngày thống nhất đất
nước” (tr.33), như nhắc lại vết thương của hằng triệu người Miền Nam và đại đa
số người Việt ở hải ngoại. Vậy làm sao có thể kêu gọi họ tự hào về đất nước
mình.
Một
đặc điểm khác của cuốn sách này là né tránh những “vấn đề nhạy cảm”. Mặc dầu có
những bài nêu ra những yếu kém của VN so với thế giới, những xuống cấp của xã hội
ngày nay, những cảnh người Việt bị kỳ thị ở Nga, bị coi thường ở Nhật… nhưng
tuyệt đối không ai nêu ra trách nhiệm của chính quyền.
Nói
chung nếu xét theo tiêu chuẩn quốc tế của một cuốn sách xuất bản rộng rãi cho
quần chúng, thì cuốn sách này không đáp ứng được những đòi hỏi căn bản.
Đòi
hỏi tối thiểu của một sách là tất cả các nguồn (source, reference) phải ghi xuống,
và những chi tiết quan trọng phải cho người đọc biết trích dẫn từ đâu để nếu cần
họ có thể kiểm chứng. Cuốn sách này hoàn toàn thiếu điều đó. Đây là trách nhiệm
của chủ biên.
Điều
làm tôi ngạc nhiên nhất sau khi đọc qua cuốn sách này là khả năng và tư cách đạo
đức nghề nghiệp của ông Tiến sĩ Chủ biên Nguyễn Mạnh Hùng thể hiện qua cách chọn
bài và 3 bài viết của ông. Ông coi thường người đọc quá. Ông ca ngợi người Việt
giống như ông đang sống tại nơi tại nào đó trên thế giới này, chớ không phải
trên mảnh đất Việt Nam, chẳng hạn như bài “Người Việt và lý thuyết cây tre”
(tr.343-349) nêu ra 20 đức tính tốt của người Việt Nam. Bài “Tôi tự hào là người
Việt Nam” (tr.37-45), nêu ra khoảng 40 điều mà người VN nên tự hào về đất nước
mình. Trên thế giới này khó có dân tộc nào có đến 20 đặc tính tốt như ông nêu
ra và hiếm có quốc gia nào có nhiều thứ để tự hào như ông nói. Thật sự, trong
những tự hào ông nêu ra đó có nhiều tự hào không đúng sự thật, có những tự hào
chỉ gây thêm chia rẽ giữa người Việt, có những tự hào đúng ra phải lấy làm xấu
hổ.
Cả
3 bài viết của ông Nguyễn Mạnh Hùng không thể hiện tính chất chuyên nghiệp, có
những chi tiết sai rất căn bản, nhiều nghịch lý trong cách lý luận, nhiều chi
tiết không đáng tín và không ghi nguồn trích từ đâu để người đọc có thể kiểm chứng.
Điều mỉa mai nhất là nếu người VN tốt đến mức như ông nói, thì cả thế giới đã
biết rồi, họ đã kính nể và ngưỡng mộ người VN có thể hơn cả người Nhật, thì cần
gì phải phát động thành một phong trào như ông đang làm và sẽ làm, để hy vọng
“Tôi muốn sẽ đến một ngày, Hai tiếng Việt Nam được thế giới nghiêng mình ngưỡng
mộ” (tr.384).
Nếu
quan niệm đây là cách tự hào riêng của người VN, cuốn sách này được viết ra để
người Việt “tự sướng” với nhau, thì không có gì để nói. Nhưng nếu quan niệm như
một số tác giả trong cuốn sách hay như ông Lê Doãn Hợp, Nguyên Bộ trưởng Bộ
Thông tin và Truyền Thông, phát biểu trong buổi tọa đàm “Tôi tự hào là người Việt
Nam” ngày 27.8.2014 tại Hà Nội: “Chủ đề này cần trở thành một cú hích, tác động
vào mỗi cá nhân, để thế giới ngưỡng mộ chúng ta hơn”, (2) thì đối với một người
Việt còn tự trọng phải xét lại - đây là cuốn sách để tự hào hay để xấu hổ!
Ông
tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng đang là chủ tịch của Công Ty Cổ Phần Sách Thái Hà, dĩ
nhiên với địa vị này, ông bắt buộc phải có liên hệ với chính quyền, không ai có
thể đòi hỏi ông không làm theo những đòi hỏi của họ, nhưng ít ra ông cũng phải
thể hiện một chút sĩ khí của người trí thức trước hiện tình đất nước.
I. Khái niệm về
niềm tự hào dân tộc.
Cái
khó nhất đối với một người phê bình cuốn sách này là có quá nhiều bài viết và
khó hơn nữa là hầu hết những bài viết đều có nhiều chi tiết sai và nhiều điều dễ
gây tranh cãi. Cho nên trong phạm vi bài viết này tôi chỉ tập trung vào vài bài
chánh.
Bất
cứ dân tộc nào cũng có những cái để tự hào. Không nhất thiết phải tự hào về những
thành tựu vĩ đại mà tự hào vì đó là nơi mình đã sinh và lớn lên với những nét đặc
thù được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Cũng
giống mọi sắc dân khác, người Việt nào cũng muốn tự hào về quê cha đất tổ. Ai
cũng mong muốn đất nước mình giàu đẹp, văn minh có thể sánh vai cùng thế giới
và không cảm thấy tủi hổ nhắc đến hai chữ “Việt Nam”.
Tự
hào về quê hương là tình cảm tự nhiên. Tự hào giúp cho chúng ta có thêm niềm
tin khi đất nước phải đương đầu với những thử thách, khi đứng trước những khúc
quanh của lịch sử và những giai đoạn chuyển mình của đất nước. Tự hào cũng là
chất keo nối kết dân tộc lại trước hiểm họa xâm lăng của ngoại bang, và càng cần
thiết hơn nữa khi đất nước phải xây dựng lại từ đống tro tàn.
Thế
nhưng phải tự hào trong sự tự trọng. Tự hào đúng với những với những gì mà mình
xứng đáng. Những gì tự hào phải là những điều có thật, chớ không là những điều
hoang tưởng viễn vông. Phải tự hào trong ý thức và sự tỉnh táo để không bị lợi
dụng.
Trong
thế giới toàn cầu hóa hiện nay, tự hào về dân tộc mình để có thêm tự tin hòa nhập
vào cộng đồng thế giới chớ không phải để chứng tỏ dân tộc mình hơn dân tộc
khác, trong thế giới ngày nay sẽ không có chỗ cho tinh thần dân tộc mù quáng, tự
cao về dân tộc mình và đòi hỏi những dân tộc khác phải “nghiêng mình ngưỡng mộ”.
Trước khi tự hào về dân tộc mình phải hành xử như những con người văn minh, có
tư cách của công dân toàn cầu, góp phần giúp thế giới này được nhân bản và tử tế
hơn.
Đáng
tiếc là trong 60 năm qua, người VN là nạn nhân nhiều lần của chiêu bài “tự hào
dân tộc” bởi những kẻ đầu cơ chính trị núp dưới danh nghĩa “làm cách mạng”, khiến
cho dân tộc VN ngày nay không còn là một dân tộc đáng tự hào mà như một thân
xác mang trên người đầy thương tích, lại thêm chứng bệnh hoang tưởng trầm trọng.
Khi
nói về niềm tự hào dân tộc, người viết xin nêu 2 quan điểm dưới đây:
1/ Nhiều người cho rằng
đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ cai trị đất nước có 60 năm, là một giai đoạn rất ngắn
trong quá trình lịch sử kéo dài 4000 năm. Chính vì vậy niềm hào dân tộc phải được
nhìn với chiều dài của lịch sử chớ không nên nhìn ở một giai đoạn nhất thời.
Chỉ
có hiện tại mới quan trọng, mới là những gì chúng ta hãnh diện hay xấu hổ. Quá
khứ dù có vẻ vang đến đâu thì cũng vẫn là dấu tích của một thời. Người ta sống
với hiện tại chớ không ai sống với khá khứ. Quá khứ chỉ để nhận dạng mình làm
hành trang cho cuộc hành trình về tương lai.
Mấy
ngàn năm văn hiến có ý nghĩa gì nếu như hiện tại không bằng những quốc gia mới
hình thành có mấy mươi năm. Người Singapore không tự hào về khá khứ nhưng họ có
hàng trăm lý do để tự hào về những thành tựu hôm nay. Một người ngoại quốc đánh
giá một quốc gia không phải bằng những trang sử vẻ vang, một nền văn minh rực rỡ
trong quá khứ của xứ sở đó mà bằng những gì họ nhìn được thấy trong hiện tại.
Quá
khứ là những bài học quý giá, nhưng có khi cũng những là chướng ngại.
Nền
văn minh lực rỡ của Ai Cập, Hy Lạp, Peru, Mông Cổ… chỉ giúp cho những quốc gia
này có thêm một số du khách đến xem những di tích còn sót lại, nhưng cũng chính
những di sản quá khứ rực rỡ đã tạo cho họ đặc tính tâm lý tự mãn và làm cho đất
nước của họ khó phát triển.
Nếu
như chúng ta tự hào về 4000 năm văn hiến thì có lẽ chúng ta cần phải suy nghĩ về
câu hỏi dưới đây:
60
năm là một khoảng thời gian rất ngắn so với chiều dài lịch sử 4000 năm. Nếu thật
sự chúng ta có 4000 văn hiến, thì đáng lý ra phải có một nền văn hóa vững chắc,
thế thì tại sao chỉ trong vòng có 60 năm văn hóa lại có thể xuống cấp một cách
thảm hại như hiện nay. Có thể nói trong lịch sử thế giới chưa bao giờ chứng kiến
có một dân tộc nào bị phá sản về đạo đức và văn hóa nhanh như dân tộc VN hiện
nay.
2/ Nhiều người vẫn cho
rằng chúng ta phải có niềm tự hào dân tộc cho dù chế độ CS đang cai trị đất nước.
Chế độ chỉ là nhất thời còn dân tộc thì trường tồn mãi mãi, hơn nữa chế độ CSVN
hiện nay không thể coi là những người đại diện cho đất nước.
Dù
viện dẫn với bất cứ lý do gì thì chúng ta không thể phủ nhận trước cộng đồng thế
giới - chính quyền hiện tại là những người đại diện chính thức của đất nước VN.
Mặc dù biết rằng thành phần lãnh đạo hiện nay không phải được đa số toàn dân chấp
nhận qua các cuộc bầu cử chính thức, nhưng khi VN không có những nhân vật đối lập
được sự ủng hộ rộng rãi của toàn dân, được thế giới biết đến giống như Nelson
Mandala hay bà Aung San Suu Kyi trước đây thì họ chỉ biết người đại diện của đất
nước VN qua chính quyền hiện hữu.
Tội
ác của CS đối với dân tộc trong 60 năm như thế nào, mọi người đều biết không cần
phải nêu ra đây. Trong những tội ác đó, chúng ta là nạn nhân nhưng đồng thời
cũng là thủ phạm. Đừng quên rằng tập đoàn đảng Cộng Sản hiện nay không thể nắm
được chính quyền ở miền Bắc và chiếm được Miền Nam nếu không có sự tiếp tay, ủng
hộ của người VN. Đừng đổ thừa ngoại bang càng thêm xấu hổ, chính chúng ta định
đoạt số phận của chúng ta chớ không ai khác. Và nếu chúng ta không hèn thì đảng
CS không thể duy trì được quyền lực cho đến ngày hôm nay. Cho nên trước khi kết
án đảng CSVN “hèn với giặc ác với dân” thiết nghĩ cũng nên nhớ câu nói của nhà
văn người Pháp Joseph de Maistre “Dân tộc nào thì chế độ đó” (Every country has
the government it deserves). Chúng ta là thủ phạm đã góp phần làm hủy hoại đất
nước và tự đưa chúng ta vào vòng nô lệ. Bây giờ phải biết sám hối thì mai ra đất
nước mới có cơ hội hồi sinh.
Trong
những thủ phạm đó dĩ nhiên có cả người viết - một người tị nạn CS. Bỏ nước ra
đi từ căn bản đã là một sự đầu hàng. Ra đi để tìm một lối thoát cho cá nhân vì
không có đủ cam đảm ở lại tranh đấu đòi quyền sống cho mình, chớ đừng nói tới
dân tộc lớn lao.
Chính
vì thế mà những gì người Cộng Sản làm nhục quốc thể trong 60 năm qua, cả trong
nước lẫn ngoài nước, thì đó cũng là cái nhục chung dân tộc VN vì mỗi cá nhân
chúng ta, dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã góp phần dựng lên họ
thì nay phải có cam đảm nhận trách nhiệm đó.
***
Đọc
qua cuốn “Tôi tự hào là người Việt Nam” người viết cố gắng tìm một từ ngữ chính
xác nhất để diễn tả cuốn sách này nhưng nghĩ hoài không ra, đành mượn câu thơ của
cụ Tản Đà để nói hộ: “Dân 25 triệu, ai người lớn, nước 4000 năm vẫn trẻ
con”.
Câu
thơ này được làm vào đầu thập niên 1930 mà như viết cho thời đại hôm nay.
Không
biết tâm lý thích được khen và thích sử dụng những trò khôn vặt của người Việt
phát xuất từ lúc nào, có lẽ từ thời xa xưa.
Dưới
thời phong kiến, vì mang mặc cảm nhược tiểu, bị Tàu áp bức, mọi thứ đều bắt chước
theo Tàu nhưng cũng không học và làm được đến nơi đến chốn, cho nên ta mới tưởng
tượng ra nhân vật “lỗi lạc” Trạng Quỳnh để thỏa mãn lòng tự ái. Tài ứng khẩu và
những tiểu xảo của Trạng ta đã làm cho quan sứ Tàu bái phục. Người Việt Nam lấy
đó làm thích thú và xem như một niềm tự hào dân tộc.
Tâm
lý vừa tự ti vừa tự tôn trở thành đặc thù văn hóa của người VN.
Điều
bất hạnh cho dân tộc chúng ta là có những người đã hiểu rõ được tâm lý này và tận
tình khai thác nó trong 60 năm qua. Bất hạnh hơn nữa là thay vì người VN phải học
hỏi từ những kinh nghiệm đau thương để thay đổi số phận, họ vẫn tiếp tục tự
nguyện làm nạn nhân cho những kẻ có mưu đồ chính trị.
Căn
bệnh trầm kha của dân tộc VN hôm nay là căn bệnh tinh thần, căn bệnh ảo tưởng,
căn bệnh của đứa trẻ mãi mãi không chịu trưởng thành làm người lớn.
Thân
phận của người Việt Nam trong 60 năm qua là thân phận “Con ngựa già của Chúa Trịnh”
của Phùng Cung. Sau bao năm chạy theo ảo tưởng cuối cùng trở thành một con ngựa
già kiệt sức. Dù cả đời bị lường gạt, nhưng trước khi chết vẫn không thoát ra
được ảo tưởng: “Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngốc đầu lên cao,
co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như để cố giữ lấy cái thế
“cao đầu phong vĩ”. (3).
***
Nếu
như Lỗ Tấn được xem là người hiểu dân tộc Trung Hoa hơn ai hết, thì có thể nói
người hiểu tâm lý người VN rõ nhất là Hồ Chí Minh. Sự khác biệt giữa Lỗ Tấn và
Hồ Chí Minh là Lỗ Tấn mang hoài bão dùng kiến thức và ngòi bút của mình để mong
chữa được căn bệnh tinh thần của người Trung Hoa, còn Hồ Chí Minh thì khai thác
“căn bệnh tự hào” của người Việt để đạt mục đích chính trị và đưa dân tộc VN
vào vòng nô lệ.
Mặc
dầu cuốn “Tôi tự hào là người Việt Nam” là sản phẩm của một số trí thức, nhưng
nó phản ảnh khá chính xác tâm lý của người Việt hôm nay. Lòng tự hào của người
Việt Nam là căn bệnh thành tích quá phổ biến trong xã hội hiện nay, nó được
dùng như một vật trang sức để che giấu những sự thật phũ phàng, là liều thuốc
an thần đối với đại đa số giới nghèo khổ để quên những cơ cực, tủi nhục trong đời
sống và chờ đợi một phép lạ xảy ra để thay đổi số phận.
***
Trái
với mục đích của cuốn “Tôi tự hào là người Việt Nam”, cuốn phim “Chuyện Tử Tế”,
nhà đạo diễn Trần Văn Thủy đã làm cách đây đúng 30 năm, trong đó ông cảnh báo mọi
người về cái nguy hiểm của “căn bệnh tự hào”: “Trong suốt nhiều năm các học sinh Miền Bắc được dạy rằng: “Các em là
những đứa trẻ hạnh phúc vì các em là con Hồng cháu Lạc, giang sơn gấm vóc,
thiên nhiên ưu đãi, tài nguyên giàu có, tiền rừng bạc biển.” Cũng ở một lớp học
như vậy ở nước Nhật thì người ta dạy con em của người ta rằng “Các bạn là những
đứa trẻ bất hạnh. Bất hạnh vì bởi các sinh ra ở một đất nước hoàn toàn không có
tài nguyên, không hề được thiên nhiên ưu đãi. Một đất nước đã từng thua cuộc
trong chiến tranh. Gương mặt của đất nước này, tương lai của các bạn là trong
tay các bạn”. Giá như một lần chúng ta dạy con em rằng: “Các em ạ, cái nhục của
sự nghèo khổ cũng chẳng kém gì cái nhục của sự mất nước”. Đừng nghe những lời
tâng bốc hão huyền vì bi kịch và hài kịch thường xảy ra ở bất cứ đâu khi giữa
cuộc đời và thuyết giáo là một khoảng cách quá xa.” (4)
Ông
Trần Văn Thủy nói 30 năm trước mà cứ tưởng như đang nói cho thời nay. Ông nói
đúng quá, nhưng mấy ai lắng nghe. 30 năm trước VN nghèo. 30 sau năm VN vẫn
nghèo. Vì không xem nghèo là nhục, cho nên mấy ai cố gắng để đổi đời. Ông
khuyên “Đừng nghe những lời tâng bốc hão huyền” cũng chẳng thấy có tác dụng, bằng
chứng là sẽ nhiều cuốn sách “tâng bốc hão huyền” sẽ ra đời để đáp ứng nhu cầu của
quần chúng.
Cái
đau đớn nhất của dân tộc chúng ta là dù có quyết tâm, yêu thương đất nước đến
đâu thì những con người như Phan Chu Trinh vẫn thất bại, trong lúc đó những con
người như Hồ Chí Minh lại thành công – tất cả chỉ vì một lý do giản dị: đối với
người Việt Nam những lời tâng bốc dù giả dối đến đâu vẫn có sức hấp dẫn hơn những
lời chân thật. Chính quyền CS duy trì được quyền lực cho đến hôm nay là vì học
được từ Hồ Chí Minh bí quyết giản dị này.
***
Nếu
như lòng tự hào dân tộc được sử dụng một cách bừa bãi tại VN, thì thế giới Tây
Phương rất thận trọng khi nói về điều này.
Thế
giới hiện nay đang phải đương đầu với 3 hiểm họa: Nga, Tàu và các tổ chức Hồi
Giáo cực đoan. Hai nước Nga Tàu đang có tham vọng phục hưng thời oanh liệt
trong quá khứ bằng cách khơi dậy lòng tự hào dân tộc.
Rút
kinh nghiệm từ những nguyên nhân đưa đến cuộc Đệ Nhị Thế Chiến, các nước văn
minh Tây Phương rất dè dặt khi nói đến niềm tự hào dân tộc, hơn ai hết họ hiểu
rằng từ niềm tự hào dân tộc đến tinh thần quốc gia cực đoan chỉ là một khoảng
cách rất ngắn. Chế độ Phát xít Đức, Ý, Nhật lên nắm quyền vào đầu thập niên 30
của thế kỷ trước và sau đó người dân sẵn sàng xông pha vào lửa đạn vì bị kích
thích bởi lòng tự hào dân tộc. Phát xít Ý tự hào là con cháu của những người đã
dựng lên nền văn minh rực rỡ đã thống trị thế giới trong 500 năm, Hitler cho rằng
người Đức thuộc chủng tộc thượng đẳng Aryan và người Nhật tự hào là con cháu của
Thần Dương Thái Nữ. Cả hai dân tộc Đức và Nhật đều tự cho mình được sinh ra để
mang sứ mạng khai hóa nhân loại. Chủ nghĩa Cộng Sản lúc đầu chủ trương đạt đến
thế giới đại đồng qua các phong trào Quốc Tế Cộng Sản, nhưng sau những kết quả
không mấy khả quan, Stalin đã nhận ra rằng đối với các nước nhược tiểu lạc hậu,
chủ nghĩa Cộng Sản phải được che đậy bằng chủ nghĩa dân tộc. Kết quả chứng minh
là quyết định của ông đúng.
Không
phải tình cờ mà ba nước Nga, Trung Hoa và Việt Nam theo Cộng Sản. Ba dân tộc
này có nhiều đặc tính giống nhau: vừa tự ti vừa tự tôn và mang não trạng của một
dân tộc lạc hậu.
Sau
khi đánh bại Đế Quốc Thụy Điển vào năm 1721, nước Nga đã trở thành cường quốc lớn
nhất Âu Châu, biên giới trải dài từ Âu sang Á và tiết tục được mở rộng sau đó,
thế nhưng trong suốt nhiều thế kỷ người Nga luôn luôn bị các dân tộc khác ở Âu
Châu xem là một dân tộc lạc hậu. Khi trở thành Đế Quốc lớn nhất thế giới lại bị
bại trận trước một nước Nhật nhỏ bé – lần đầu tiên một nước Âu Châu bị đánh bại
bởi một nước Á Châu. Đối với người Nga đây là cái nhục không thể quên.
Thời
huy hoàng được lập lại khi Liên Bang Sô Viết đạt đến tột đỉnh về sức mạnh vào
thập 60, 70 tưởng chừng như không lâu nữa sẽ thống trị cả thế giới, thế nhưng đế
quốc này một lần nữa bị tan rã trong một thời gian rất ngắn.
Ngày
nay nước Nga tuy lớn về diện tích nhưng là một một nước nghèo về kinh tế.
Chính
những yếu tố thăng trầm của lịch sử đã góp phần tạo nên một tâm lý người Nga vừa
tự tôn vừa tự ti và luôn luôn mang một mối thù hận đối với thế giới bên ngoài.
Nhà
văn người Nga Natalja Kljutcharjova, có nhận xét khá chính xác về tâm lý người
Nga ngày nay trong bài viết “Bệnh tự hào dân tộc của người Nga” (5), đọc qua sẽ
thấy nó khá giống với người VN. Trong đó có một đoạn bà viết:
“Họ
giống các nhân vật của Dostoevsky, ông gọi họ là “những kẻ ở xó hầm”. Đó là những
con người sống rất lâu, thường là suốt đời, trong trạng thái bị hạ nhục, khiến
tâm lí họ hoàn toàn bị méo mó. Cả cuộc đời họ, toàn bộ những ước mơ và nguyện vọng
của họ chỉ rút gọn vào một mục tiêu: trả thù, rửa nhục. Nỗi khao khát trả thù bệnh
hoạn ấy phần lớn không nhằm cụ thể vào những kẻ nào đó đã làm nhục họ, mà chĩa
vào toàn thế giới. Dostoevsky đã miêu tả nhiều giai đoạn phát triển của căn bệnh
mà giới tâm lí học hiện đại chắc sẽ gọi là một “chấn thương bỏ ngỏ” này. Nó đặc
biệt ăn sâu ở những người không bao giờ ra khỏi trạng thái bị hạ nhục.
Ở
Nga ngày nay cũng hệt như ở thời Dostoevsky, cả cuộc đời người ta thường là sự
hạ nhục: từ khi sinh ra trong một bệnh viện bình dân (một chi nhánh thực thụ của
địa ngục) đến lúc say xỉn ở góc đường mà chết. Những con người sống một cuộc đời
như thế thường hình thành một lòng tự hào bệnh hoạn. Để phục hồi sự cân bằng nội
tâm vốn liên tục bị những hoàn cảnh ê chề bên ngoài tàn phá, muốn sống còn thì
họ buộc phải có một điều gì đó để tự hào.
Cơ
sở để tự hào có thể hoàn toàn ngớ ngẩn và viễn vông, nhiều khi đơn giản là bịa
đặt và hầu như bao giờ cũng phi lí, khiến người có tư duy bình thường, lành mạnh
phải bật cười hoặc nhún vai cho qua. Nhưng những kẻ bị hạ nhục kinh niên thì
bám chặt lấy những ảo ảnh ấy, đầy đức tin, cuồng tín, nhiệt thành và trong thâm
tâm càng bất mãn thì càng hăng say phụng sự chúng”.
Tổng
thống Putin là người hiểu rõ tâm lý người Nga, cho nên nếu theo dõi thông tin
chúng ta sẽ thấy ông không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để khai khác yếu tố tự hào dân
tộc những lúc cần thiết.
Trong
bài diễn văn đọc tại Quốc Hội Nga ngày 18/3/2014, ông Putin biện minh cho hành
động xâm chiếm Crimea bằng cách đã khơi dậy lòng tự hào của dân tộc Nga: “Tất cả những gì tại Crimea đều là niềm tự
hào và là lịch sử chung của chúng ta. Ở nơi này có dấu tích của Khersones cổ đại,
ở đây Quận Vương Vladimir đã được làm lễ rửa tội. Tinh thần Chính Thống Giáo của
Người đã xây dựng ra các nền tảng cho văn hóa cũng như những giá trị nhân bản,
văn minh để liên kết nhân dân Nga, Ukraine và Belarus. Cũng tại Crimea này còn
có bia mộ của những người lính Nga mà vào năm 1783 lòng dũng cảm của họ đã đưa
Crimea vào với Đế quốc Nga. Crimea cũng có Sevastopol – một thành phố huyền thoại,
thành phố của lịch sử chói lọi, cũng là một pháo đài, và chính là quê hương để
sinh ra Hạm đội Hắc Hải của nước Nga. Crimea là Balaklava và Kerch, Malakhov
Kurgan và Sapun Ridge. Mỗi cái tên đó đều rất thiêng liêng trong lòng dân tộc,
là biểu tượng của lòng dũng cảm và vinh quang của quân đội Nga”. (6)
Chính
vì biết khai thác yếu tố “tự hào dân tộc” cho nên mặc dầu kinh tế nước Nga đang
xuống dốc thê thảm, quyền tự do con người bị giới hạn, thành phần đối lập bị bỏ
tù hay bị thủ tiêu, nhưng tổng thống Putin vẫn được đa số người dân ủng hộ.
Trong
lúc đó ở phương Đông, con sư tử Châu Á đang gầm thét: “Sự phục hưng vĩ đại của
dân tộc Trung Hoa là giấc mơ lớn nhất của Trung Quốc”. (7).
“Giấc
mơ Trung Quốc” dù theo quan điểm của Đại Tá Lưu Minh Phúc hay của Chủ Tịch Tập
Cập Bình đều bắt đầu bằng cách khơi dậy niềm tự hào của dân tộc Trung Quốc qua
tinh thần Đại Hán, một đất nước từng có nền văn minh rực rỡ và nền kinh tế mạnh
nhất thế giới vào đầu thế kỷ 14.
“Giấc
mơ Trung Quốc” theo quan điểm của Tập Cẩn Bình và Lưu Minh Phúc, không phải chỉ
giới hạn trong phạm vi kinh tế mà bao gồm cả sức mạnh quân sự.
Đại
tá-giáo sư Đại học Quốc phòng Lưu Minh Phúc, tác giả cuốn sách “Giấc mơ Trung
Quốc” đã nói rõ: Trung Quốc có 3 chiến lược để thực hiện trong thế kỷ 21, chiến
lược đầu tiên là “Trung Quốc phải thay Mỹ lãnh đạo thế giới” (8).
Tập
Cập Bình thì khéo léo hơn trong cương vị của ông khi nói đến “Giấc mơ Trung Quốc”:
“Cội
nguồn lịch sử của chúng ta vô cùng sâu sắc, những cơ sở thực tiễn vô cùng rộng
lớn. Nhân dân Trung Quốc có được truyền thống thông minh sáng tạo phi thường,
chính vì vậy, nhân dân đã xây dựng lên một nền văn hóa Trung Hoa vĩ đại. Chúng
ta cần tự tin vào bản thân và tràn đầy lòng dũng cảm tiến về phía trước theo
con đường đã chọn. Giấc mơ Trung Hoa - giấc mơ của nhân dân. Cần phát triển rộng
rãi tinh thần Trung hoa, cơ sở căn bản của tinh thần Trung Hoa là lòng yêu nước,
một khi đã đoàn kết lại thành một khối vững chắc, chúng ta sẽ thực hiện được giấc
mơ Trung Hoa”. (9)
So
với lịch sử của nước Nga thì lịch sử của Trung Quốc khắc nghiệt hơn nhiều. Nếu
như có lúc họ đạt đến tột đỉnh của vinh quang thì cũng có lúc họ bị đạp xuống tận
cùng của sự nhục nhã. Sau khi bị đánh bại trong cuộc Chiến Tranh Nha Phiến, Nhà
Thanh phải ký hiệp ước Nam Kinh (1842) với những điều kiện cay đắng, và sau đó
bị các liệt cường Tây Phương đua nhau xâu xé. Tiếp theo đó là bị nước Nhật nhỏ
bé hơn đánh bại dễ dàng, rồi phải chứng kiến cảnh cảnh thảm sát kinh hoàng tại
Nam Kinh vào năm 1937.
Tất
cả những nhục nhã đó và những tấm bảng treo ở bãi biển Thượng Hải sau cuộc chiến
tranh Nha Phiến “Nơi đây cấm chó và người Tàu”, đã làm cho tâm lý người Trung
Quốc phức tạp hơn nhiều dân tộc khác – họ vừa tự tôn về nền văn minh trong quá
khứ, vừa tự ti vì bị nước khác làm nhục. Họ vừa cần đến Tây Phương, Nhật Bản để
làm giàu nhưng đồng thời cũng mang một mối căm thù chờ ngày phục hận.
Muốn
làm được làm đó, trước hết họ phải khơi dậy “niềm tự hào dân tộc” giống như
Hitler đã làm gần một thế kỷ trước. Và nếu như Trung Quốc thực hiện được giấc
mơ “thay Mỹ lãnh đạo thế giới” thì thế giới này, đặc biệt là Việt Nam sẽ khốn
khổ vì con sư tử Phương Đông.
Phần 2
II. Những điều tự hào không đúng sự thật
Người
viết chỉ nêu một số điều tự hào không đúng trong cuốn “Tôi tự hào người Việt
Nam” (TTHLNVN) có thể kiểm chứng được. Ngoài ra có những tự hào - khó có thể
nói đúng sai như “Người Việt rất thông minh, yêu nước, anh hùng, cần cù, chịu
khó, sáng tạo, nhân ái, lạc quan…” đó là cái nhận xét riêng của từng người và
đúng hay sai tùy quan điểm của người đọc.
Tiến
sĩ Nguyễn Mạnh Hùng là chủ biên, đồng thời cũng là tác giả chánh trong cuốn
sách. Ông là người duy nhất có ba bài viết trong cuốn sách.
Ba
bài này có điểm chung là Việt Nam được mô tả như một thiên đàng trên hành tinh
này: đất nước được “thiên nhiên ưu đãi”, lịch sử oai hùng, con người thì “rất
linh hoạt, thông minh”, có rất nhiều đức tính tốt, “mỗi người Việt là một bông
hoa quý hiếm. Hoa người Việt hiếm nên rất quý”, và luôn lạc quan “vững tin vào
ngày mai”.
Việt
Nam đối với ông chỉ có tốt, không thấy ông nêu ra bất cứ một điểm nào không hay
về đất nước và con người VN.
Trong
phần tiểu sử tác giả cho biết ngoài bằng tiến sĩ, ông Nguyễn Mạnh Hùng còn là
giáo sư đại học và giữ nhiều chức vụ quan trọng, đã từng có 15 năm du học ở nước
ngoài và đã đặt chân đến 41 quốc gia.
Đặc
điểm khác trong các bài viết của ông chủ biên và một số tác giả, là đưa ra kết
luận mà không đưa ra bằng chứng cụ thể để cho thấy mức độ đáng tin.
Điều
quan trọng đối với một cuốn sách là tác giả phải chứng tỏ cho người đọc thấy
tính thuyết phục. Muốn như thế tác giả phải chứng tỏ khả năng lý luận. Nếu
không có bằng chứng cụ thể thì phải lý luận như thế nào cho hợp lý. Đáng tiếc
là cuốn sách này không thể hiện được tiêu chí đó.
Và
điểm cuối cùng là sự lương thiện của người viết. Dám trình bày quan điểm của
mình cho dù điều đó đi ngược lại quan điểm của nhiều người là nhân cách của người
trí thức, nhưng viết chỉ để phục vụ cho những mục đích mờ ám riêng tư hay mục
đích của nhà cầm quyền thì chỉ xứng đáng là tư cách của một người viết mướn.
Bài
“Tôi tự hào là người Việt Nam” (tr.37-45) của ông Nguyễn Mạnh Hùng, là bài đầu
tiên và cũng có thể xem là bài chánh yếu nhất của cuốn sách.
Bài
viết liệt kê ra hơn 40 thứ để người VN tự hào, từ trống đồng, đến Bà Trưng, Bà
Triệu, Nguyễn Huệ, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trải, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp,
nhà Lý, Nhà Trần, từ được thiên nhiên ưu đãi cho đến cho đến làn điệu dân ca, 8
di sản phi vật thể, áo dài, múa rối nước, Sử thi Tây Nguyên, văn hóa mừng thọ,
một đất nước với 8000 lễ hội lớn nhỏ, từ người Việt Nam rất thông minh, cho đến
những thiên tài góp mặt trên nhiều lãnh vực, từ người đã phát minh ra máy AMT
là Tiến sĩ Đỗ Đức Cường cho đến Thiền Sư Nhất Hạnh, thầy Huyền Diệu, và
khoảng vài chục thứ tự hào khác.
Bài
thứ hai “Tự hào về Việt Nam theo những cách riêng” (tr.153-163) viết về câu
chuyện ba người Việt “Chuyện anh Tân”, “Chuyện thầy Liễn” và “Chuyện trò Phi”.
Bài
thứ ba “Người Việt Nam và lý thuyết cây tre” (tr.343-349) nêu ra khoảng 20 đức
tính tốt của người Việt: “Người Việt giản dị, mềm mỏng, tiết kiệm, thông minh,
linh hoạt, khéo léo, luôn biết hiên ngang ngẩng cao đầu, vững tin vào ngày
mai...v.v..” Và đặc biệt là “Mỗi người Việt là một bông hoa quý hiếm. Hoa người
Việt hiếm nên rất quý”.
Dưới đây là những điều
tự hào mà người viết nghĩ là không đúng sự thật:
1/
“Tôi tự hào rằng, người phát minh ra máy ATM là một công dân Việt Nam.” (tr.44)
Điều
“tự hào” này có thể ông Nguyễn Mạnh Hùng dựa vào một số website trong nước – chẳng
hạn như trang web của tờ Lao Động, có bài “Những điều ít biết về người gốc Việt
phát minh ra máy ATM” (10) cho rằng tiến sĩ Đỗ Đức Cường là người đã phát minh
ra máy ATM trong lúc làm việc cho City Bank (Mỹ). Tuy nhiên không có trang web
nào trong nước đưa ra bằng chứng cụ thể, tất cả điều viết na ná giống nhau, một
cách mông lung mơ hồ.
Muốn
biết ai là người đã phát minh ra máy rút tiền ATM, chỉ cần vào “Wikipedia” phần
“History of ATM” (11) sẽ có đầy đủ chi tiết. Xin tóm tắt phần viết về người
phát minh: “Máy ATM đầu tiên được sử dụng bởi ngân hàng Barclays Banks tại
phố Enfield, phía bắc London, Anh Quốc vào ngày 27/6/1967, đây là máy rút tiền
đầu tiên trên thế giới và người đầu tiên sử dụng là diễn viên hề Reg Varney.
Người phát minh ra máy này là John Shepherd-Baron của công ty in ấn De La Rue,
ông được trao giải thưởng OBE [Order of the British Empire] - Danh Dự của năm
2005. Nguyên văn: The first of these [ATM] that was put into use was by
Barclays Bank in Enfield Town in north London, United Kingdom,[9] on 27 June
1967. This machine was the first in the world and was used by English comedy
actor Reg Varney. This instance of the invention is credited to John
Shepherd-Barron of printing firm De La Rue,[10] who was awarded an OBE in the
2005 New Year Honours.[11] )
Trong
trang web này hoàn toàn không có nhắc đến tiến sĩ Đỗ Đức Cường.
Trên
“Wikipedia” tiếng Việt (12), chỉ giới thiệu về Tiến sĩ Đỗ Đức Cường như sau:
“Tiến sĩ Đỗ Đức Cường là một chuyên viên cao cấp ngành Ngân hàng ở Hoa Kỳ, ông
còn được biết đến như một chuyên viên thông thạo trong nhiều lĩnh vực[1][2][3][4][5].
Ông cũng là Đại sứ thiện chí của Liên Hiệp Quốc[cần dẫn nguồn][6] (tổ chức
nào?) và là cố vấn cao cấp ngành Ngân hàng tại Việt Nam[7].”
Sau
đó cho biết ông sinh tại Đức Phổ, Quảng Ngãi năm 1945, du học tại Nhật năm
1963. Trong phần “Đánh giá” có câu: “Tiến sĩ Đỗ Đức Cường đã đóng góp 38 phát
minh của riêng ông. Trong đó có sáng kiến sửa đổi kiểu dáng bên ngoài hệ thống
ATM được cấp phép năm 1997 mang số hiệu D386883.[9]”_Báo Pháp Luật và Xã Hội[5].
Bên
cạnh đó, nếu để ý yếu tố thời gian chúng ta sẽ thấy ông Đỗ Đức Cường không thể
là người phát minh ra máy ATM được: theo báo chí trong nước đưa tin - ông Đỗ Đức
Cường bắt đầu làm việc cho City Bank năm 1977, như vậy thời điểm sớm nhất để
ông phát minh ra máy ATM là năm 1977. Vào thời điểm này các nước tân tiến Tây
Phương đã sử dụng máy ATM lâu rồi.
Có
lẽ đúng như báo Pháp Luận và Xã Hội, ông chỉ “có sáng kiến sửa đổi kiểu dáng
bên ngoài hệ thống ATM”.
Sửa
đổi kiểu dáng bên ngoài và phát minh là hai điều hoàn toàn khác nhau, ông tiến
sĩ ạ!
2/
“Tôi tự hào khi trong danh sách 10 vị tướng xuất sắc nhất lịch sử nhân loại thì
có đến hai người con đất Việt ta là Trần Hưng Đạo và Võ Nguyên Giáp. Liệu có một dân tộc
thứ hai nào trên thế giới này có thể sản sinh ra 20% những vị tướng kiệt xuất
nhất.” (tr.40)
Đây
là niềm tự hào lớn của người Việt trong nhiều năm qua và nay chủ biên Nguyễn Mạnh
Hùng nêu lại.
Cá
nhân người viết đã từng đã bỏ ra nhiều thời gian để kiểm chứng nguồn tin trên
các trang web tiếng Anh nhưng không tìm ra được bằng chứng.
Trong
bài “Khen quá lố, không nên!”(13) của tác giả Bùi Tín đăng trên VOA ngày
13/3/2010 đã xác nhận nguồn tin này như sau:
“…Ban
biên tập báo Quân đội Nhân dân đưa tin: “Năm 1992, Hội đồng Khoa học Hoàng gia
Anh vinh danh 10 nhân vật quân sự lỗi lạc nhất mọi thời đại, trong đó có 2 vị
tướng kiệt xuất của Việt Nam: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Đại tướng Võ
Nguyên Giáp”.
…
Năm
1994 và 1996 tôi sang London theo lời mời của nhà xuất bản HURST. Bà Judie
Stowe trưởng ban Việt ngữ hãng BBC đưa tôi đến thăm Viện nghiên cứu Viễn Đông
và Thư viện Hoàng gia. Tôi cố tìm xem có một tin nào về Hội đồng khoa học Hoàng
gia Anh “bàn và bầu ra 10 nhân vật quân sự lỗi lạc nhất mọi thời đại” hay
không, thì đều được trả lời là không! Vậy thì đó chỉ là chuyện tưởng tượng,
phao tin, bịa đặt, kẻ tung người hứng trên đất ta.
…
Tôi
đã hỏi nhà báo Đỗ Văn, nguyên quyền trưởng ban Việt ngữ của hãng BBC, London,
anh trả lời: “Tôi xác định không hề có việc vinh danh như vậy; đó là một tin
hoàn toàn vô căn cứ”
Thế
là mọi sự đều rõ. Tôi để công tra cứu trên mạng Google và mạng Wikipedia – bách
khoa toàn thư mở cho toàn thế giới – cũng không có chuyện bình chọn quốc tế
này.”.
Một
tài liệu khác mà người viết tìm được trên net có thể giúp làm sáng tỏ thêm vấn
đề này: “Bàn về 10 vị tướng vỹ đại nhất của mọi thời đại” trích từ
Lichsuvn.info/.(14)
Sau
sau tìm hiểu tất cả thông tin, từ phía VN lẫn Anh Quốc (các cơ quan thẩm quyền ở
Anh xác nhận với tác giả), bài viết kết luận như sau:
“Các
thông tin trên từ các cơ quan có liên quan và có thẩm quyền từ nước Anh có thể
góp phần giải đáp khá rõ ràng có hay không có việc tuyển chọn và trưng bày tượng
Mười danh tướng thế giới.
Tuy
nhiên các sách báo Việt Nam về việc này đều có nhắc đến từ điển bách khoa Anh
(Encyclopedia Britannica) 1985 (EB). Chúng ta hãy đến với bộ sách này: ở đây dựa
vào sự tra cứu khá công phu của Minh Hiền. Minh Hiền tham gia soạn thảo từ điển
Bách khoa Việt Nam, xuất bản lần thứ 14 năm 1973 rất đồ sộ, gồm tới 30 volumes,
nhưng đến năm 1983, hội đồng biên soạn EB điều chỉnh bổ sung để tái bản lần thứ
15 và lấy tên là The New Encyclopedia Britanica (TNEB). TNEB ra đời năm 1983 có
bổ sung thêm những vị tướng soái kiệt xuất thế giới mà các lần xuất bản trước
chưa có, trong đó có Trần Hưng Đạo và Võ Nguyên Giáp. Mục từ Trần Hưng Đạo có
38 giòng, 270 từ, đánh giá: “Hưng Đạo Vương một gương mặt hình như huyền thoại
của lịch sử Việt Nam, nhà chiến lược quân sự xuất sắc đã đánh thắng quân Mông Cổ
của Thành Cát Tư Hãn, và là người anh hùng dân tộc trong nền văn hoá của Việt
Nam ngày nay...”. Mục tướng Võ Nguyên Giáp có 70 giòng, 490 từ, đánh giá: “Tướng
Giáp nhà lãnh đạo chính trị, quân sự đã hoàn thiện chiến lược, chiến thuật của
chiến tranh du kích và chiến tranh quy ước, lãnh đạo Việt Minh đánh thắng Pháp,
chấm dứt nền thống trị thực dân ở Đông Nam Á, và sau đó đã đưa đến thắng lợi của
Miền Bắc Việt Nam đánh thắng Mỹ”... Phải chăng việc Hội đồng biên soạn EB thẩm
định lại bổ sung các từ mục về các danh tướng (Inilita** generals) trong đó có
Trần Hưng Đạo và Võ Nguyên Giáp để xuất bản thành TNEB năm 1983 có ít nhiều
liên quan đến “tin đồn” về “Mười danh tướng thế giới” và huyền thoại về hai
danh tướng Việt Nam được thế giới tôn vinh. Người ta chú ý mấy chỗ trùng hợp:
Tin nào cũng nêu Bách Khoa từ điển Anh, thời gian xuất hiện 1983 - 1984, tên tuổi
hai danh nhân Việt Nam và sự nhìn nhận của thế giới.”.
Người
viết đã kiểm chứng lại trên Encyclopedia Britanica sau 1983, và đúng như tác giả
trên đã viết.
Như
vậy mọi chuyện đã sáng tỏ, Encyclopedia Britannica chỉ bổ túc thêm một số vị tướng,
nhưng một số người trong nước đã tô vẽ thêm.
3/
“Người Việt Nam rất thông minh. Tôi đã học ở Nga, Úc, Mỹ, Pháp… hầu như ở
đâu nhóm người Việt chúng ta cũng được điểm cao nhất, được đánh giá rất cao.
Tôi chỉ nể phục các bạn cùng lớp người Do Thái, người Bắc Âu và người Đức. Hình
như họ thông minh hơn mình.” (tr.38).
Chủ
biên Nguyễn Mạnh Hùng có thể nói “Người Việt Nam rất thông minh”, đó là cái
nhìn của tác giả, nhưng một khi có sự so sánh dân tộc này thông minh hơn dân tộc
khác thì vấn đề trở nên khác, trong đó hàm chứa một một sự kỳ thị trí tuệ
(intellectual racism). Đó là quan điểm không thể chấp nhận trong thế giới văn
minh ngày nay.
Sau
khi đọc qua câu này tôi càng thêm nghi ngờ về sự tự hào thông minh của người Việt.
Những gì mà tác giả phán quyết chỉ là những nhận xét hời hợt, không có kiểm chứng.
Sự thông minh của một người đâu phải chỉ phản ảnh ở điểm ở trường, mà còn là sự
suy nghĩ chính chắn về một vấn đề trước khi kết luận.
Trong
thế giới hội nhập ngày nay, đòi hỏi con người đối xử với nhau trong tinh thần
hài hòa và bình đẳng. Dựa vào đâu để cho rằng dân tộc Việt Nam thông minh
hơn những dân tộc khác? Điều đó có thể tin được nếu VN là một quốc gia giàu,
người Việt có nhiều phát minh đóng góp cho nhân loại. Nhưng ngay cả một dân tộc
giàu và có nhiều đóng góp cho nền văn minh như người Mỹ cũng không cho mình
thông minh hơn những dân tộc khác.
Mặc
dầu lợi tức bình quân của người Mỹ da trắng hiện tại cao gần gấp đôi người Mỹ
đa đen (15), nhưng trong hằng trăm tài liệu nghiên cứu về sự thông minh của người
da đen và người da trắng (đăng trên web), không có một tài liệu chính thức nào
của chính phủ Hoa Kỳ hay của những học giả uyên bác, có tinh thần nhân bản dám
kết luận rằng người Mỹ da trắng thông minh hơn người Mỹ da đen, mục đích của những
nghiên cứu này chỉ để người Mỹ tìm cách rút ngắn lại khoảng cách về lợi tức và
cơ hội giữa hai sắc dân.
Sự
thông minh giữa dân tộc này với dân tộc khác hay sắc dân này với sắc dân khác
tùy thuộc vào những yếu tố như văn hóa, truyền thống, giáo dục, lịch sử, thói
quen, cách thức ăn uống, điều kiện/thành kiến xã hội v.v. Nếu người Mỹ da đen
có cùng những điều kiện như người Mỹ da trắng thì chưa chắc họ đã không thành đạt
bằng. Sự thành công của tổng thống Obama là một thí dụ cụ thể.
Trong
bài “Tự hào về lịch sử văn hóa Việt Nam” (tr.332-341), tác giả Hãn Nguyên Nguyễn
Nhã, sau khi phân tích triết lý “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn” đã viết như sau: “Đây là tư tưởng Việt Nam rất vĩ đại.
Hòa đồng bằng tình thương! Ý nghĩa chung một giàn rất sâu sắc. Đó là triết lý sống
thực tiễn sâu xa không gì bằng, không đâu bằng. Trái đất này là một giàn chung,
ngôi nhà chung… Chính vì vậy con người cần phải thương nhau cùng”.
Nếu
người VN thật sự có “tư tưởng rất vĩ đại”: thương yêu đồng loại như anh em một
nhà, vậy thì phải tôn trọng lẫn nhau, phải đặt tình nhân loại trên tình dân tộc,
cớ sao lại tự cho mình thông minh hơn những dân tộc khác.
Một
sự mâu thuẫn khó hiểu!!!
4/
Tự hào về “Ngôi nhà Việt Nam” trong Hội Chợ Expo Thượng Hải 2010
Trong
bài “Tự hào về Việt Nam theo những cách riêng” cũng của Chủ biên Nguyễn Mạnh
Hùng. Mục “Chuyện anh Tân”, tác giả viết: “… Ấy vậy mà Việt Nam yêu quý của
chúng ta lại trở thành một trong những “ngôi nhà” đứng đầu. Anh bạn Tân của tôi
kể những câu chuyện đầy tự hào và xúc động. Tôi ngồi nghe như nuốt lấy từng lời.
Anh khẳng định rằng người Việt Nam rất thông minh và có những lợi thế mà không
có nước nào có thể sánh bằng.
Những
con số biết nói: 8 triệu người tham quan “ngôi nhà” Việt Nam, trong khi “ngôi
nhà” Mỹ chỉ thu hút được 7 triệu lượt khách tham quan. Về tài chánh, Việt Nam
chúng ta chỉ có vỏn vẹn 3 triệu đô la, còn nước Mỹ đổ vào hơn 70 triệu”.
Người
Việt rất tự hào khi hơn Mỹ, nhưng thật sự có đúng như vậy không?
Tôi
bỏ nhiều thời gian tra khảo nhưng không tìm được bất cứ một thông tin nào nói về
số lượng người viếng thăm gian hàng Việt Nam cao hơn Mỹ. Ban tổ chức Expo cho
biết số lượng du khách ghé qua từng gian hàng nhưng chỉ ghi lại những gian hàng
có số lượng khách thăm viếng cao. Trong trang web đáng tin nhất là Wikipedia,
“Expo 2010 Pavillions” (17), trong phần viết về số lượng du khách đến thăm gian
hàng Mỹ, ghi như sau: “As of August 31, 2010, the pavilion reported that
attendance had surpassed 4.7 million and was averaging more than 41,000 people
per day.[102] On September 30, 2010, the pavilion welcomed its 6 millionth
visitor”. (Cho biết ngày 30/9/2010, số người đến thăm gian hàng Mỹ là 6 triệu).
Trong
lúc đó về Gian hàng Việt Nam, tất cả chỉ vỏn vẹn có mấy hàng (không cho biết số
lượng khách đến thăm gian hàng):
•
Within Zone A of the Expo Site.
•
Theme: 1000-Year History of Hanoi.
•
The facade of the 1,000-square-meter pavilion appears like a river and the
bamboo surrounding it reduced the heat from the sun. The design highlighted
Vietnamese culture. Visitors could learn about the country's profound history
and culture as well as its wisdom in eco-protection and urban development.
Muốn
biết Gian Hàng Việt Nam trong Hội Chợ Thượng Hải 2010 gây ấn tượng với du khách
ngoại quốc như thế nào, xin đọc bài phóng sự ngắn dưới đây của BBC tiếng Việt “Ấn
tượng người Việt, người Hoa ở Thượng Hải” (18) của ký giả Nguyễn Hùng tường thuật
từ Hội Chợ Expo Thượng Hải năm 2010.
Hai
du khách sau khi viếng nhiều gian hàng, đã đến thăm gian hàng Việt Nam và nhận
xét như sau:
Gian
hàng Việt Nam
“Cả
một ngày hơn 12 giờ ở triển lãm, chúng tôi chứng kiến cảnh người Trung Quốc xếp
hàng chờ xe buýt, chờ tới lượt vào các gian triển lãm, chờ tới lượt đứng vào vị
trí đẹp để chụp ảnh.
Tất
cả đều tỏ ra kiên nhẫn. Tôi nói đùa với Trương Vi ‘đây là bài học xếp hàng cho
người Trung Quốc’.
Thật
đáng tiếc ấn tượng tồi nhất của tôi về EXPO lại diễn ra ở gian hàng của Việt
Nam, một gian triển lãm khá sơ sài.
Khi
nghĩ tới khẩu hiệu của triển lãm ‘Better City, Better Life’, tức ‘Thành phố Tốt
hơn, Cuộc sống Tốt hơn’, gian của Việt Nam như được thiết kế cho một triển lãm
khác.
Nếu
1000 năm Thăng Long mà Việt Nam chỉ có vậy để đem khoe với bạn bè quốc tế thì
thật là khó hiểu.
Khi
tôi tiến lại hỏi chuyện một nhân viên tiếp tân người Việt, anh hỏi tôi: “Anh cần
gì?”.
Tôi
giới thiệu bản thân và nói muốn hỏi chuyện anh về ý đồ của triển lãm.
Anh
nói có một ‘chú’ phụ trách nhưng ‘chú’ đã về mất rồi và anh ‘không biết gì’ để
trả lời.
Tôi
không nói với anh nhưng nghĩ bụng ‘anh không biết gì thì sang đây làm gì’.
Việt
Nam cũng tranh thủ bán hàng thủ công mỹ nghệ và quầy bán hàng nằm ngay ở cửa ra
vào. Tôi đi mấy gian triển lãm, kể cả của nước chủ nhà Trung Quốc, chẳng thấy
nước nào bán hàng cả.
Đúng
là ‘năng nhặt chặt bị’, nhưng bán vài bức tranh, mấy cái lọ để tăm ở triển lãm
quốc tế có vẻ hơi quê.
Và
trong khi tôi bị đối xử như công dân hạng hai trong gian của Việt Nam, người
Trung Quốc chào đón tôi như VIP.
Một
cô hướng dẫn viên ăn mặc lịch sự đứng chờ ở cổng vào, ấn nút mở cửa thang máy
và sau khi chúng tôi vào hết lại ấn nút lên tầng trên.
Tôi
đi tới đâu cũng có nhân viên giơ tay chỉ hướng đi tiếp và sẵn sàng giải đáp các
câu hỏi.
Gian
hàng của Trung Quốc có lẽ phải có tới vài chục nhân viên chỉ để hướng dẫn khách
tham quan.
Trung
Quốc là nước lớn và nước chủ nhà nên họ hành xử như người lớn.
Nhưng
chẳng lẽ Việt Nam có thể chấp nhận cách hành xử trẻ con chỉ vì mình là nước nhỏ?”.
5/
Người Việt cao quý của A. Pazzi (tr.258-263)
Trong
bài viết “Người Việt cao quý” của tác giả Hà Minh Hồng, là tiến sĩ Sử Học và được
phong là Phó Giáo Sư, đại diện cho giới Sử học.
Mở
đầu tác giả viết: “Nhớ có lần gặp trong tiệm sách cũ một cuốn sách mỏng của tác
giả A.Pazzi, do Hồng Củc dịch, nhan đề Người Việt cao quý…”
Sau
đó tác giả diễn tả những điều đáng tự hào của người Việt qua nhận xét của tác
giả người Ý A.Pazzi.
Ngay
sau 30/4/1975 mọi người đều biết A. Pazzi không phải là tác giả của cuốn “Người
Việt cao quý”. 40 năm qua rồi, ông tiến sĩ sử, đại diện cho giới sử học, sao lại
không biết chi tiết này!!!.
Trong
bài viết đăng trên báo Nhân Dân “Nhà văn Vũ Hạnh: Người ẩn danh sôi nổi” (19)
đã viết:
“Không phải bây giờ,
mà thời đó, hầu như không ai biết, ông chính là tác giả ẩn sau những bút danh
Cô Phương Thảo, Nguyên Phủ, ký dưới các bài báo bút chiến, tiểu luận phê bình;
tung hoành trên các cuốn nhật báo, với truyện ngắn Bút máu, truyện dài Lửa rừng,
tiểu thuyết Cô gái xà niêng, công trình lý luận “Đọc lại Truyện Kiều”... đặc biệt
là tác phẩm “Người Việt cao quý” với bút danh A. Pazzi...
27
năm sau, NXB Mũi Cà Mau mới tái bản tác phẩm “Người Việt cao quí” với đúng tên
thật là nhà văn Vũ Hạnh”.
III. Có nên tự hào về “hồn thiêng sông
núi, anh linh dân tộc”?
Ông
Nguyễn Mạnh Hùng viết: “Người Việt rất may mắn, rất tuyệt vời. May mắn và tuyệt
vời đến mức khó tin. Cá nhân tôi và rất nhiều bạn bè của mình cũng thấy vậy. Dù
đi học hay đi du lịch, dù đi công tác hay đi làm ăn, ở đâu cũng thấy có hồn
thiêng sông núi, có các anh linh dân tộc phù hộ. Mỗi lần khó khăn, tôi chỉ cần
nghĩ đến và cầu nguyện tổ tiên đất Việt là y như rằng mọi khó khăn đều qua và mọi
chuyện trở nên tốt đẹp. Nhiều bạn bè và học trò cũng nghe tôi hướng dẫn và rất
thành công. Có vài bạn chưa đạt được như ý. Tôi nghĩ, đó là do chưa thật sự
thành tâm.” (tr.38)
Tiến
sĩ Nguyễn Mạnh Hùng đi từ những tự hào mơ hồ lãng mạn sang niềm tự hào không thể
chứng minh. “Hồn thiêng sông núi, anh linh dân tộc” thuộc lãnh vực “tâm linh,
huyền bí” – đó là niềm tin của mỗi người, không thể nói là đúng hay sai, càng
không thể xem là niềm tự hào dân tộc.
Mặc
dầu vậy, tôi cũng xin có ý kiến:
Từ
câu “Dù đi học hay đi du lịch, dù đi công tác hay đi làm ăn” cho thấy ông và bạn
bè của ông đều thuộc thành phần thượng lưu, nếu không là cán bộ thì cũng là đại
gia, trí thức.
Nếu
đúng như lời ông Hùng nói thì không có hàng triệu mảnh đời khốn khổ trên đất nước
VN như hôm nay.
Mỗi
ngày trên đất nước đang có hằng trăm ngàn người đang cầu nguyện “hồn thiêng
sông núi, anh linh dân tộc” phù trợ cho họ thoát khỏi những cảnh đời bi đát. Đó
là những “dân oan khiếu kiện” từ khắp miền đất nước, những tù nhân lương tâm
đang bị tra tấn, những bà mẹ lam lũ vẫn không kiếm đủ cho con ăn học, những cô
dâu VN bị hành hạ ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, những cô gái nghèo phải
“bán thân nuôi miệng” từ Singapore sang tận Ghana (16), những thanh niên thiếu
nữ Việt phải sống lậu làm chui từ Á sang Âu, những em bé tuổi còn ngây thơ bị
bán qua Campuchia, và hàng ngàn cảnh đời thương tâm khác…
Tiếng
cầu nguyện của những người đang tuyệt vọng bao giờ cũng thành khẩn hơn những
thành phần giàu sang phú quý.
Nếu
đúng như lời tiến sĩ Hùng nói thì “hồn thiêng sông núi, anh linh dân tộc” của đất
nước VN thời nay chỉ phù trợ cho những thành phần có thế lực!!!
IV. Nên tự hào hay nên xấu hổ trong những
trường hợp này:
1/
“Tôi tự hào về những gì mà Việt Nam chúng ta đã và đang xuất khẩu: gạo, cà phê, chè, cao
su, hạt tiêu, hải sản, rau quả...” (tr.45)
Nếu
dân tộc VN thông minh như Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng nói thì đáng lý ra VN phải
xuất cảng những sản phẩm trí tuệ như máy móc, đồ điện tử, robot, sắt, thép,
hardware, software…v.v
Xuất
khẩu gạo, cà phê, chè, cao su, hạt tiêu, hải sản, rau quả... không thể coi là
niềm tự hào. Đúng hơn là phải xấu hổ. Sản phẩm nông nghiệp thì bất cứ dân tộc
nào cũng có thể làm được và chẳng thâu về được nhiều ngoại tệ. Không có một quốc
gia nào giàu nhờ xuất cảng nông nghiệp. Nông phẩm bán ra với giá rẻ, trong lúc
đó phải nhập vào máy móc, đồ tiêu dùng, vật dụng kỹ thuật… với giá cao.
Và
không lẽ ông Nguyễn Mạnh Hùng không hiểu rõ hoàn cảnh của người nông dân VN hiện
nay sao, báo chí trong nước đã nói rất nhiều. Chưa có thời đại nào người nông
dân VN khổ như thời nay, khổ đủ mọi thứ: từ thiên tai, chính quyền cướp đất, chịu
đủ thứ thuế cho đến bị các thương gia Việt Nam, Trung Quốc ép giá…
2/
Nuôi dưỡng hận thù cũng là niềm tự hào dân tộc?
Trong
bài “Việt Nam sẽ thắng mọi kẻ thù” (tr.109-117) do Văn Việt – Hải Hà phỏng vấn
Thượng tướng CS Nguyễn Huy Hiệu, khi nhắc lại cuộc chiến vừa qua, ông Nguyễn
Huy Hiệu nói: “Sinh thời, Người [Hồ Chí Minh] khẳng định: ‘Hà Nội, Hải Phòng và
một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết
không sợ’… Khi đó, chúng tôi tiếp tục tích lũy lực lượng, chuẩn bị tổng tấn
công, nổi dậy mùa xuân năm 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trận Ban Mê
Thuột, chúng tôi điểm vào đúng yếu huyệt của địch, để rồi giành thắng lợi lịch
sử ngày 30/4/1975…”
Trong
lúc đó, đối với những kẻ đang xâm chiếm lãnh thổ của VN thì cũng chính ông tướng
này tuyên bố rất nhỏ nhẹ: “Mối quan hệ Việt Nam, Trung Quốc đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Mao Trạch Đông gây dựng nên. Tôi cho rằng các thế hệ về sau phải biết
tôn trọng, gìn giữ đúng tinh thần của hai nhà lãnh tụ.”
Tinh
thần của hai lãnh tụ có lẽ là tinh thần mà nhà thơ Tố Hữu đã nêu ra: “Bên ni
biên giới là mình, bên kia bên giới cũng tình quê hương.” “Bên ni” hay “bên
kia” đều là quê hương, cho nên có tặng cho chút đất, chút biển, không phải là
chuyện lớn để làm ầm ĩ!!!
Tiếp
theo đó là bài “Yêu nước, yêu hòa bình, cần có hành động đúng đắn và phù hợp”
(tr.119-125), để trả lời những câu hỏi liên quan đến việc giàn khoang Hải Dương
981 kéo đến hải phận Việt Nam, ông Lê Quốc Vinh (đại diện lãnh vực truyền
thông) trả lời: “Cho nên có thể nói, với Việt Nam chiến tranh không được phép xảy
ra và hòa bình là nỗi khát khao của tất cả mọi người.”
Với
ngoại bang, dù đang xâm lấn lãnh thổ, vẫn hết sức nhỏ nhẹ: “phải biết tôn trọng,
gìn giữ tinh thần của hai nhà lãnh tụ”, “chiến tranh không được phép xảy ra”,
trong lúc đó với đồng bào của mình thì sẵn sàng hy sinh tất cả, chiến đấu tới
người lính cuối cùng.
Mặc
dầu cuộc chiến đã chấm dứt từ 40 năm trước mà trong cuốn sách này vẫn bàng bạc
nhắc đến “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước” coi đó như một niềm tự hào dân tộc.
Cuộc
chiến “chống Mỹ cứu nước” đó thực chất là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn do
Miền Bắc chủ xướng và Miền Nam ở vào vị thế bắt buộc phải tự vệ. Nếu còn mang
trong người dòng máu Việt Nam, làm sao có đủ cam đảm để tự hào khi có nhiều
hàng triệu sinh mạng của hai miền đất nước đã nằm xuống và lòng người vẫn còn
chia cách đến tận hôm nay. Phải xem đó như một nỗi nhục, một vết thương cần phải
chữa lành, chớ sao lại là niềm hãnh diện.
Tinh
thần nhân ái mà tác giả Phạm Phú Ngọc Trai đề cao trong bài “Ấm Lòng Việt Nam”
(tr.277-283) áp dụng ở đâu? với kẻ thù phương bắc nhưng không với đồng bào của
mình chăng!
Chưa
đủ sao mà còn thêm “Một bài phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp với đường mòn Hồ
Chí Minh” (tr.109-117), như khơi dậy thêm một vết thương khác của người Miền
Nam. Thật sự “Đường mòn Hồ Chí Minh” là con đường đưa cả dân tộc về cõi chết.
Trong
bài phỏng vấn này của ký giả Virginia Morris, tướng Giáp cho biết: “Tháng
5/1959 tôi ra lệnh mở đường mòn Hồ Chí Minh”, đoạn khác tướng Giáp nói: “Các kỹ
sư của đường Trường Sơn rất khéo léo và chịu nhiều hy sinh. Trong đó có rất nhiều
cô gái đang tuổi lớn. Họ đã hy sinh cả tuổi thanh xuân cho con đường. Và khi trở
về họ đã không còn trẻ như cô nữa” (tr.132).
Tướng
Giáp kết luận bài phỏng vấn bằng cách cho ký giả Virginia biết tinh thần yêu nước
của người Việt lúc đó: “Tôi tin rằng nếu lúc đó cô là một cô gái Việt Nam, cô sẽ
lên đường đi Trường Sơn.”
Rất
đúng, nhiều thế hệ ở Miền Bắc đã bị ru ngủ bởi những lời tuyên truyền quá hay của
giới lãnh đạo như tướng Giáp - núp dưới chiêu bài “yêu nước”, “niềm tự hào dân
tộc”, cho nên nhiều người trẻ sẵn sàng hy sinh theo tiếng gọi của Đảng.
Người
Việt trong nước ngày nay quá tự hào về tướng Giáp “là một trong 10 vị tướng xuất
sắc nhất trong lịch sử nhân loại” và đang tôn vinh ông như một vị thánh,
nhưng hình như không ai đặt câu hỏi này: Trong lúc có những cô gái “đã hy sinh
cả tuổi thanh xuân cho con đường”, con số có thể lên đến hàng chục ngàn người
và có hàng triệu thanh niên thanh nữ đã “sinh Bắc tử Nam”, thì con cái của tướng
Giáp đã làm gì trong thời gian đó.
Cả
5 người con của Giáp mặc dầu đã trưởng thành trong cuộc chiến vừa qua nhưng
không người nào phải đi bộ đội: Võ Hồng Anh sinh năm 1939, du học ở Nga năm
1954. Võ Hòa Bình (SN1951) học đại học tổng hợp Hà Nội. Võ Hạnh Phúc (1952) du
học ở Nga. Võ Điện Biên (1954) du học ở Nga, Võ Hồng Nam (1956) học Đại Học
Bách Khoa, sau đó du học ở Hungary. (20)
Tướng
Giáp không xem điều đó là bất công! Và tệ hơn nữa là đại đa số người Việt coi
đó là bình thường. Nó bình thường nếu như chúng ta thẳng thắn nhìn nhận rằng
chúng ta là một dân tộc có nhiều điều dở cần phải học hỏi thế giới, nhưng nó
không bình thường khi người Việt tự cho mình cao hơn những dân tộc khác trong
khi không tuân thủ một giá trị căn bản nhất.
Đối
thủ một thời của tướng Giáp trong cuộc chiến Đông Dương lần Thứ Nhất là Đại tướng
Jean Lattre de Tassigny. Nhiều người Việt không coi tướng Tassigny xứng đáng là
đối thủ của tướng Giáp, nhưng nhân cách của tướng Tassigny thì hơn xa tướng
Giáp.
Trong
lúc tướng Tassigny đang là Tổng Tư Lệnh Quân Đội Pháp tại Đông Dương (6/12/1950
– 19/11/1951) thì người con duy nhất của ông là Trung Úy Bernard de Lattre de Tassigny
tử trận tại Ninh Bình ngày 30/5/1951. Mặc dầu là một mất mát quá lớn nhưng tướng
Tassigny vẫn coi đó là niềm hãnh diện.
Đối
với người Pháp, họ thương mến và nể phục ông nhưng họ chỉ xem ông như một vị tướng
giương mẫu. Chuyện cha là tướng, con ra chiến trường là chuyện bình thường ở xứ
Tây Phương, không có gì phải đề cao. Một xứ gọi là văn minh không giờ chấp nhận
sự bất công dù dưới bất cứ hình thức nào.
Riêng
với người VN, mặc dầu sự bất công quá rõ ràng như thế nhưng người ta không xem
đó là quan trọng và vẫn tôn vinh tướng Giáp như một vị thánh, bởi vì dân tộc
chúng ta là một dân tộc không coi trọng danh dự và sự công bằng.
Phần 3
V. Tự hào theo kiểu
Việt Nam
Cách
tự hào của người Việt không chỉ viễn vong, mơ hồ mà còn chứa đầy mâu thuẫn, phi
lý trong cách lý luận. Những dân tộc duy lý như Tây Phương khó có thể hiểu được
tâm lý của người Việt, điển hình như những trường hợp dưới đây:
1/
Làm sao có thể hiểu một dân tộc tự cho thông minh chỉ chỉ kém hơn “người Do
Thái, người Bắc Âu và người Đức”, thế nhưng cũng chính trong cuốn sách này cho
biết “bình quân thu nhập quốc dân trên đầu người trên 600 USD đặt Việt Nam vào
danh sách các nước nghèo nhất thế giới” (tr.59).
2/
Một dân tộc thực tế như người Đức sẽ không thể nào hiểu được cách tự hào đầy
mâu thuẫn dưới đây:
“Nước
Việt Nam ta được thiên nhiên ưu đãi với những cánh rừng nguyên sinh chạy dọc đất
nước, với đất đai phí nhiêu màu mỡ, với thảm mộc thực vật phong phú và quý” (tr
43). “Chúng ta chắc chắn là tinh hoa của nhân loại” (tr 390).
“Chúng
ta đang sống và luôn sống với sự bố thí, ban ơn, xin xỏ, theo sau thế giới để
là một công trường, bếp ăn, là một công xưởng của nhân loại. Chúng ta chỉ làm
được thế sao? Thật nực cười và nhục nhã, chúng ta sống trong sự ăn may [mày] của
quá khứ, sự lợi dụng danh tiếng mà cha ông, tổ tiên chúng ta để lại…”.
(tr.390).
Tại
sao lạ vậy: một đất nước vừa được thiên nhiên ưu đãi, vừa là “tinh hoa của nhân
loại”, sao phải sống nhờ vào sự bố thí của thế giới! Nếu vậy thì từ “tinh hoa của
nhân loại” đến kẻ ăn mày chỉ cách nhau có đường tơ kẽ tóc!!!
3/
“Người Việt Nam rất thông minh và có những lợi thế riêng mà không có nước nào
có thể sánh bằng” (tr 155), “được sở hữu những đức tính tốt đẹp mà cả thế giới
phải công nhận” (tr 380), người Việt Nam “Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo,
lạc quan, thương người, vì nghĩa” (tr.374), “Mỗi người Việt là một bông hoa quý
hiếm. Hoa người Việt hiếm nên rất quý” (tr.349), người Việt Nam “giàu lòng nhân
ái” (tr 283), cộng thêm “đất đai màu mỡ, với thảm động thực vật phong phú và
quý” (tr 43).
Một
đất nước quá tốt không đâu bằng nhưng sao lại có cảnh như dưới đây (từ chính cuốn
sách này cho biết):
“Hiện
nay, có lẽ đâu chỉ có tôi mà nhiều người lên mạng hàng ngày đều không khỏi mệt
mỏi, ngán ngẩm khi tin cướp, giết, hiếp tràn lan – không chỉ trên báo của ngành
công an, pháp luật. Có những chuyện tán tận lương tâm, không còn luân thường đạo
lý, mà thời gian trước không xảy ra, hiếm xảy ra, hoặc sẽ là chuyện động trời
thì nay cảm giác đã trở nên bình thường, như: có những người trẻ giết hại cha mẹ,
ông bà mình hoặc người khác chỉ vì mấy chục nghìn để chơi game, chỉ vì nhìn… đểu,
chỉ vì thấy mặt nó khó ưa… Có quá nhiều bất an, “những điều trông thấy mà đau đớn
lòng” trong cuộc sống, xã hội mà phần đông ai cũng kêu, ai cũng than và hy vọng
“chắc nó chừa mình ra”…” (Cứ đi sẽ gặp, tr.196)
Tại
sao là “một bông hoa quý hiếm” “được sở hữu những đức tính tốt đẹp mà cả thế giới
phải công nhận” mà con người lại đối xử với nhau dã man đến như thế!!!.
4/
Tác giả Trần Đăng Tuấn của bài “Người Việt Nam” (tr.164-177), đã viết: “…gặp
lúc rét gần 0 độ C, mà trẻ con có nhiều đứa không có cái áo nào khả dĩ che ấm
người, chẳng ai cầm nổi nước mắt” (tr.167). Chính vì thế mà Bác Hợi (Nguyễn Văn
Mốt) đã mở ra chương trình từ thiện có tên là “Cơm có thịt” nhằm mục đích “huy
động đóng góp của mọi người, nhằm giúp bữa cơm của các em học sinh vùng núi cao
có thêm chút dinh dưỡng” (tr.166).
Để
quyên góp thêm tài chánh, chương trình “Cơm có thịt” nay đã mở rộng ra toàn thế
giới: ““Cơm có thịt Australia”, và rồi nối nhau “Cơm có thịt United States”,
“Cơm có thịt Liên Bang Nga”, “Cơm có thịt Đức… ra đời. Rồi “Cơm có thịt” có ở
Ý, Pháp, Anh, Nhật, Hungary, Phần Lan, Đài Loan, Trung Quốc… trên 20 quốc gia”.
(tr 175)
Tự
hào là một dân tộc “rất thông minh”, được “thiên nhiêu ưu đãi”… sao lại không
thể cung cấp cho những trẻ em miền núi những bữa ăn đủ dinh dưỡng mà phải nhờ đến
lòng hảo tâm của thế giới!!!.
Bài
viết “Người Việt Nam” của tác giả Trần Đăng Tuấn kêu gọi người Việt nên tự hào
vì có những tấm lòng nhân ái như “bác Hợi” như lời mở đầu bài viết: “Người Việt
Nam như thế nào? Tự hào là người Việt Nam, nhưng tự hào sao cho đúng? Đó là những
điều rất lớn”, cho thấy những nghịch lý trong cách tự hào của tác giả - tự hào
về một người nhưng có đáng xấu hổ về hàng chục ngàn cảnh đời bất hạnh của các
em nhỏ bị chính quyền bỏ rơi, không có thịt để ăn, không có áo ấm để mặc!!!
5/
Một dân tộc coi trọng danh dự và thể diện quốc gia như người Nhật sẽ không thể
nào hiểu được kiểu tự hào của người Việt, như trong trường hợp dưới đây:
Trong
bài “Bạn có tự hào là người Việt Nam không?” (tr. 247-257) của tác giả Đinh Tiến
Dũng, cử nhân Nông Nghiệp, đại diện cho giới văn nghệ sĩ, ghi lại cảnh cá nhân
ông và một nhóm đồng hương (đa số sang Nga để buôn bán, lao động) bị khinh khi
công khai tại phi trường Moscow bởi các nhân viên nhập cảnh:
“Đoàn
chúng tôi mất hơn bốn tiếng đồng hồ để nhập cảnh vì sân bay Nga chỉ dành hai cửa
làm nhập cảng cho riêng người Việt, hai cửa xa nhất, heo hút nhất khu nhập cảnh
ở sân bay… Những cửa làm thủ tục còn lại dành cho hành khác nước khác được hỗ
trợ làm thủ tục nhanh chóng, nên chỉ cần vài phút là họ đi qua”…“Chúng tôi về xếp
hàng trước lối vào cùng khoảng hơn một trăm đồng hương đang đứng lố nhố không
hàng lối. Những người nước khác đi qua đưa mắt nhìn về chúng tôi, tôi có cảm
giác như những lần hồi bé phải đứng lên góc lớp vì không thuộc bài cho cả lớp
nhìn vậy”.
Sau
đó ông kể cảnh sống của Việt ở Nga, khổ sở đủ điều, bị trộm, bị cướp, bị cảnh
sát hiếp đáp tống tiền và rất bị người bản xứ kỳ thị: “Tôi hỏi anh tôi rằng người
Nga có quý người Việt không, anh bảo giờ thì không, họ ghét lắm, bọn anh thi
thoảng đi vặt táo, thấy mấy bà già người Nga đứng bên cửa sổ trên tầng léo nhéo
chửi, ý bảo bọn mày về nước mày đi…” (tr.253).
“Tinh
hoa của nhân loại” mà sao phải chịu những cảnh nhục nhã đến thế sao!!!
Rồi
ông kể tiếp chuyến đi Nhật: “Đợt vừa rồi rộ lên vụ truyền hình Nhật Bản đưa tin
người Việt ăn cắp và bị bắt. Khắp nơi trên các diễn đàn trên các diễn đàn và mạng
cộng đồng, những cụm từ như “chục mặt chưa”, đẹp mặt chưa”, xấu hổ quá…” được
nhiều người dùng với cường độ cao để bình luận cho sự kiện này bởi có vẻ như
lòng tự hào Việt Nam của họ đang bị tổn thương sâu sắc”.
“Riêng
cá nhân tôi thì luôn tin rằng, cách đấu tranh với cái xấu hiệu quả nhất, là chỉ
quan tâm đến những cái tốt, những cái tích cực, đồng thời tìm cách lan truyền
và nhân rộng nó ra để con sói tốt ngày càng mạnh mẽ, không cho con sói xấu
trong mình có cơ hội bùng lên….”. (tr.255)
****
Khi
tiếp xúc với người Việt ở Nhật, có người hỏi: “Anh có tự hào là người Việt Nam
không?”. Ông trả lời: “Có chứ!”
Cuối
cùng ông nói với họ: “Nên sống thế nào để có thể tự hào về bản thân mình thì
cũng chính là lúc chúng ta đã tự hào là người Việt Nam chú ạ.”
Câu
nói của ông (con sói tốt và con sói xấu) được nhiều tờ báo trong nước trích dẫn
và coi đó như một “triết lý cao siêu”. Dĩ nhiên là nó rất hợp với quan điểm của
chính quyền “Chỉ nên nói đến những cái tốt của xã hội và của Đảng”. Ngay cả bà
Tôn Nữ Thị Ninh, trong lời giới thiệu cuốn sách cũng “hoàn toàn tâm đắc” với
câu nói trên.
Ông
Đinh Tiến Dũng nói những câu trên mà quên rằng, trong câu nói “Tôi tự hào là
người Việt Nam” không mang ý nghĩa một cá nhân mà mang ý nghĩa một tập thể, một
hành vi xấu hay tốt của một người Việt đều có trách nhiệm liên đới với những
người Việt khác.
Trong
hoàn cảnh xảy ra ở Nhật, ăn cắp, vẫn cảm thấy xấu hổ, vậy thì trong trường hợp
nào mới cảm thấy xấu hổ?.
Nếu
nói như thế thì những phần tử Hồi Giáo cực đoan IS hiện nay cũng có thể tự hào
về những hành động giết người dã man của họ.
Phải
biết xấu hổ trước những hành vi trái đạo đức của người Việt bất kể là do mình
hay do một đồng hương khác gây ra. Chúng ta lên án cái xấu không phải là lên án
những người đang sống ở Nga, ở Nhật… mà lên án những người đã đưa đẩy họ vào những
hoàn cảnh như thế.
Nghĩ
cho cùng thì những người đã gây ra những hình ảnh không đẹp của người Việt Nam
tại Nga, tại Nhật, ngay cả cái phi công, tiếp viên hàng không Vietnam Airline
cũng chỉ nạn nhân của một đất nước nghèo khổ, một chế độ đầy bất công và thối
nát. Thử hỏi nếu như những người đó có một đời sống vật chất tương đối khá giả,
được hấp thụ một nền giáo dục đàng hoàng tử tế, đất nước được lãnh đạo bởi những
người xứng đáng, không phải đút lót tiền để có việc làm… thì tình trạnh xấu xa
như thế có xảy ra không?
Ông
Đinh Tiến Dũng đề cao cái tốt không phải sai, nhưng những cái tốt không thể tồn
tại nếu như cái xấu, cái ác không bị lên án, trừng phạt. Chúng ta cám ơn những
người đề cao cái đẹp, góp phần làm thăng hoa con người, nhưng chúng ta càng phải
cám ơn nhiều hơn đối với những người dám lên án cái xấu cái ác. Không có một
chính quyền độc tài phi nhân nào bỏ tù những người đề cao cái đẹp nhưng sẽ tìm
cách triệt tiêu những tiếng nói chống lại cái ác, cái xấu của chế độ.
Cái
thế giới này sẽ trở thành địa ngục nếu như nhân loại chỉ có những người đề cao
cái đẹp mà không có những người lên án cái ác.
Tự
hào là cần thiết, nhưng biết xấu hổ đôi lúc lại cần thiết hơn.
Xã
hội Tây Phương đạt tới trình độ văn minh như ngày hôm nay vì họ dám lên án cái
xấu và biết xấu hổ trước những hành vi thiếu nhân bản, do dù chuyện đó đã xảy
ra từ lâu trong quá khứ.
Vì
biết xấu hổ cho nên chính quyền Úc, Mỹ và Canada đã xin lỗi các thổ dân. Chính
phủ Anh đã xin lỗi “những đứa trẻ bị cưỡng bách di dân” (child migrants) xảy ra
từ hơn một thế kỷ trước. Chính phủ Đức đã xin lỗi vai trò của mình trong cuộc
diệt chủng người Do Thái. Chính phủ Anh đã xin lỗi những hành động sai trái của
họ đối với các thuộc địa trong thời gian đô hộ...
Chính
những hành động này đã làm cho dân tộc của họ văn minh hơn, nhân bản hơn, người
dân cảm thấy tự hào hơn về đất nước của họ.
Trái
lại một dân tộc không biết xấu hổ sẽ mãi mãi là một dân tộc lạc hậu và đất nước
đó sẽ mãi mãi bị thế giới bỏ lùi phía sau.
Trở
lại câu nói của ông Đinh Tiến Dũng: “Nên sống thế nào để có thể tự hào về bản
thân mình thì cũng chính là lúc chúng ta đã tự hào là người Việt Nam” cũng chứa
đầy tính chất mỉa mai khi ngay cả cá nhân cũng không làm được điều đó.
Ông
kể lại một kinh nghiệm trong chuyến đi Nhật: “Có một lần đi công tác, tôi có dịp
ngồi với một cậu em bên Nhật Bản, rượu vào lời ra, trên tầu điện ngầm, hai anh
em cứ ồn ào trò chuyện. Những ánh mắt khó chịu đổ dồn về phía chúng tôi khiến
hai anh em giật mình và giữ im lặng.” (tr.256)
Tư
cách của ông so ra không bằng một người Nhật bình thường, vậy mà vẫn hãnh diện
“Tôi tự hào là người Việt Nam.” Sao lại hạ niềm tự hào dân tộc xuống thấp đến
thế.
VI. Đừng nên đề cao Hồ
Chí Minh một cách quá lố bịch
Người
viết muốn nói đến bài bài “Doanh nhân – người lính thời bình” (tr.94-99) của
tác giả là tiến sĩ Vũ Tiến Lộc, đại diện cho khối doanh nghiệp.
Trong
phần tiểu sử tác giả cho biết, ông Vũ Tiến Lộc là tiến sĩ kinh tế, giảng dạy tại
các trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, Đại Học Quốc Gia Hà Nội và một số trường đại
học khác trong và ngoài nước. Không cho biết đại học ngoài nước là đại học nào.
Bên cạnh đó còn là Đại Biểu Quốc Hội VN khóa XI, XII, XIII, Chủ tịch Phòng
Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, Chủ Tịch Ủy Ban Hợp Tác Kinh Tế Thái Bình
Dương, Chủ Tịch Hội Đồng Trung Ương các Hiệp Hội Doanh Nghiệp Việt Nam, Chủ Tịch
Liên Minh Diễn Đàn Doanh Nghiệp Việt Nam.
Tác
giả không những là một quan chức cao cấp mà còn là một nhà khoa bảng.
Với
thành tích đó, đúng ra ông Lộc phải hiểu nguyên tắc căn bản - ông đang viết về
đề tài “Doanh nhân – người lính thời bình” trong cuốn sách “Tôi tự hào là người
Việt Nam”, có nghĩa là những thành tích của doanh nhân Việt Nam xứng đáng để
người Việt tự hào.
Thế
nhưng suốt bài viết của ông, không thấy một tấm gương doanh nhân nào cả, mà chỉ
thấy ông ca ngợi Hồ Chí Minh từ đầu đến cuối bài như một thiên tài về lãnh vực
kinh tế.
Mở
đầu, ông Lộc viết: “Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới giới
doanh nhân. Từ chiến khu Việt Bắc ở về Thủ đô chuẩn bị cho ngày độc lập, Bác ở
và làm việc tại ngôi nhà của một trong những gia đình giàu có nhất ở Hà Nội và
cũng tại đây, Bác viết Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa. Chỉ hai tuần sau ngày độc lập, trong “tuần lễ vàng”, ngày 18/9/1945 Bác đã
gặp mặt các nhà công thương Hà Nội và theo lời Bác họ đã tích cực ủng hộ về tài
chánh cho Chính quyền cách mạnh còn non trẻ và giới doanh nhân là giới chức xã
hội đầu tiên được Bác tiếp tại Phủ Chủ Tịch. Sau đó ngày 13/10/1945 Bác viết
thơ kêu gọi giới doanh nhân tham gia công thương cứu quốc đoàn. Trong thư Bác
viết: “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy
hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công Thương phải hoạt động để xây dựng
một nền kinh tế và tài chánh vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ và nhân dân sẽ
tận tâm giúp giới Công Thương trong cuộc kiến thiết này”.
Hơn
nửa thế kỷ qua đi, nhưng những lời chỉ dẫn của Bác về vai trò của giới doanh
nhân về sự song hành lợi ích của doanh nhân với lợi ích của đất nước và dân tộc,
về quan hệ giữa chính phủ với doanh nhân vẫn còn nguyên giá trị. Đường lối đổi
mới của Đảng đã đưa chúng ta trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh và ngày 13/10,
ngày Bác gửi thư cho giới công thương đã trở thành ngày Doanh Nhân Việt
Nam…”
Lúc
từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, ông Hồ Chí Minh ở nhà của thương gia Trịnh
Văn Bô, chủ hiệu buôn “Phúc Lợi”, bán tơ lựa và có hãng chế tạo tơ lụa. Theo lời
kêu gọi của Hồ Chí Minh, ông Trịnh Văn Bô đã đóng góp cho Việt Minh 5,147 lượng
vàng, tương đương số tiền gần gấp đôi ngân khố chính phủ bấy giờ (21).
Ngoài
số vàng đó ra gia đình của ông Trịnh Văn Bô còn giúp Việt Minh rất nhiều thứ
khác, ngay cả cá nhân ông cũng đi theo kháng chiến.
Thế
nhưng sau khi đảng CS lên nắm quyền ở miền Bắc (1954) thì gia đình ông Bô đã bị
đối xử ra sao? Xin đọc một đoạn dưới đây trong quyển “Bên thắng cuộc” (22) của
Huy Đức:
“Năm
1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn
miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho
Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà
vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ,
tài sản mà họ có được là do bóc lột, bây giờ Chính phủ nhân đạo cho làm phó
giám đốc trong các nhà máy, xí nghiệp của mình. Không chỉ riêng bà Bô, các nhà
tư sản từng nuôi Việt Minh như chủ hãng nước mắm Cát Hải, chủ hãng dệt Cự Doanh
cũng chấp nhận hợp doanh và làm phó...
Cả
gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu
tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời
hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không
đòi lại được…”
Nhà
văn Huy Đức còn kể thêm nhiều cay đắng khác mà gia đình ông Bô phải chịu đựng từ
khi ông Hồ Chí Minh lên nắm quyền.
Tiến
sĩ Vũ Tiến Lộc viết tiếp: “Đối với người dân Việt khi gặp khó khăn thách thức
thì chúng ta lại nhớ Bác Hồ, tìm lại trong di sản của người, và thật kỳ lạ, bao
giờ chúng ta cũng tìm ra được những chỉ dẫn giải quyết cho những vấn đề hiện tại…
“Bác
dặn: “Phải nâng cao năng xuất, thực hành tiết kiệm, phải cải tiến quản lý, cải
tiến kỹ thuật, phải chăm lo đời sống người lao động...””
“Bác
nói: “Những người sản xuất phải tập hợp lại thì mới có thể sản xuất được nhiều,
tốt không là phí tài năng và thời gian…”
Cuối
cùng tác giả viết: “Những chỉ dẫn về tái cấu trúc như vậy không phải là những
điều cao xa trong giáo trình kinh tế học hiện đại của phương Tây mà còn là những
điều căn dặn giản dị, ngắn gọn trong tư tưởng của Bác Hồ 40, 50 năm về trước. Đổi
mới, tái cấu trúc ở Việt Nam là trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh và vươn tới
chuẩn mực toàn cầu.”
Nếu
kiến thức về kinh tế của “Bác” uyên bác đến như thế, tại sao đất nước VN từ khi
có “Bác” thì từ nghèo tới nghèo hơn. Thời chiến tranh thì quá nghèo. Và hòa
bình nay đã 40 năm, Việt Nam vẫn không vươn lên để trở thành rồng mà còn lẹt đẹt
đứng gần cuối bảng của thế giới về sự nghèo khổ (133/183) (23) và đang có nguy
cơ bị Lào và Campuchia qua mặt.
Những
lời trên của Hồ Chí Minh (cho dù có thật) về lãnh vực kinh tế - chỉ là những lời
nói chung chung ai cũng biết, một tiến sĩ kinh tế như ông Vũ Tiến Lộc mà đi
tâng bốc một cách lố bịch như thế thì tội nghiệp cho bằng tiến sĩ của ông quá!
Nhưng
một ngàn lời nói không có giá trị bằng một hành động. Ông Hồ Chí Minh nói như
thế, nhưng ông có làm đúng như vậy không? Nếu không thì những lời đó chỉ là sự
lường gạt nhằm để đạt mục tiêu chính trị. Và hành động tâng bốc của tiến sĩ Vũ
Tiến Lộc ngày nay là tiếp tay cho sự lường gạt đó.
Có
2 điểm dưới đây cần phải nêu ra về những nói của ông Hồ:
-
Ông Hồ Chí Minh đề cao “doanh nhân” trong giai đoạn nào?
Sau
khi cướp chính quyền ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh mở “Tuần Lễ Vàng” để kêu gọi mọi
người đóng góp tiền của cho chính quyền Việt Minh. Từ lúc đó cho đến khi chưa
lên nắm quyền (7/1954), dĩ nhiên Hồ Chí Minh lúc nào cũng vuốt ve giới thương
gia để họ đóng góp cho Việt Minh càng nhiều càng tốt.
-
Số phận của doanh nhân miền Bắc ra sao sau khi Hồ Chí Minh lên nắm quyền?
Sau
khi lên nắm quyền ở miền Bắc, chính phủ của Hồ Chí Minh thực hiện ngay Cải Cách
Ruộng Đất, không chỉ tiêu diệt thành phần “địa chủ” mà còn tiêu diệt luôn tầng
lớp tiểu tư sản, thương gia như trường hợp bà Nguyễn Thị Năm. Tất cả các thương
gia nếu không bị xử bắn thì cũng bị đi cải tạo, tài sản bị tịch thu, trở thành
quốc doanh.
Sau
Cải Cách Ruộng Đất là nhiều đợt “Cải tạo công thương nghiệp” và cho đến khi Hồ
Chí Minh qua đời (9/1969) thì kinh tế tư nhân ở Miền Bắc hoàn toàn biến mất như
một tài liệu chính thức dưới đây của đảng CSVN: “Sau 3 năm cải tạo kinh tế
(1958-1960), ở thành thị, 100% số cơ sở công nghiệp tư bản tư doanh thuộc diện
cải tạo đã được tổ chức thành xí nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác,
1.553 doanh nhân thành người lao động. Có 90% tổng số thợ thủ công trong diện cải
tạo đã tham gia các hợp tác xã thủ công nghiệp, trong đó hơn 70.000 thợ thủ
công chuyển sang sản xuất nông nghiệp.”(24)
Tác
giả Vũ Tiến Lộc quá coi thường người đọc khi ngày nay vẫn còn hàng triệu nhân
chứng sống, đã từng sống qua thời đại của Hồ Chí Minh.
VII. “Tư duy chiến lược”
hay bệnh hoang tưởng
Bệnh
“nổ” của người Việt được phát huy tối đa dưới thời đại CS, từ Đảng cho đến nhân
dân đều thi đua nhau “nổ”.
Người
có học thường “nổ” có bài bản hơn dân thường, riêng ông “đại trí thức” này “nổ”
chẳng bài bản gì cả.
Theo
phần tiểu sử cho biết, ông Nguyễn Hữu Thái Hòa, tốt nghiệp ngành kiến trúc ở
Canada, sau đó lấy bằng Thạc sĩ ở Thượng Hải, Trung Quốc. Hiện đang là Phó Viện
Trưởng, Viện Khoa Học Cộng Nghệ, cũng là Giám Đốc Chiến Lược của Tập đoàn FPT
và còn nhiều chức vụ khác. Đồng thời ông được đánh giá “là một vị lãnh đạo tài
năng luôn truyền lửa “giấc mơ Việt Nam” cho thế hệ trẻ.
Sau
chủ biên Nguyễn Mạnh Hùng, ông Thái Hòa là một trong những tác giả chánh trong
cuốn sách, đại diện cho tư duy chiến lược đương nhiên là rất quan trọng.
Bài
viết của ông “Việt Nam tự định vị mình và vươn ra thế giới” (tr.67-93) là bài
dài nhất trong cuốn sách, 26 trang, chỉ một bài nhưng bao gồm nhiều đề tài:
chính trị, xã hội, văn hóa, đặc biệt là về quản lý chất lượng (quality
control).
Về
thành tích của mình, ông cho biết như sau: “Tác giả bài viết thuộc thế hệ trí
thức, Việt kiều trẻ có hơn 15 năm làm việc quản trị ở Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á
cho các tập đoàn đa quốc gia trước khi quay về đảm trách công tác định hướng
chiến lược cho một tập đoàn công nghệ thông tin hàng đầu Việt Nam. Qua những
câu chuyện, minh chứng có thật từ thực tế kinh nghiệm từ Đông sang Tây đã được
tích lũy nhiều năm được sắp xếp lại nhằm góp phần giải mã các ẩn số này của đất
nước.
“Kinh
nghiệm bản thân tác giả suốt chặng đường 14 năm làm việc như một công dân toàn
cầu tại ba châu lục cho Tập Đoàn Schneider Electric (Pháp), từ một kiến trúc sư
đến địa vị lãnh đạo cao nhất của hệ thống chất lượng châu Á-Thái Bình Dương.
“Suốt
thời gian ở Pháp, với vị trí Trưởng Bộ phận Quốc tế vụ (Pilotage International),
để quản lý được các chuyên gia công nghệ hàng đầu của Schneider Electric, tôi
thường đem trong ví một viên ốc Nhật của xe Toyota làm niềm tin chất lượng của
người Á Châu.
“Năm
2001, tôi đến Pháp làm việc theo lời mời của Tập đoàn Schmeiner Electric và trở
thành người Á Châu đầu tiên đảm nhận chức vụ Giám đốc Văn phòng Quốc tế Vụ tại
Tập đoàn”.
Cuối
cùng quá chán tính lường biếng và thiếu sáng tạo của người Pháp, ông Thái Hòa
quyết định bỏ Pháp về Á Châu làm việc.
“Đầu
năm 2003, tôi quyết định quay về châu Á trong cương vị Giáo đốc Chất lượng Hệ
thống Tiêu chuẩn Kỹ thuật Á-Thái Bình Dương…”
Người
viết cố tìm trên Google (tiếng Anh) để xem thế giới có biết “nhân tài” nước Việt
này không, nhưng tìm mãi không ra.
Nếu
như tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng mô tả đất nước Việt Nam như một thiên đàng trên
trái đất này thì ông Nguyễn Hữu Thái Hòa vẽ ra những tham vọng vĩ đại cho Việt
Nam trong tương lai, tiêu biểu như:
1.
Giấc mơ khám phá và chinh phục toàn cầu – The Global DREAM
2.
Thương hiệu chất lượng “Made in Vietnam, Made in world”
3.
Giấc mơ chất lượng Việt Nam
4.
Dự án “Best in Class, Vươn tới đỉnh cao”…
5.
Chiến lược định vị Việt Nam thành trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của thế
giới.
Thật
ra phải gọi đây là ảo tưởng hơn tham vọng. Tham vọng thì còn có thể làm được,
nhưng ảo tưởng thì không. Một đất nước chưa chế tạo được đinh ốc chất lượng mà
đòi chinh phục toàn cầu, trở thành trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của thế
giới… thì phải gọi tên gì cho đúng?
Thông
thường, khi muốn thực một tham vọng (hay sáng kiến mới) đòi hỏi phải hội đủ ít
nhất là 3 yếu tố dưới đây:
1-
Tham vọng đó nằm trong khả năng tài chánh, nhân lực… đang có? (feasible)
2-
Có đủ bằng chứng cho thấy tham vọng đó có thể làm được?
3-
Có phương cách để thực hiện?
Đó
chỉ là những tham vọng bình thường, huống hồ chi những dự án mang tính chất “tư
duy chiến lược” cho một quốc gia.
Riêng
ông Thái Hòa thì không cần biết VN đang ở vị trí nào trên thế giới và có khả
năng để thực hiện những tham vọng quá lớn đó hay không!
Bài
viết của ông không theo một nguyên tắc nào, hết sức ẩu tả, lý luận theo kiểu “ếch
ngồi đáy giếng”, những lý lẽ đưa ra hoàn toàn không thuyết phục, đôi khi hết sức
lạc đề, bằng chứng thì mơ hồ, “chiến lược” để thực hiện càng “lãng mạn” hơn.
Chỉ
cần đọc một đoạn dưới đây trong phần “Định vị Việt Nam thành trung tâm văn hóa,
kinh tế, chính trị của thế giới” (tr.90) người đọc sẽ thấy sự “uyên bác” của
tác giả:
“Chúng
ta cần nhận diện thật rõ ràng đâu là điểm mạnh của bản sắc dân tộc, lịch sử và
truyền thống của con người Việt Nam để từ đó đưa ra một định hướng chiến lược
phù hợp. Trong hai cuộc chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Việt Nam đã là
trái tim của nhân loại. Sau cuộc chiến gần 40 năm, chúng ta đã đánh mất quá
nhanh tình cảm đó vì nhiều yếu tố khách quan và chủ quan và cũng chính chúng ta
đã không ý thức được tầm quan trọng và giá trị vô biên của việc trở thành một
trung tâm thế giới.
Phải
nhìn nhận rằng qua bao cuộc bể dâu, dù trong thế yếu chống mạnh, người Việt
luôn cao truyền thống của tinh thần Nhân nghĩa làm nền tảng:
Đem
đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy
chí nhân mà thay cường bạo (Cáo bình Ngô, Nguyễn Trải, 1428).
Vị
trí địa lý, lịch sử đã trao vào tay Việt Nam một cơ hội đứng lên lãnh đạo khối
ASEAN…
“Khi
tất cả các vec-tơ tương tác trong các mối quan hệ toàn cầu từ các dòng tiền của
giới đầu tư vào những vấn đề kinh doanh trong nhiều lãnh vực khoa học công nghệ,
công nghệ, nông nghiệp, giao thông, chuỗi phân phối, du lịch, văn hóa, nghệ thuật,
khoa học, sáng tạo…. cho đến các mối quan hệ trong những vấn đề toàn cầu như khủng
hoảng năng lượng, lương thực, chiến tranh, hòa bình, y tế, biến đổi khí hậu,
môi trường đều hướng đến Việt Nam, khi đó Việt Nam sẽ hùng mạnh và an toàn hơn
bao giờ hết. Chỉ khi nào chúng ta ý thức được điều đó và dám đề ra một chiến lược
cụ thể để định vị Việt Nam trở thành một trung tâm quan trọng của thế giới, khi
đó đất nước mới có thể ngẩng đầu cao và thật sự thoát ra khoải kiếp nô lệ từ
trong tư duy, tiềm thức của dân tộc.
Định
vị Việt Nam trước tiên có thể làm ngay là định vị lại thương hiệu Việt. Hai chữ
“Việt Nam” hiện nay trên Google Search đang có giá trị thương hiệu lớn gấp nhiều
lần những nước khác trong khu vực hoặc có diện tích, dân số tương đương. Điều
đó phần nhờ ánh hào quang của Việt Nam trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống
Mỹ vừa qua. Chúng ta phải biết nhanh tay tận dụng thương hiệu Việt trước khi thế
giới lãng quên chúng ta, bằng những giá trị chất lượng và sự khác biệt trong từng
sản phẩm, dịch vụ.”
Đưa
ra cả một chiến lược “Định vị Việt Nam thành trung tâm văn hóa, kinh tế, chính
trị của thế giới” mà chỉ có 770 từ, trong đó phần lớn là những lời chung chung,
đầy mâu thuẫn và không đưa ra được một phương cách làm thế nào để thực hiện.
“Chỉ
khi nào chúng ta ý thức được điều đó và dám đề ra một chiến lược cụ thể để định
vị Việt Nam trở thành một trung tâm quan trọng của thế giới, khi đó đất nước mới
có thể ngẩng đầu cao và thật sự thoát ra khoải kiếp nô lệ từ trong tư duy, tiềm
thức của dân tộc”, có nghĩa là tác giả chưa có một chiến lược để thực hiện. Nếu
vậy thì mệnh đề khẳng định (affirmative) “Định vị Việt Nam thành trung tâm văn
hóa, kinh tế, chính trị của thế giới” hoàn toàn trở nên vô nghĩa.
Tác
giả lý luận: Khi tất cả các lãnh vực của thế giới hướng tới VN, thì VN sẽ trở
thành trung tâm của thế giới.
Nói
như thế ai chẳng nói đươc. Vấn đề là làm sao để thực hiện?
Lý
luận như ông thạc sĩ này chẳng khác nào một ông chủ tiệm buôn nói rằng: nếu có
nhiều khách đến tiệm tôi mua hàng thì tôi sẽ giàu.
Tác
giả lý luận tiếp: “Chỉ khi đó đất nước ta mới thoát ra được tư duy nô lệ”.
Đã
mang tư duy nô lệ, làm sao có thể làm được chuyện “đội đá vá trời”: mang tất cả
các lãnh vực của thế giới đến Việt Nam. Đã mang tư duy nô lệ làm sao có khả
năng để biến VN trở thành trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của thế giới. Và
không lẽ khối ASEAN ngu đến độ để cho một dân tộc mang tư duy nô lệ lãnh đạo họ.
Thời
đại này mà tác giả nhắc “ánh hào quang của 2 cuộc chiến vừa qua” thì hết sức lỗi
thời. Trong thời buổi khủng bố ngày nay, những gì dính dáng đến bạo lực, người
ta đều ghê tởm, chỉ có tác giả mới coi đó là lợi điểm.
Tác
giả tự giới thiệu là một kiều Việt trẻ, một công dân toàn cầu, đúng ra phải
mang tinh thần nhân bản, bác ái, yêu chuộng hòa bình, sao lại thích nhắc lại
chuyện chém giết, và khơi dậy nỗi đau của hàng triệu người khác. Nhắc lại lời của
“Bình Ngô đại cáo”, nhưng một trí thức như tác giả sinh trưởng ở Saigon (sinh
năm 1969) (25), không lẽ không biết hàng trăm ngàn quân nhân cán chính Việt Nam
Cộng Hòa và người dân Miền Nam đã bị bên thắng cuộc đối xử ra sao sau tháng
4/1975!!!
Không
biết tác giả rời VN trong tư cách gì, tị nạn hay di dân! nhưng dù với bất cứ lý
do gì, nếu là một người có suy nghĩ, tác giả phải tỏ chút lòng mang ơn những
người lính VNCH, trong đó có cả triệu người đã hy sinh để những người như tác
giả có một tuổi thơ đẹp, không phải ăn bo bo, bị nhồi sọ bởi chính quyền và gia
đình tác giả cũng đã hưởng được những quyền sống căn bản trong 20 năm mặc dầu
miền Nam đang trong hoàn cảnh chiến tranh.
Người
viết không hiểu tại sao ông thạc sĩ Việt kiều này cần phải lấy điểm với chính
quyền CSVN đến độ đánh mất sự lương thiện của một người trí thức khi ông bóp
méo một sự kiện mà ai cũng biết. Mục sư Luther King quá nổi tiếng và mọi người
biết ông bị ám sát trước khi chuẩn bị lãnh đạo một cuộc đình công của công nhân
làm vật dụng vệ sinh. Thế nhưng ông thạc sĩ này bóp méo như sau: “Ngày
4/4/1968, mục sư King đã bị bắn chết trong khi diễn thuyết kêu gọi hòa bình và
chấm dứt cuộc chiến phi nghĩa ở Việt Nam” (tr.70).
Đối
với người viết, một người dù có phô trương bằng cấp hay khoe khoang thành tích
của mình đến đâu mà không có “common sense” (lý lẽ hiển nhiên) thì không phải
là một người giỏi.
Đọc
qua phần của tác giả viết về “Thương hiệu chất lượng “Made in Vietnam, Made in
world””, (VN có đủ khả năng để chế tạo những sản phẩm có chất lượng thế giới)
người đọc sẽ thấy cách suy nghĩ hơi lạ của ông thạc sĩ này.
“Năm
2001, khi sang Pháp sống và làm việc, hội nhập với cuộc sống ở Pháp và tôi có
tham gia vào một đội bóng địa phương. Một lần tôi vào một siêu thị ở Lyon để kiếm
đôi giày đá bóng. Tôi vẫn còn nhớ mình sửng sốt như thế nào trong cái siêu thị
đó. Đôi giày thứ nhất ‘made in China’ bán với giá 30 Eu, đôi giày thứ hai do
châu Âu sản xuất với giá 60-80 Eu, đôi giày thứ ba rất đẹp giá 190 Eu, làm cho
tôi rất thèm muốn có được vì nó đẹp và đường may rất tỉ mỉ, tôi mở ra và tôi sửng
sốt ‘made in Vietnam’. Một đôi giày đến từ Việt Nam lại được bày bán ở vị trí
sang trọng nhất và có chất lượng cao nhất! Giấc mơ chất lượng Việt Nam bắt đầu
từ đó: ‘Chúng ta hoàn toàn có thể làm được những sản phẩm tốt, chất lượng phù hợp
với tố chất của người Việt Nam nhưng vấn đề là chúng ta có tin là chúng ta là
được. Sự ngạc nhiên của tôi chính là vấn đề của tất cả chúng ta, chúng ta chưa
tin vào khả năng của chính mình. Nhưng sự thật để chứng minh, đôi giày đó là một
minh chứng là chúng ta có thể làm được.”
Trước
hết có nhiều vô lý trong trường hợp này. Ông không cho biết đôi giày 190 Eu,
‘Made in Vietnam’, hiệu gì? Thương hiệu của Việt Nam hay của ngoại quốc như
Adidas, Nike, Puma, Dunlop… gia công ở Việt Nam?
Nếu
là một thương hiệu của Việt Nam, không ai bỏ ra 190 Eu để mua một đôi giày “no
name”.
Nếu
là một thương hiệu ngoại quốc như Adidas, Nike, Puma, Dunlop… cũng khó tin. Những
hãng này mang sang những nước như Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Nam Dương chế
tạo vì giá thành rẻ. Trong trường hợp này không một khách hàng Âu Châu nào dại
đến độ bỏ ra số tiền mắc hơn gấp 3 lần để mua một đôi giày làm ở Việt Nam thay
vì một đôi giày làm ở Âu Châu.
Giả
sử lời ông Thái Hà đúng, thì đây chỉ là một trường hợp hết sức đặc biệt, không
thể lấy một trường hợp ngoại lệ để cho rằng Việt Nam có khả năng chế tạo hàng
chất lượng cao như Tây phương. Và cho dù làm được phẩm chất tốt, nhưng giá
thành cao như vậy, ai sẽ mua!!!
Báo
chí trong nước gần đây đã nói quá nhiều về chuyện Việt Nam không thể chế tạo được
vít, ốc đúng chất lượng, khiến cho những hãng xưỡng của Nhật, Hàn Quốc ở VN gặp
rất nhiều khó khăn. Ông Alan Phan là người hiểu rất rõ chất lượng sản phẩm của
Việt Nam vì ông sống lâu năm ở đó: “Do đó, khi các doanh nghiệp Việt lobby
chánh phủ bỏ tiền hỗ trợ quảng bá một “thương hiệu Việt”, tôi luôn nhăn mặt.
Đây là một lối “gánh vàng đi đổ sông Ngô”, chỉ lợi cho các công ty quảng cáo và
các quan chức điều hành chương trình”.(26)
Thật
sự là sau đọc qua bài viết của ông Thái Hòa, người viết không ngạc nhiên chút
nào - tại sao cho đến giờ này VN vẫn chưa sản xuất được vít ốc có chất lượng.
Nói
tóm lại, nội dung bài viết của ông thạc sĩ Việt kiều này, ngoài những lời phô
trương về thành tích của mình và chuyện đôi giày 190 euro, còn lại là những dự
kiến, tham vọng, ước mơ, các “tư duy chiến lược”… tức là những dự định sẽ làm
cho tương lai. Từ lời nói đến hành động là một khoảng rất xa, nhất là dưới chế
độ Cộng Sản. Gần 40 năm trước, ông Lê Duẫn đã từng nói: “Chúng ta sẽ đuổi kịp
Nhật trong 15, 20 năm và nhân dân ta sẽ đi trên thảm vàng” (27), còn thời nay
thì ông Hùng Cửu Long đã nói hộ ngay trong cuốn sách này: “Tôi tin 30 năm? 60
năm? 120 năm sau Việt Nam sẽ là vàng, sẽ là báu vật, sẽ là tinh hoa của nhân loại.”
(tr.391)
VIII. Tóm tắt một số
bài còn lại
-
Bài “Người thợ giày vui vẻ”, tác giả là Hồ Thị Hải Âu, đại diện cho “sự nghiệp
làm mẹ” nhưng viết về một thợ sửa giày ở Hà Nội, khéo tay, vui vẻ, tử tế với
khách hàng.
Đối
với thế giới Tây Phương, một người làm thương mại, ngoài chuyên môn, muốn khách
trở lại phải niềm nở, vui vẻ, tử tế… đó là chuyện đương nhiên. Tại sao lại coi
đó là một niềm tự hào dân tộc?
-
Bài “Đặt vấn đề cho sống còn phát triển Việt Nam” một bài ngắn của tác giả Hùng
Hữu Long, đại diện cho lãnh vực vàng, bạc, đá quý, viết giống như tác giả đang
trong cơn lên đồng. Từ ngữ “vàng” được nhắc đến khoảng 100 lần: “Đúng, chúng ta
phải là vàng, vàng của vũ trụ, vàng của thiên nhiên, vàng của nhân loại, vàng của
xã hội, vàng của thế giới, vàng của khu vực, vàng của đất nước, vàng của tư
duy, vàng của ký tưởng, vàng của chân lý, vàng của đạo đức, vàng của ý thức,
vàng của thị trường, vàng của lịch sử, vàng của tài chánh, vàng của pháp luận,
vàng của chính sách, vàng của tất cả…”.
“Chúng
ta từng có sức mạnh Hồ Chí Minh là vàng của tư tưởng, vàng đạo đức, vàng chân
lý, vàng lịch sử, vàng văn hóa…chính là bắt nguồn từ đoàn kết…
“Tôi
tin 30 năm? 60 năm? 120 năm sau Việt Nam sẽ là vàng, sẽ là báu vật, sẽ là tinh
hoa của nhân loại…
“Trong
tương lai sản phẩm vàng, sự kiện vàng, hành động vàng, con người vàng, lý tưởng
vàng, tư duy vàng, nhân cách vàng, niềm tin vàng cho Việt Nam vàng tương lai.
“Với
chiến dịch Hồ Chí Minh chúng ta đã thành công! Vậy tiếp theo Chiến dịch Hồ Chí
Minh vàng, chúng ta sẽ tiếp tục thành công mới. Việt Nam vàng, thành phố vàng,
tầm nhìn vàng, chiến lược vàng, khát vọng vàng, mục tiêu vàng…
“Chúng
ta hãy cùng nhau chung tay góp sức xây dựng Việt Nam vàng, Đảng vàng, Nhà nước vàng,
Thành phố vàng…”
Chỉ
có ở thời đại con cháu Hồ Chí Minh, một bài viết thuộc loại “nửa điên nửa
khùng” như thế mới được cho vào cuốn “Tôi tự hào là người Việt Nam”.
Bài
“Thành Hoàng làng Hạ”, tác giả là tiến sĩ Nguyễn Kim Hồng, Phó giáo sư đang dạy
Đại học Sư phạm TPHCM, đại diện cho lãnh vực giáo dục nhưng nội dung phản tinh
thần giáo dục.
Chuyện
kể làng Hạ đang sống yên lành, thế rồi “Không hiểu ma xui quỷ giục thế nào, cụ
Cả lại nghĩ ra cái việc làm tượng Thành Hoàng làng.” Muốn làm được việc này cụ
Cả phải nhờ đến thằng cháu, tên “Tư phệ” đang làm chức “viện trưởng tận trung
ương”, là một cán bộ CS tiêu biểu “làng đồn nó giàu có vì mai mối buôn bán đất
và dẫn mối quan chức”, thế rồi sau đó nhờ Tư Phệ làng có đầy đủ thủ tục, tài
chánh để thực hiện bức tượng. Trong lúc tượng chưa hoàn thành thì cụ Cả chết.
Ngày làm lễ dựng tượng, lúc vào hậu cung lạy tạ Thành Hoàng, chỉ có ông chủ lễ,
Tư Phệ và Từ Thọt (là người nông dân trẻ mới được giao cho chức Thủ Từ), thì một
cảnh hãi hùng xảy ra: “chủ lễ đã bị bức tượng đồng đè vỡ cả mặt, thân thể nát
nhừ, be bét máu, tắt thở ngay sau tiếng thét.”
Sau
đó tiếng đồn lan ra khắp nơi “Thành Hoàng Hạ linh thiêng lắm”, thế là khách đổ
về làng càng ngày càng đông, “nhiều dịch vụ đã mọc lên như như nấm: quán nước,
nhà hàng, nơi giữ xe và cả các quán karaoke nữa.” nhờ đó mà một số người kiếm
tiền khấm khá. Về cái chết của ông chủ lễ, chỉ có Từ Thọt biết nhưng “sống để bụng
chết mang theo”: “Chẳng ai biết thực hư bức tượng giờ thế nào, chỉ trừ Từ Thọt,
người duy nhất biết chuyện, thỉnh thoảng như người dở hơi nghêu ngao hát: trăm
năm bia đá thì mòn… Thọt đã quanh quẩn bên đám thợ đúc đồng cả tháng trời và
cũng là người đầu tiên thấy kẻ xấu số bị Thành Hoàng đè. Nhưng có cậy răng Từ
Thọt cũng chẳng nói ra…”. Đọc qua đến cuối câu chuyện thì ai cũng đoán được những
âm mưu mờ ám đằng sau cái chết của chủ lễ.
Đây
không phải là một chuyện ngắn dở (không biết là chuyện có thật hay giả tưởng),
nhưng hoàn toàn không phù hợp với tinh thần giáo dục. Một bài viết có nội dung
thư thế thì có gì để người Việt tự hào!
Thật
tình người viết không biết ông chủ biên chọn bài dựa trên tiêu chuẩn nào. Có những
bài không liên quan hoặc không trực tiếp liên quan đến đề tài của cuốn sách vẫn
có mặt, chẳng hạn như: “Thế nào là Phật tử?”, “Phẩm chất con người Việt thời
Lý-Trần”, “Nhà với người Việt”. Có những bài như truyện ngắn thì đúng hơn như
“Ngọn lửa”, “Thành Hoàng làng Hạ”, còn lại một số bài khác, bày tỏ niềm tự hào
dân tộc nhưng tất cả đều na ná như nhau, tự hào về Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường
Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung… những điều ai cũng đã biết, còn lại là những
niềm tự hào không có căn cứ.
IX. Kết luận:
Như
lời bà Bộ Trưởng Trần Thị Thanh Thanh nói với báo chí: “Cuốn sách này (Tôi tự
hào là người Việt Nam) cũng như những dự án sắp tới là cơ hội khơi dậy sức mạnh
dân tộc, khơi dậy những giá trị tiềm năng trong mỗi con người, để chúng ta có
niềm tin bước tiếp trên con đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. (28)
Đây
cũng là thông điệp mà đa số tác giả trong cuốn sách TTHLNVN muốn gởi đến người
đọc.
Không
phải bây giờ, mà kể từ khi đảng Cộng Sản có mặt ở VN, đề tài “tự hào dân tộc”
luôn được nhắc nhở thường xuyên trên các diễn đàn văn chương, kịch nghệ, âm nhạc,
báo chí... Những biểu ngữ treo khắp nơi và hệ thống loa công cộng có mặt từ
nông thôn đến thành thị, từ đường lớn đến ngõ hẻm, chỉ để phục vụ cho mục tiêu
tuyên truyền.
Sau
năm 1975, người ta có cảm tưởng như thế giới đang bước vào kỷ nguyên của Việt
Nam, say sưa trong chiến thắng, niềm tự hào dân tộc được khơi dậy mãnh liệt hơn
bao giờ hết: Việt Nam là lương tâm của thời đại, là dân tộc duy nhất đánh bại
hai đế quốc, là tấm gương cổ vũ nhân dân các nước đang bị áp bức. Đảng là đỉnh
cao trí tuệ, Đảng là đạo đức, là văn minh…
Bây
giờ các trí thức Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống đó bằng cuốn “Tôi tự
hào là người Việt Nam” và nhiều cuốn “tự hào” khác sẽ ra đời.
Theo
như cuốn sách này, người Việt Nam có nhiều thứ rất đáng để tự hào: Đất nước VN
được thiên nhiên ưu đãi, tài nguyên phong phú. Người Việt Nam là tinh hoa của
nhân loại, rất thông minh, cần cù, sáng tạo, thương người, nhân nghĩa… Việt Nam
có tất cả những yếu tố thuận lợi để trở thành trung tâm văn hóa, kinh tế, chính
trị của thế giới…
Nhưng
thực tế có đúng như vậy không?
Ngay
trong cuốn “Tôi tự hào là người Việt Nam”, tác giả Lương Hoài Nam đã trả lời phần
nào về mức độ đáng tin của cuốn sách này: “Ở các nước văn minh thì cả năm người
ta nói thẳng, nói thật, đến mức phải sinh ra “ngày Cá tháng Tư” để được quyền
nói xạo, nói dối mà lương tâm không bị cắn rứt. Còn ở ta thì nói-không-thật hoặc
không-nói-thật gần như trở thành một nếp sống, một nếp ứng xử, tương đối phổ biến,
rồi từ đó cũng làm-không-thật hoặc không-làm-thật. Có hiện tượng buồn cười: nhiều
bài viết của các cụ về hưu gây xôn xao dư luận, nhưng khi còn đương chức thì…
chẳng thấy các cụ viết như thế, nói như thế thì lúc đó ngại cấp trên. Cũng rất
con người thôi!” (tr.62).
Về
những “thành tích” của Việt Nam, tác giả Lương Hoài Nam nhận xét: “Trong toàn bộ
lịch sử của đất nước, Việt Nam chưa bao giờ được thế giới biết đến như một nước
giàu có, thịnh vượng… Với GPD hơn 50 tỉ/năm, Việt Nam vẫn là nền kinh tế nhỏ…
Bình quân thu nhập quốc dân trên đầu người trên 600 USD đặt Việt Nam vào danh
sách các nước nghèo trên thế giới… Trong lịch sử, Việt Nam chưa có một nhà công
nghiệp nào nổi tiếng thế giới… Việt Nam cũng chưa có gì đáng tự hào về khoa học…
Về giáo dục hiện nay của Việt Nam, rất buồn nhưng cũng phải nói: chúng ta đã
làm không biết bao nhiêu cuộc “thí điểm”, cho ra lò các “sản phẩm thí điểm” chẳng
ra làm sao… Có thể kể ra rất nhiều thứ khác mà đất nước chúng ta không có hoặc
có rất ít. (tr.60-61)
Những thống kê/nghiên
cứu của các cơ quan quốc tế(29) đánh giá về Việt Nam như sau:
-
Thu nhập bình quân đầu người: Việt Nam hạng 123/182
-
Tiêu chí cống hiến cho nhân loại VN xếp hạng: 124/125
-
Mức độ ô nhiễm: 102/124
-
Giáo dục (human development): 121/187
-
Bằng sáng chế: 108/130
-
Tham nhũng: 116/177
-
Tự do ngôn luận: 174/180
-
Phát triển xã hội: 72/76
-
Y tế: 160/190 v.v…
Nhìn
chung, VN nằm gần cuối bảng trong mọi lãnh vực.
Ngay
cả Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng thừa nhận: “Việt Nam vẫn là nước nghèo”(30).
Về tham nhũng thì chính những người lãnh đạo cao cấp nhất của VN cũng xem đây
là một quốc nạn, Chủ tịch Trương Tấn Sang mới đây phát biểu: “Nhiều cử tri
TP.HCM đã nói thẳng với tôi “một số cán bộ có ăn (hối lộ) thì cũng ăn vừa phải
thôi. Ăn hết như thế thì còn đâu để nhân dân ăn””(31).
Đó
là những sự thật về đất nước VN ngày nay mà thế giới đều biết và không ai có thể
chối cãi. Với những “thành tích” như thế, thử tưởng tượng vẫn có những người Việt
Nam tự hào với người ngoại quốc: “Chúng tôi tự hào là thông minh vào hạng “top
ten” của thế giới, người Việt chúng tôi đã phát minh ra máy ATM, chúng tôi có
Võ Nguyên Giáp là một trong 10 danh tướng xuất sắc nhất trong lịch sử thế giới,
chúng tôi đã lập được những kỷ lục thế giới như: tô hủ tiếu lớn nhất, bánh
chưng to nhất…”.
Một
đặc điểm khác trong cuốn “Tôi tự hào là người Việt Nam”, là mặc dầu có những
tác giả như Lương Hoài Nam nêu ra một cách tổng quát về những yếu kém của đất
nước VN, tác giả Trần Thiện Tùng nêu ra trường hợp nhiều người trẻ miền quê phải
bỏ học vì nghèo, tác giả Trần Đăng Tuấn nêu ra thực trạng nhiều trẻ em miền núi
vào mùa Đông rét gần 0 độ C mà không có áo ấm để mặc, không có thịt để ăn…
nhưng không người nào dám nêu câu hỏi: ai là người phải có trách nhiệm lớn nhất
cho những vấn nạn đó?.
Có một lối thoát nào
cho Việt Nam không?
Vào
năm 2012, hai học giả là Daron Acemoglu - Giáo sư kinh tế của Đại học MIT và
James A. Robinson là Giáo sư kinh tế và khoa học chính trị của Đại học Harvard
đã xuất bản tác phẩm “Why nations fail” (Tại sao một số quốc gia thất bại). Có
thể nói cho đến nay, đó là cuốn sách có giá trị cao nhất giải thích nguyên nhân
tại sao trên thế giới có những quốc gia giàu có và có những quốc gia nghèo khổ.
Sau
15 năm nghiên cứu, hai tác giả đã phân tích và đưa ra rất nhiều thí dụ cụ thể về
những thành công và thất bại của nhiều quốc gia trên thế giới trong lịch sử
2000 năm qua của nhân loại. Cuối cùng hai ông đi đến một kết luận đầy tự tin rằng
chỉ có một yếu tố duy nhất quyết định sự giàu-nghèo của một quốc gia – đó là thể
chế (institution). Một thể chế chính trị dân chủ sẽ sinh ra một thể chế kinh tế
tự do, tạo ra một sân chơi bình đẳng mọi người, người dân có động lực và điều
kiện thuận lợi để phát triển hết khả năng và quốc gia trở nên giàu có. Ngược lại
một thể chế chính trị độc tài sẽ nảy sinh ra một thể chế kinh tế khép kín, chỉ
ưu đãi cho một số người, giết chết mọi nguồn sáng tạo và kết quả chỉ có một thiểu
số giàu, còn lại đại số dân chúng thì nghèo khổ.
Trong
cuốn sách này, hai tác giả nhiều lần nhấn mạnh đến vai trò của “nhóm lợi ích”
(elite): Chế độ độc tài tự nó không thể tồn tài mà phải có một nhóm lợi ích hỗ
trợ. Hai thế lực này nương tựa vào nhau để tồn tại và cùng có lợi.
Đó
cũng là đang gì xảy ra tại Việt Nam, từ ngữ “nhóm lợi ích” được báo chí trong
nước gần đây nhắc đến rất nhiều.
Từ
những nghiên cứu của học giả Acemoglu và Robinson, cũng như những gì xảy ra tại
Việt Nam trong 60 năm qua, cho thấy ngày nào chế độ độc tài còn cai trị, ngày
đó Việt Nam không có hy vọng thoát ra được nghèo khổ và lạc hậu.
Nghèo
không phải chỉ đơn giản là sự thiếu thốn về vật chất. Những gì xảy ra ở
Singapore, Mỹ Lai, Thái Lan, Trung Quốc… và ngay trên quê hương Việt Nam cho thấy
nghèo khổ đi cùng với tủi nhục. Ngay cả dưới thời Pháp thuộc, phụ nữ Việt cũng
không phải chịu cảnh bị rao bán tại Trung Quốc với giá khoảng 8000 Mỹ kim như
những món hàng quảng cáo ở siêu thị. Và ngay tại quê hương mình những cô gái Việt
phải hy sinh phẩm giá cao quý nhất của người phụ nữ để cho những người đàn ông
ngoại quốc ngắm nghé lựa chọn như cảnh buôn bán nô lệ thời Trung Cổ.
Có
thời đại nào khốn nạn hơn thế nữa không!
Tệ
nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em Việt Nam ra nước ngoài đang trở thành một vấn nạn của
thế giới. Mới nhất đây một người đàn ông Úc, Michael Brosowski, 40 tuổi, đã cứu
hàng trăm cô gái Việt tuổi vị thành niên bị bán làm nô lệ tình dục ở Trung Quốc(32).
Những cô gái trẻ này chỉ được bán với giá dưới 1,000 Mỹ kim.
Những
nhà trí thức như chủ biên Nguyễn Mạnh Hùng sao không viết về những mảnh đời bất
hạnh đó, dù chỉ một lời chia sẻ trước nỗi đau chung của dân tộc thì vẫn có giá
trị hơn ngàn lời tâng bốc giả dối.
Thế
nhưng, cái bi kịch lớn nhất của đất nước VN hiện nay không phải là sự nghèo khổ
mà là con người mất khả năng suy nghĩ để phân biệt thiện-ác, thật-giả, tốt-xấu,
đúng-sai… Người dân bây giờ quá mệt mỏi và mất niềm tin đến mức không còn muốn
suy nghĩ gì khác ngoài chuyện cơm áo hằng ngày. Người ta an phận với những gì
mình đang có và chờ đợi một phép lạ xảy ra để đổi đời. Người ta tìm niềm vui mỗi
ngày ở rượu bia, thuốc lá, ma túy, sex, phim Hàn Quốc, những trận bóng đá… để
cho qua ngày tháng.
Chưa
bao giờ đạo đức của người Việt xuống thấp đến mức thảm hại như hiện nay. Cũng
chính từ cuốn “Tôi tự hào là người Việt Nam” cho biết: “Tranh chấp nhau một cái
ve chai mà trẻ nhỏ rút dao đâm nhau chết (dao luôn để sẵn trong người)? Về việc
người trong gia đình tranh chấp nhau vài chục centimét đất hàng rào mà gia đình
tan nát”, (tr.63), “Có những chuyện án tận lương tâm, không còn luân thường đạo
lý, mà thời gian trước không xảy ra, hiếm xảy ra, hoặc sẽ là chuyện động trời
thì nay cảm giác đã trở nên bình thường, như: có những người trẻ giết hại cha mẹ,
ông bà mình hoặc người khác chỉ vì mấy chục nghìn để chơi game, chỉ vì nhìn… đểu,
chỉ vì thấy mặt nó khó ưa…” (tr.196)
Tác
giả Lương Hoài Nam và Trần Thiện Tùng chỉ nói lên một phần nhỏ trong hàng ngàn
câu chuyện đáng buồn đang xảy ra trên đất nước. Chỉ trong mấy ngày Tết, báo chí
trong nước đưa tin, có hơn 35 ngàn vụ ẩu đả xảy ra trên toàn quốc, khiến cho
6500 người phải nhập viện và hơn 500 người chết.
Chính
vì con người mất khả năng phân biệt thiện-ác, thật-giả, tốt-xấu, đúng-sai đã dẫn
đến hiện tượng giết người công khai đang diễn ra ở VN.
Việt
Nam là một trong 5 nước có tỉ lệ phá thai cao nhất thế giới (300,000 vụ/năm)(33).
Đó là con số chính thức của chính quyền VN đưa ra, con số thật sự có thể còn
cao hơn nhiều.
Bào
thai không chỉ là mầm sống, mà là sinh mạng, khi chúng ta giết chết một mầm sống
cũng là đang giết chết chính con người chúng ta. Tính trung bình mỗi ngày có
hơn 800 đứa trẻ tại bị giết chết tại VN – một con số khủng khiếp. Tất cả các cuộc
chiến trên thế giới gần đây dù khốc liệt đến mấy cũng không có số thương vong
nhiều đến như thế.
Khi
một người xem việc giết một sinh mạnh như giết một con gà, con vịt thì người đó
có thể làm bất cứ điều gì. Khủng khiếp hơn nữa là cả chính quyền và xã hội xem
đó là chuyện bình thường. Những bản quảng cao công khai và tràn lan trên đất nước
đã nói lên sự mất nhân tính của con người VN hiện nay, và điều đó sẽ để lại những
hậu quả khủng khiếp trong tương lai. Đó không phải là một tệ nạn xã hội mà là một
tội ác, một vấn đề của lương tâm dân tộc (national consciousness).
Tại
sao người Việt có thể mất nhân tính đến như thế?
Khi
nói về thực trạng đạo đức xuống cấp tại VN ngày nay, nhà thơ Đỗ Trung Quân đã
có nhận xét ngắn nhất và chính xác nhất:
“Tôi chỉ xin tổng kết
bằng một câu, có thể rất hài hước nhưng hoàn toàn chính xác. Chúng ta cứ ngẫm
nghĩ chậm rãi, từ từ chúng ta sẽ thấy nó như thế nào. Đó là hàng chục năm nay
chúng ta mơ ước xây dựng thành công con người mới xã hội chủ nghĩa và khủng khiếp
thay chúng ta đã thành công.” (34)
“Con
người mới xã hội chủ nghĩa” sẽ là một nỗi ám ảnh kinh hoàng của người VN trong
nhiều thập niên sắp tới.
Trách nhiệm của tầng
lớp trí thức
Một
người VN còn thiết tha tới vận mệnh của đất nước sẽ cảm thấy một nỗi buồn đau
đáu sau khi đọc qua cuốn “Tôi tự hào là người Việt Nam” khi nghĩ đến vai trò của
người trí thức. Đọc lại lịch sử mới thấy, trong 60 năm qua, tất cả những tội ác
và những hành vi phản bội dân tộc của đảng CSVN đều có bàn tay góp sức của tầng
lớp trí thức.
Nông
dân tẩm thuốc độc vào thức ăn, rau cải chỉ vì họ thiếu hiểu biết và nghèo khổ,
nhưng người trí thức, cấu kết với chính quyền, tẩm thuốc độc vào đầu óc người
dân nhẹ dạ bằng những lời giả dối và những niềm tự hào không có thật, thì đáng
khinh bỉ hơn nhiều!
Cùng
đứng trước những thử thách của thời đại, những khúc quanh của lịch sử, trí thức
Nhật và trí thức Việt có thái độ hoàn toàn khác nhau. Trí thức Nhật luôn tự nhận
mình là đầu tàu, là xương sống của đất nước, là thành phần chủ lực chịu trách
nhiệm cho sự thịnh suy của quốc gia, họ được sinh ra để hoàn thành sứ mệnh được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác: “Đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về
trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ sức tri thức
này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dân cao trên trường quốc tế. Còn ngược lại,
nếu các bạn thua, thì chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới
con mắt của người Tây Phương.”(35)
Chỉ
vài tiếng đại bác của thuyền trưởng Mathew Perry bắn vào cảng Edo vào tháng
7/1853, đã làm cho trí thức Nhật Bản thức tỉnh – ngay sau đó kẻ đi Đông người
đi Tây, kẻ đi chính thức người trốn lậu lên tàu, tất cả đều mang chung một mục
đích là ra ngoại quốc học hỏi những văn minh tiến bộ để mang về canh tân đất nước.
Trăm người như một, từ vua đến quan, từ trí thức cho đến bình dân, tất cả dồn hết
mọi tâm huyết nỗ lực để làm sao không hổ thẹn là con cháu của Thần Dương Thái Nữ.
Chính
vì thế mà chỉ 2 năm sau khi Thuyền Trưởng Perry trở lại nước Nhật như lời hứa,
thì hoàn cảnh nước Nhật đã hoàn toàn thay đổi. Người Nhật đã chứng tỏ cho Tây
Phương thấy là họ không bao giờ chấp nhận thân phận nô lệ và họ có khả năng
canh tân đất nước lên ngang hàng với các nước Tây Phương.
Thật
ra hoàn cảnh của nước Nhật sau Đệ Nhị Thế Chiến cũng chưa bi đát bằng đất nước
VN hôm nay.
Giữa
đống tro tàn của kẻ bại trận vẫn tiềm ẩn những những tia sáng của niềm hy vọng.
Vật chất bị tàn phá nhưng ý chí, đạo đức con người vẫn còn. Trong hoàn cảnh đó,
người lãnh đạo của họ không ảo tưởng, không kêu gọi người Nhật ngẩng đầu trong
chiến bại, mà kêu gọi thần dân hãy quên đi niềm tự hào dân tộc: “phải chịu đựng
những gì mà chúng ta không thể chịu đựng nổi” (36) để xây dựng một tương lai
tươi sáng hơn cho các thế hệ mai sau.
Chính
tinh thần trách nhiệm, thái độ nhẫn nhục chịu đựng và ý chí vươn lên của dân tộc
Nhật Bản đã làm cho những người Mỹ như danh tướng MacArthur, Tiến sĩ Edward
Deming, Joseph Juran nể phục và cả 3 người này đã đem hết lòng ra giúp người Nhật
tái thiết đất nước.
Còn
đất nước VN hiện nay, trong những lời huênh hoang của kẻ chiến thắng, những ánh
đèn loe lói của cảnh hưởng thụ, những công trình to lớn, những biệt thự lộng lẫy…
tiềm ẩn hiểm họa vong thân, mất nước đang chờ đợi phía trước.
Người
Việt có thật thông minh và đáng nể như tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng nói không?
Cho
dù sống trong môi trường thuận lợi nhất như Mỹ, Úc, Canada, Pháp, Đức… người Việt
chưa bao giờ chứng tỏ là một sắc dân thông minh và có sức mạnh tập thể.
Ít
hiểu biết về người Tây Phương mới cho rằng người Việt giỏi, nhưng khi càng sống
lâu với họ và hiểu biết về thế giới của họ nhiều hơn thì người Việt càng thêm
dè dặt khi nói về niềm tự hào của người VN.
Người
Việt có tinh thần hiếu học, có tỉ lệ người có bằng đại học cao, một số người
làm kinh doanh thành công. Nhưng tất cả những yếu tố đó không nói lên sự thành
công và sức mạnh của tập thể. Sức mạnh của một tập thể không phải bao gồm nhiều
cá nhân giỏi mà là khả năng làm việc chung để tạo thành sức mạnh.
Bệnh
đố kỵ và chia rẽ đã ăn sâu trong máu xương, khiến cho cộng đồng người VN ở hải
ngoại chỉ làm được việc nhỏ mà không làm được việc lớn và nói chung không phải
là một cộng đồng được người bản xứ và các cộng đồng nể phục..
Lập
luận của tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng sinh viên VN rất thông minh, đạt điểm
rất cao ở bậc đại học – hoàn toàn vô căn cứ. Nếu vậy người Việt Nam phải có nhiều
khoa học gia nổi tiếng, ít nhất phải được vài giải thưởng Nobel hay những phát
minh hữu ích cho nhân loại. Chỉ thấy tiến sĩ Hùng nêu ra được một phát minh cướp
công của người khác “Người Việt Nam phát minh ra máy AMT”.
Trong
môi trường đại học, sinh viên Việt Nam chỉ thuộc hạng trung bình so với tất cả
những sắc dân khác. Sau khi ra trường, càng về lâu về dài, sinh viên VN càng thụt
lùi so với sinh viên Tây Phương và phần lớn chỉ lo kiếm tiền, ít có tính phiêu
lưu hay có lòng tốt đi làm từ thiện ở những xứ nghèo.
Những
yếu kém trên cũng là điều dễ hiểu. Người Tây Phương có nền văn minh cao hơn
chúng ta rất xa, cách họ xây dựng và tổ chức xã hội đã nói lên điều này. Họ
không chỉ hơn chúng ta ở phương diện kỹ thuật, mà còn ở phương diện tinh thần.
Tính chất văn minh đã ăn sâu vào nếp suy nghĩ của họ thể hiện qua cách hành xử.
Người Việt Nam ở hải ngoại, chỉ hy vọng ở thế hệ thứ hai, thứ ba mới bằng được
như người Tây Phương.
Về
những đóng góp cho thế giới, dân tộc Việt Nam còn một món nợ rất lớn đối với
nhân loại. Chúng ta đã thừa hưởng rất nhiều những thành tựu về khoa học, kỹ thuật,
văn hóa, tư tưởng, hội họa… nhưng chưa có một đóng góp gì đáng kể.
Chỉ
có thừa hưởng mà không có đóng góp vào tài sản chung của nhân loại thì khó có
thể nói dân tộc đó xứng đáng để tự hào trước cộng đồng thế giới.
Khi
nói về tự hào đối với thế giới, người Việt Nam chỉ nêu được những thành tích
chém giết như “thắng Pháp, thắng Mỹ”, “thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp”, “nhà
cách mạnh Hồ Chí Minh… biến Việt Nam trở thành dị hợm trong thế giới
văn minh ngày nay. Tại sao người Việt không nêu ra được những niềm tự hào văn
minh hơn, nhân bản hơn, hay bằng những chứng cớ cụ thể như xe hơi Nhật, máy móc
Đức, đồ điện tử Nam Hàn, đồng hồ Thụy Sĩ, mỹ phẩm Pháp, thời trang Ý, IT Mỹ…
Muốn
trở thành một quốc gia văn minh tiến bộ thì trước hết người VN phải quên đi những
những niềm tự hào sắt máu, giả tạo và tập sống như những con người bao dung,
hào hiệp, ngay thẳng, tử tế.
Và
có nên tự hào không khi đã bước vào thế kỷ 21 hơn một thập niên mà người VN vẫn
chưa được hưởng những quyền tự do căn bản. Khi một dân tộc chấp nhận từ bỏ tư
duy để sống như đàn cừu thì dân tộc đó chỉ là những thân phận nô lệ.
Điều
đáng nói hơn nữa là dân tộc VN chấp nhận làm nô lệ từ hơn 60 năm qua mà không
dám đứng lên đòi lại quyền làm người. Ngay cả một dân tộc từng được xem là loạn
lạc, nghèo khổ, kém văn minh nhất Phi Châu như Sierra Leone ngày nay vẫn khá
hơn VN nhiều, đã có bầu cử tự do và bắt đầu hình thành một chính quyền dân chủ(37).
Nói
tóm lại, khi đất nước không còn thuộc về dân, khi con người chưa sống với đúng
những giá trị mà Tạo Hóa ban cho: “Quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc” thì dân tộc đó không có lý do gì chính đáng để nói về “niềm tự hào
dân tộc”.
Ngẫm
nghĩ kỹ mới thấy tác hại của cái ngu thật khủng khiếp. Khủng khiếp hơn nữa là
ngu mà không biết mình ngu. Chính cái ngu đã làm cho con người mất khả năng suy
nghĩ để có thể tin vào những lời dối trá, chọn một chủ nghĩa ngu dân lãnh đạo
và trở thành nạn nhân của chính chủ nghĩa đó trong suốt 60 năm.
Nguyên
nhân “cũng bởi thằng dân ngu quá lợn” (38) cho nên chính quyền mới đè đầu cỡi cổ
được lâu như thế.
Trong
cuốn “Tự Phán” để ghi lại những kinh nghiệm của đời mình trước khi qua đời, cụ
Phan Bội Châu cũng nhắc đến ít nhất là 5 cái ngu của người Việt, trong đó có
cái ngu vọng tưởng: “Tôn sùng những điều xa hoa vô ích, bỏ bê những sự nghiệp
đáng làm, đó là điều rất ngu thứ hai.”(39)
Cụ
Phan Chu Trinh đem hết tâm huyết của đời mình để giúp dân tộc VN được khai hóa.
Theo cụ chúng ta mất nước chủ yếu không phải do ngoại bang mà do từ cái ngu mà
ra. Trong ba hoài bão mà cụ theo đuổi cả đời: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu
dân sinh, thì mục tiêu “khai dân trí” được xếp lên hàng đầu. Và đúng như lời nhận
xét của ông Hà Sĩ Phu: “Sinh thời, bao giờ Phan Châu Trinh cũng rất yêu mến bạn
bè và dân chúng, thế mà rất nhiều lần cụ phải nhắc đến chữ “ngu”, như nhắc đến
một kẻ thù nguy hiểm, không thể coi thường. Chính cụ cũng lấy chữ ngu ra để tự
răn mình”.(40)
Chỉ
tiếc cho những người như cụ Phan, hy sinh cả đời mong cho dân trí người Việt được
cao hơn, rồi từ đó tìm cách thoát ra khỏi thân phận nô lệ, cuối cùng bao nhiêu
tâm huyết như muối đổ biển. Một thế kỷ đã trôi qua nhưng những hoài bão của cụ
đối với dân tộc Việt Nam vẫn chỉ là những ước mơ!!!
Phạm Hoài Nam
Sydney
25/3/2015
---------------------
Ghi chú:
(1)
Hội những người là học trò của Thầy Nguyễn Mạnh Hùng
(2)
“Tôi tự hào là người Việt Nam”, Lao Động
(3)
“Con ngựa già của Chúa Trịnh”, Phùng Cung http://music.vietfun.com/trview.php?ID=8429&cat=13
(4)
Chuyển tử tế
(5)
Bệnh tự hào dân tộc của người Nga
Natalja
Kljutcharjova, Phạm Thị Hoài dịch
(6)
Bài diễn văn nổi tiếng của Putin 18/03/2014
(7)
Giấc mơ Trung Quốc: http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A5c_m%E1%BB%99ng_Trung_Qu%E1%BB%91c
(8)
“Đọc Giấc mơ Trung Hoa”
Tia
Sáng http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&News=4113&CategoryID=42
có biến thành ác mộng?”
(9)
‘Giấc mơ Trung Hoa’ có biến thành ác mộng?
(11)
(Automated Teller Machine –
History:http://en.wikipedia.org/wiki/Automated_teller_machine#History)
(12)
Đỗ Đức Cường (http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%97_%C4%90%E1%BB%A9c_C%C6%B0%E1%BB%9Dng
)
(13)
Khen quá lố, không nên!, Bùi Tín, 08/03/2015 http://www.voatiengviet.com/content/tuong-giap-03-13-2010-87577032/851267.html
(14)
Bàn về 10 vị tướng vĩ đại nhất của mọi thời đại
(15)
These ten charts show the black-white economic gap hasn’t budged in 50 years –
Washington Post, August 28, 2013 (http://www.washingtonpost.com/blogs/wonkblog/wp/2013/08/28/these-seven-charts-show-the-black-white-economic-gap-hasnt-budged-in-50-years/)
(16)
Giải cứu sáu cô gái Việt Nam ‘bị bóc lột tình dục’ ở Ghana
(18)
“Ấn tượng người Việt, người Hoa ở Thượng Hải” BBC tiếng Việt http://www.bbc.co.uk/blogs/legacy/vietnamese/2010/05/n-tng-thng-hi.html
(19)
Nhà văn Vũ Hạnh: Người ẩn danh sôi nổi - HỒNG MINH, Nhân Dân, 24/4/2010 (http://www.baomoi.com/Nha-van-Vu-Hanh-Nguoi-an-danh-soi-noi/152/4175975.epi)
(20)
Những người con của Danh tướng Võ Nguyên Giáp
(21)
Trịnh Văn Bô – Wikipedia (http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh_V%C4%83n_B%C3%B4)
(22)
Bên thắng cuộc – Huy Đức, trang 204-206
(23)
Lợi tức bình quân trên đầu người (GDP per capital) (http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_GDP_%28nominal%29_per_capita)
(24)
GIAI ĐOẠN 1955-1975: XÂY DỰNG CNXH VÀ ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
(25)
Bí ẩn Nguyễn Hữu Thái Hòa: Giấc mơ từ một đôi giầy đến Giám đốc chiến lược FPT
(26)
Từ bỏ quốc tịch, Alan Phan
(27)
Từ Nhật Bản hậu chiến đến Việt Nam hậu chiến: http://www.danchimviet.info/archives/72666/tu-nhat-ban-hau-chien-den-viet-nam-hau-chien-1/2013/01
(28)
“Tôi tự hào là người Việt Nam”, Lao Động
(29)
The Good Country Index
(30)
Thủ tướng: ‘Việt Nam vẫn là nước nghèo’
VNExpress,
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/thu-tuong-viet-nam-van-la-nuoc-ngheo-2712178.html
(31)
Chấp nhận đau đớn để chống tham nhũng thành công, Tuổi Trẻ, http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20120625/chap-nhan-dau-don-de-chong-tham-nhung-thanh-cong/498582.html
(32)
Aussie hero saving trafficked Vietnamese kids sold as sex slaves
(33)
300.000 ca/năm, tỉ lệ phá thai của VN cao nhất Đông Nam Á, Tuổi Trẻ online (http://tuoitre.vn/tin/song-khoe/20130711/300000-canam-ti-le-pha-thai-cua-vn-cao-nhat-dong-nam-a/558619.html
(34)
Sự khác nhau trong văn hóa ứng xử giữa Sài Gòn và Hà Nội
(35)
Khuyến học, Fukuzawa.
(36)
Bài diễn văn của Nhật Hoàng Hirority tuyên bố đầu hàng
(37)
“Người nông dân xứ Sierra Leone và trí thức nước CHXHCN Việt Nam”, Trần Trung Đạo).
http://danlambaovn.blogspot.com.au/2014/03/nguoi-nong-dan-xu-sierra-leone-va-tri.html
(38)
Thơ Tản Đà
(39)
Từ chuyện Nhật tố thói xấu Việt, xem lại “Tự phán”, (http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/167780/tu-chuyen-nhat-to-thoi-xau-viet--xem-lai--tu-phan-.html
(40)
Nhân vật lịch sử Phan Châu Trinh và những bài học cho hôm nay, Hà Sĩ Phu
No comments:
Post a Comment