Chủ
Nhật, ngày 26 tháng 4 năm 2015
1975
– 2015. 40 năm đã trôi qua! Đối với đời người, đó là một thời gian
dài. Biết bao nhiêu chuyện đã xẩy ra, thử nhìn lại quãng thời gian
đằng đẵng ấy, nhớ quên chồng chất lên nhau. Nhiều khi chuyện đáng nhớ
lại quên, và ngược lại.
Nhưng
thời thơ ấu thì nhớ lắm. Trí nhớ như những sợi dây mong manh bắt từ
hiện tại nối vào quá khứ. Những sợi dây có khi bị đứt đoạn, có khi
thẳng băng, có khi cuốn tròn, có khi thắt nút, có khi mòn mỏi phôi
pha. Tôi thử tháo gỡ, phanh phui những vùng tối trong ký ức, cũng gặp
được nhiều điều tưởng như đã rời bỏ tôi vĩnh viễn. Chẳng hạn vài ba
câu hát thật xưa: “Đời ta bao tươi vui như hoa hồng thắm ...”,
“Nắng trên khóm cây, xuân sáng ngời ...”, “Đoàn niên thiếu ta, hát đùa
vui suốt ngày ...” Cả mấy câu hát tiếng Bà Ngư (tiếng một bộ
tộc người Thượng vùng Đà Lạt) cũng tình cờ hiện lên dù tôi không
hiểu nghĩa, “Mạch non dù ni – Báng phí du xề non ...”,và
cả hình ảnh thằng bé con ở trần, đóng khố, mặt bôi lọ nghẹ, hai tay
chống nạnh, mông lắc, vừa co ro bước vì trời lạnh quá vừa hát mấy
câu trên theo tiếng vỗ tay của thầy dạy Nhạc. Thời thơ ấu đẹp. Oái ăm
thay, đấy cũng là thời gian ách đô hộ tàn bạo của Pháp đè nặng. Về
sau, trừ mấy năm thanh bình ngắn ngủi sau khi đất nước chia đôi và khi
Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam chưa ra đời, với tôi, với thế
hệ chúng tôi, toàn là những ngày máu lửa, chém giết, hận thù.
Bây
giờ thử nhớ lại những ngày của Tháng Tư 40 năm về trước. Quả đấy
là biến cố trọng đại nhất trong đời tôi, nó để lại những dấu ấn
rất đậm nét. Quá khứ dần dần hiện ra, có lúc nó xuất hiện nguyên
vẹn như ký ức về thời thơ ấu.
Trước
kia tôi dạy học. Theo lệnh động viên, tôi nhập ngũ, được dạy tại
Trường Sinh Ngữ Quân Đội, Sài Gòn sau một kỳ thi tuyển. Sau bốn năm,
được giải ngũ, làm việc cho Công Ty Dầu Hỏa Esso. Rồi tái ngũ, phục
vụ tại Phòng Dịch Thuật Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Được Esso xin biệt phái ngoại ngạch, làm việc tại đó cho đến khi
Miền Nam thất thủ.
Chiến
tranh càng tiến gần Sài Gòn, nhân viên người Mỹ tại Esso càng giảm
dần. Một vài người Việt cũng bỏ đi. Có một bạn đồng nghiệp, NTK,
trước kia du học tại Úc, mua tàu nhỏ tìm cách trốn khỏi Việt Nam để
đi Úc ngay từ đầu tháng Tư, 1975. Có lẽ đấy là thuyền nhân đầu tiên
của Việt Nam. Đó là lúc Vùng I, Vùng II chiến thuật đã mất gần
hết, Nha Trang gần như bỏ ngỏ, Quân Cảng Cam Ranh rúng động. Dân chúng
trốn Cộng Sản tìm đường vào Nam bằng mọi cách. Có người liều mạng
đu vào cần trực thăng đang cất cánh, có người lén chui vào ngăn chứa
bánh xe máy bay dân sự đã đầy nghẹt. Trên bộ thì xe cộ bò ngổn ngang
đầy đường, ai không xe thì gồng gánh, bồng nách, cõng trên lưng, đeo
lên vai, người tàn phế ngồi trên xe lăn, ùn ùn chạy. Ven biển thuyền
bè và cả tàu Hải Quân chở đầy khẳm người tỵ nạn tuôn về Vũng Tàu.
Trong cơn tuyệt vọng, một đơn vị nhỏ của Quân Đội đã nổi điên lên tàu
bắn phá.
Trước
tình huống đó, F.K., phụ trách Trương Mục Quốc Tế (International
Accounts Manager) của Esso tỏ vẻ rất ngạc nhiên, nhất là trường hợp
NTK trốn đi Úc. Trong một lần chuyện trò, F.K. nói với tôi rằng người
Việt với nhau cần gì phải lo sợ đến thế. Họ vào sẽ chung sống tử
tế với người Miền Nam, sẽ dùng tôi, dùng những bạn tôi, như những
chuyên gia. Anh ta là người Mỹ mới cần đi, nhưng sẽ không đi xa, có thể
trở lại Việt Nam không lâu. Anh sắp bay qua Thái Lan và làm việc cho
Esso bên đó. Rồi chúng ta lại liên lạc với nhau trên công việc như cũ,
anh nói. Tôi nhớ F.K. có vợ người Thái Lan, có nuôi hai con chó to lớn
lông đen nhánh. Anh nói thêm Bắc và Nam của nước Mỹ từng đánh nhau
khốc liệt trong hơn bốn năm. Bắc thắng, sau đó cùng Nam hàn gắn những
đổ vỡ.
Tôi
cho rằng F.K. nói đùa, hay nói để trấn an chúng tôi. Mỗi chiến tranh
mỗi khác, ai cũng biết, nhất là chiến tranh do người Cộng Sản chủ
trương. Họ đánh để chiếm đoạt, để xây dựng một Việt Nam theo đường
lối của họ mà chúng tôi không chấp nhận. Họ đã xây dựng những gì,
hủy hoại những gì?
Những
ngày của Tháng Tư, 1975! Lúc chiến tranh chưa kết thúc, dân tỵ nạn
chạy về Nam. Khi Miền Nam thua trận, họ hết đường chạy. Trong một
thời gian ngắn, thấy rằng không thể cùng tồn tại với Cộng Sản, một
số xông vào rừng núi Cambốt, Lào, Thái để vượt biên giới, đại đa số
thì bồng bềnh chìm nổi trong những chiếc thuyền con ọp ẹp trên
đại dương mênh mông để tới đâu thì tới, hoặc chết. Làm tôi liên tưởng
một chuyện lạ về một đàn chuột ở Phi Châu. Một đàn chuột rất dài,
dài đến cả ngàn mét, không hiểu vì lý do gì bỗng dưng bỏ nơi đang
sinh sống kéo nhau đi. Vượt đồng bằng, vượt đèo, vượt suối. Cuối
cùng hết đường, trước mặt là bờ vực, bên dưới bờ vực thăm thẳm là
biển. Đàn chuột đói, khát, đầy thương tích vẫn không chịu dừng lại.
Thế là rơi, rơi, rơi xuống biển. Cố gắng bơi. Đuối sức chìm nghỉm
hoặc bị cá đớp. Những con đi sau vẫn tiếp tục theo bước chân những
con đi trước. Cho đến khi tất cả đều “Làm Hôn Phối Với Đại Dương”. Số
kiếp người tỵ nạn Việt Nam vượt biển cũng thê thảm như thế đấy. Theo
ước tính của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, con số người thiệt mạng
có thể lên đến trên 300 ngàn. Số người mất tích cũng đến mức đó.
Những con số khủng khiếp!
Lại
nhớ thỉnh thoảng có tin một chị A cần một loại máu hay tủy hiếm hoi
gì đó để có thể thoát khỏi bàn tay của Tử Thần,hay một anh B trên
một du thuyền đang bị sóng gió đánh chìm, thế là cả thế giới xôn
xao, người hiến máu, hiến tuỷ đặc biệt, kẻ lái trực thăng, thuỷ phi
cơ tới cấp cứu. Lại nghĩ đến hàng trăm ngàn thuyền nhân Việt Nam vùi
thân xuống đáy biển, hay trong bụng cá, hay bị hải tặc tàn sát, loài
người im lặng. Rồi bàng hoàng. Mãi đến năm 1979 Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên
Hiệp Quốc cứu vớt thuyền nhân Việt Nam mới ra đời.
Thế
Miền Bắc thắng trận hành xử ra sao? Thoạt đầu trong một chuyến công
du tại Indonesia trả lời phỏng vấn, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng của họ
gọi thuyền nhân là bọn đĩ điếm, lưu manh, chạy theo liếm gót Mỹ. Khi
người tỵ nạn thành công ở nước ngoài gởi nhiều tiền của về giúp
thân nhân đói khổ, rất có lợi cho nền kinh tế đang kiệt quệ của họ,
họ thay đổi giọng điệu gọi đấy là khúc ruột ngoài ngàn dặm, là
Việt kiều yêu nước, và những chuyến vượt biên, vượt biển được xưng
tụng là cuộc di dân vĩ đại nhất chưa từng thấy trong lịch sử giống
nòi. Đồng thời họ tìm cách phá hủy những dấu tích mà người tỵ
nạn để lại trên một số đảo Nam Thái Bình Dương.
Rồi
họ tung ra sách lược “Quên quá khứ, xoá bỏ hận thù, hoà giải hoà
hợp dân tộc, chung sức xây dựng đất nước”. Nhưng đó là khẩu hiệu.
Trên thực tế, lời nói không đi đôi với việc làm. Bạo lực luôn luôn
được sử dụng để củng cố những gì họ đã chiếm đoạt, và trấn áp
quyết liệt những đòi hỏi dân chủ, nhân quyền. Cho nên người bất đồng
chính kiến, và Bên Thua Trận, nếu muốn, chỉ có thể tuân thủ mệnh
lệnh để gia nhập, một hành vi đầu hàng, chứ không hề có chuyện hoà hợp,
hoà giải. Và đấy cũng là lý do tại sao sau 40 năm Bên Thắng Trận
không thống nhất được lòng dân. Tôi không muốn dùng nhóm chữ Bên Thắng
Cuộc như có người đã gọi, vì thắng cuộc hàm ý đã giải quyết mọi
vấn đề.
Chưa
hết, họ có thể giỏi về mặt quân sự. Hoặc nhờ được hai nước Cộng
Sản khổng lồ Liên Xô và Trung Quốc tận tình viện trợ, kể cả mang
quân lính qua tiếp ứng như mới được tiết lộ, trong khi Miền Nam bị
Đồng Minh bỏ rơi, nên họ giành chiến thắng. Tuy nhiên, trên những lãnh
vực khác như kinh tế, giáo dục, văn học, nghệ thuật, văn hóa nói
chung[1] Bên Bại Trận đều chiếm ưu thế. Đó là chưa nói đến những yếu
tố khác không kém phần quan trọng: Miền Nam dân chủ hơn, nhân bản hơn,
văn minh hơn. Người dở khó điều khiển người giỏi; một tập thể lạc
hậu khó cai trị một tập thể tiến bộ. Cũng xin nói rõ rằng sở dĩ
có sự chênh lệch hơn thua nói trên là do ở sự điều hành của guồng
máy Cộng Sản tại Miền Bắc, chứ không phải do ở cá nhân con người
Việt Nam. Vậy họ phải làm gì để bình định? Chỉ có cách rất thô
bạo là bắt nhốt và đày đọa cả triệu người vào những trại tập
trung nằm rải rác khắp núi rừng, quậy nát xã hội Miền Nam, gây mâu
thuẫn và căm thù, tuyên truyền lừa gạt, dối trá, đồng thời hạ thấp
trình độ của Bên Thua Trận xuống ngang tầm của mình, hoặc thấp hơn,
cho dễ xoay xở. Chỉ xin lấy một ví dụ nhỏ về tư thế của người
thắng trận: những y tá trong rừng được dán nhãn hiệu y sĩ đứng ra
chỉ huy những y sĩ trong Nam đã được đào tạo kỹ càng, chu đáo, có
trình độ chuyên môn không kém những đồng nghiệp từ những nước tiên tiến
nhất trên thế giới.
Số
người chết trong tù không ít. Gia đình ly tán, xã hội băng hoại, oán
hờn chồng chất. Tất cả đều do người Cộng Sản gây nên. Đó là tội ác
bên cạnh nhiều tội ác khác, chẳng hạn du nhập một chủ thuyết ngoại
lai lỗi thời làm tan rã quê hương, đất nước; để ngoại bang chiếm đất,
chiếm biển; thẳng tay đàn áp người khác chánh kiến; vơ vét tài sản
của quốc gia, của nhân dân làm của riêng của phe nhóm v.v...
Thế
nhưng, như đã nói, kẻ gây tội ác mới đây vẫn còn cố tung ra Nghị
Quyết 36 với ý đồ hoà giải hoà hợp dân tộc vờ vĩnh, vì cũng chính
những ngưởi của họ tuyên bố rằng bên thua trận chẳng còn gì để mặc
cả, hoà hợp, hoà giải, được khoan hồng cho trở về với tổ quốc là
may mắn lắm rồi. Theo lẽ phải, lẽ công bằng, vấn đề đền tội có thể
được đặt ra. Tội ác và hình phạt gắn liền với nhau, đấy là công
lý. Nhưng ở nước ta, nghịch lý lấn áp công lý. Chỉ mong kẻ gây tội
ác sớm thức tỉnh.
Những
ngày của Tháng Tư, 1975! Cao Nguyên đã mất, Miền Trung đã mất, quân ta
cố thủ phòng tuyến Xuân Lộc, cứ điểm cuối cùng cách thủ đô Sài Gòn
42 km. Đánh lớn kể từ ngày 8 Tháng Tư ở Dầu Giây, Xuân Lộc, Long
Khánh giữa Sư Đoàn 18 và một số ít đơn vị tăng phái thiếu súng đạn
của ta chống với Cộng Quân được trang bị đầy đủ và đông gấp ba lần.
Đánh nhau dữ dội, dằng co, sức tiến như vũ bão của Cộng Quân bị
khựng lại.Tổng Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ, Tổng Thống Gerald Ford, trước
tình hình ấy, đã tuyên bố ông rất tin tưởng phần còn lại của Miền
Nam trong đó có Sài Gòn và hai Vùng Chiến Thuật III và IV sẽ
đứng vững, và xin Quốc Hội chuẩn chi viện trợ khẩn cấp cho
Việt Nam Cộng Hòa. Quốc Hội Mỹ bác bỏ. Một Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ
(Jacob Javits) còn tuyên bố rằng nên dùng số tiền lớn cho việc di tản
chứ đừng ly ra năm xu cho viện trợ quân sự (... large sums for evacuation,
but not one nickel for military aid). Đấy là cung cách của một đồng minh
đối với một đồng minh chăng? Mấy ngày sau Tổng Thống Gerald Ford tuyên
bố chiến tranh Việt Nam, đứng từ phía Hoa Kỳ, đã chấm dứt. Trong khi
đó quân ta vẫn quyết liệt chống trả những đợt tấn công khủng khiếp
của quân xâm lăng. Cầm cự như thế được 12 ngày, sư đoàn 18 của Tướng
Lê Minh Đảo được lệnh rút đi trấn giữ mặt trận khác. Long Khánh thất
thủ. Biên Hòa lâm nguy.
Sau
đấy là ác mộng. Cộng Sản bắn tiếng còn Thiệu thì không thể có
điều đình. Do đó ngày 21/4 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức với
một bài diễn văn nẩy lửa lên án sự bội bạc của Đồng Minh Mỹ, Phó
Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay. Cộng Sản lại không chấp thuận, bảo
rằng Hương có khác gì Thiệu, cho nên đến ngày 28/4 Tổng Thống Trần
Văn Hương phải bàn giao chính quyền cho Đại Tướng Dương Văn Minh, người
có một số quan hệ với Cộng Sản, mong “còn nước còn tát”, mong bám
vào cọng rơm trên dòng nước lũ. Ngày 30/4, xe tăng Cộng Sản húc sập
cổng Dinh Độc Lập tràn vào, Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh buông
súng đầu hàng. Và những câu đối đáp phũ phàng, khó quên. Người bại
trận: Tôi chờ từ sáng để bàn giao chánh quyền cho quý vị. Người
thắng trận: Không, không có chuyện bàn giao. Anh không thể bàn giao cái
anh không có.
Đấy
là trên chính trường. Thế còn ngoài đời?
Dân
từ Miền Trung, Cao Nguyên, Long Khánh chạy vào Sài Gòn; dân Sài Gòn
tuôn ra Vũng Tàu, một số hướng về Miền Tây, Lục Tỉnh. Ngày 24/4 Cộng
Sản nằm vùng dùng máy bay A-37 ném bom vài nơi trong thành phố. Ngày
27/4, đường Sài Gòn – Vũng Tàu bị cắt. Ngày 28/4 xác một xe tăng T-54
của Cộng Sản nằm trên đường Trương Minh Giảng gần Lăng Cha Cả. Ngày
29/4 Phi Trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích dữ dội, nhiều máy bay bị
kẹt trên phi đạo. Bến Bạch Đằng tràn ngập người muốn đào thoát,
hành lý ngổn ngang. Họ là những người được tin Hải Quân cho đi tỵ
nạn.
Tại
hãng Esso, tất cả nhân viên người Mỹ đều rời nhiệm sở, kể cả Tổng
Giám Đốc, đến tạm trú tại Singapore, Hồng Kông, Thái Lan. Cũng có kế
hoạch di tản bằng máy bay chia ra làm nhiều đợt cho nhân viên người
Việt, kết hợp với việc di tản của Ngân Hàng Chase Manhattan. Càng về
cuối tháng, số người đến sở làm càng thưa thớt. Đến cũng không có
việc làm, ngồi tụm năm tụm ba theo dõi tin tức trên các đài phát
thanh. Bàn tán xôn xao, hoang mang. Có người tìm được đường dây di tản
riêng, những người khác chờ đi theo chương trình của hãng. Một số ít,
rất ít, thản nhiên, gieo nghi ngờ này nọ. Cảm tình viên đấy chăng? Hay
dân nằm vùng? Cộng Sản vốn có thiên tài cài người mà. Và vẫn có
người tự trấn an rằng Mỹ đã tìm thấy mỏ dầu hỏa ngoài khơi nước
ta, đã ký hợp đồng khai thác, thì làm gì có chuyện bỏ rơi. Đây là
nước cờ cao, cố ý để mất đất dụ Cộng Sản xuất đầu lộ diện ra
khỏi rừng núi, và bỏ trống Miền Bắc. Rồi chỉ cần đổ bộ lên Hải
Phòng, chiếm Hà Nội, thế là xong chuyện. Chỉ có thế mới giải quyết
được cuộc chiến đã kéo dài quá lâu. Trong tuyệt vọng vẫn thường lóe
lên vài đốm nhang tàn.
Mấy
ngày cuối cùng Sài Gòn hỗn loạn, nhất là về đêm. Vắng bóng cảnh
sát. Cứ chập tối đã thấy bọn hôi của xông vào những cơ sở của Mỹ
bỏ ngỏ cướp lấy TV, tủ lạnh, quạt máy, và những đồ tế nhuyễn khác.
Trên những lề đường quanh đấy, bọn hôi của đẩy dài dài những cái tủ
sắt có bánh xe dùng đựng hồ sơ, những chiếc bàn sắt có bánh xe của
văn phòng, khua ầm ĩ. Tiếng súng nổ khá nhiều không biết của phe ta
hay phe địch. Những đám khói đây đó. Tiếng máy bay trực thăng chốc
chốc gào thét, trên nóc nhà cao tầng này trực thăng đáp xuống, trên
nóc nhà cao tầng kia trực thăng cất cánh. Người ta bảo đấy là trực
thăng đi bốc đợt chót những nhân vật quan trọng.
Nhưng
hai sự kiện sau đây cũng gây ấn tượng mạnh nơi tôi.
Trưa
ngày 28/4 tôi đang lái xe chạy trên đường Nguyễn Kim gần sân Vận Động
Cộng Hòa bỗng nghe từ xa, từ trên cao, dồn dập tiếng động cơ gào lên
khủng khiếp. Tôi hoảng hốt thắng xe lại. Ngay phía trên không gần mặt
đất, một máy bay loại vận tải đang lảo đảo bay, đuôi đã bị đứt, để
lại đằng sau một chuỗi khói đen ngòm dài, và chưa đầy một phút, nó
đâm vào một toà nhà cao tầng. Một tiếng nổ vang trời tiếp theo sau
ánh lửa đỏ lóe lên sáng rực trong đám khói mù mịt. Có bao nhiêu
người trong chiếc máy bay ấy, tôi tự hỏi, và họ có kịp nghĩ gì
trong giây phút cuối cùng đó? Chiều ngày 29/4 trên đường Nguyễn Thiện
Thuật từ phía đường Hồng Thập Tự hướng về đường Phan Thanh Giản,
thuộc khu Bàn Cờ, một xe bọc sắt của Dù hoặc Thuỷ Quân Lục Chiến
chạy len giữa đám đông dân chúng đổ ra đầy đường, kẻ sững sờ nhìn,
người tò mò chạy theo. Vì thế xe không thể chạy nhanh được. Hai người
lính ngồi trên nóc xe đâu lưng vào nhau ghìm súng chĩa bên này, chỉa
bên kia, mặt rắn lại, mắt nhìn quanh trừng trừng. Có lẽ họ sợ có
Việt Cộng trong đám đông trên đường. Tôi nhìn ngóng theo xe, lo ngại
những chuyện bi thảm có thể xẩy ra. Xe chạy đến đường Phan Thanh Giản
thì rẽ trái hướng về Ngã Bảy Chợ Lớn. Tôi đứng yên lắng nghe. Không
có tiếng súng nổ. Thế là họ đã an toàn chạy tiếp. Nhưng tôi tự hỏi
chiếc xe độc nhất đó sẽ chạy được bao lâu, về đâu.
Sáng
30/4 nhằm ngày Thứ Tư trong tuần nhưng mấy đứa con của chúng tôi không
đến trường ngủ nướng trên giường của chúng, người chị vợ loay hoay
làm gì đó ở nhà dưới, tôi không đến sở làm, cùng vợ ngồi nghe
ra-đi-ô theo dõi tình hình, đài Sài Gòn, đài Quân Đội, đài VOA, và nhất
là đài BBC. Toàn là những tin tức không muốn nghe. Lại có tin tối
vừa rồi Cộng Sản bắn đại pháo, sơn pháo vào khu dân cư Ngã Năm Bình
Hòa, nhiều người trúng đạn chết nằm la liệt, số bị thương càng
nhiều hơn.
Ngôi
nhà chúng tôi rộng hẳn ra vì gia đình người em họ của tôi từ Nha
Trang chạy vào lánh nạn đã dọn đi hôm qua tiếp tục tìm nơi lánh nạn
khác. Trước mặt nhà có nhiều tiếng rì rầm, dường như có cả một
đoàn xe di chuyển từ từ, rồi đậu lại. Phòng ngủ của chúng tôi nằm
trên lầu nhìn ra con đường khá lớn trong cư xá. Tôi không mở cửa sổ,
cửa lớn vào buổi sáng cho nắng tràn vào như mọi khi. Vợ tôi thì
thầm thôi thế là hết, tôi lặng người, khi nghe Tổng Thống Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng. Trời chuyển dông lớn rồi đổ cơn mưa ào ào
trái mùa.
Bên
ngoài nhiều tiếng nói xì xào, văng vẳng vài ba tiếng lẻ tẻ hoan hô
quân giải phóng, hoan hô quân giải phóng. Chúng tôi quên bữa ăn sáng,
tụi nhỏ háu đói cũng im lặng, không dám nhắc. Buổi trưa chúng tôi ăn
uống qua loa, loay hoay không biết làm gì, chưa bước chân ra khỏi nhà.
Cửa lớn nhà dưới chưa mở, cửa sổ và cửa lớn của tầng trên cũng
đóng kín. Cuối cùng vợ tôi nói trước sau gì mình cũng phải mở cửa
ra chứ, lỡ vì cửa đóng mà có chuyện không hay xẩy ra sao. Thì mở.
Ngay trước mặt nhà tôi là những quân xa kiểu Trung Cộng chở đầy lính,
họ ngồi trên hai hàng ghế dọc theo hông xe. Lính trẻ quá, khoảng 16,
17 tuổi, đầu đội nón tai bèo, quân phục dài, rộng, luộm thuộm, chân
mang dép râu, tay ôm súng AK, mặt mày non nớt, ngơ ngác, ngây dại. Tôi
hiểu ra ngay. Lực lượng chính quy của Cộng quân chắc chắn đang hờm
súng nằm chờ ở những nơi nào đó, và giao việc đi thăm dò trước cho
những lính trẻ con này. Và cũng có thể đó là thường dân nguỵ trang
làm lính chăng?
Suốt
ngày cũng như đêm 30/4 chúng tôi không đi ra khỏi cửa. Thế là Chương
Trình Di Tản của Esso đã không thực hiện được. Trong khi đó chúng tôi
cũng đã tìm những cách thoát ly riêng, đều thất bại. Một người bạn
thân của tôi, BXN, Bác Sĩ Trưởng Bệnh Viện Cao Bá Nhạ Quận Ba, Sài
Gòn có em vợ là Đại Úy Hải Quân HMG, rủ tôi đào thoát theo đường
biển ngã Gò Công. Tôi bằng lòng ngay. Khoảng 3 giờ chiều tôi được tin
sáng ngày mai 1/5 phải trình diện tại sở làm, và hôm sau sẽ tiếp
tục làm việc như bình thường. Tôi vội vàng liên lạc với BXN hẹn ngày
mai 1/5, sau khi tôi đi trình diện tại Esso, hai gia đình chúng tôi
sẽ lái xe xuống Gò Công nơi đó có HMG đợi sẵn để cùng xuống một
chiếc thuyền nhỏ trên bãi biển Tân Thành, từ đó sẽ tìm cách ra
ngoài hải phận tìm tàu lớn.
Tối
30/4 chúng tôi sắp xếp hành lý vào hai chiếc va - li và cho vào xe
hơi. Lũ con còn nhỏ quá ngơ ngác không biết chuyện gì sắp xẩy ra, bà
chị vợ thì không chịu vượt biển cùng chúng tôi nhưng sẽ theo xe tiễn
đưa. Sáng 1/5 tôi đến sở trình diện, khoảng sau 10 giờ tôi vội trở về
nhà. BXN chờ không được đã đi trước, hẹn gặp nhau ở Gò Công. Cả nhà
đã sẵn sàng. Không kịp ăn sáng, tôi lên xe ngay, cầm tay lái.
Có
hai đường từ Sài Gòn đi Gò Công. Chạy xuống Phú Lâm, qua sông Vàm Cỏ
Đông, Vàm Cỏ Tây, đi một mạch về Ngã Ba Trung Lương, rẽ trái vô Mỹ
Tho, vòng qua Chợ Gạo, đến Gò Công. Con đường này rộng, tốt, nhưng xa.
Hoặc chạy xuống cầu Nhị Thiên Đường, đến cầu Chà Và rồi cầu Ông
Thình, hướng về Cần Giuộc, Cần Đước, Cầu Nổi, qua Kinh Nước Mặn,
rồi lên phà qua sông Cửu Long, thế là đến địa phận Gò Công. Đường
này rất gần nhưng phải qua phà. Chẳng biết có phà đưa hay không trong
những ngày đầy biến động này. Tôi đánh liều chọn lộ trình thứ hai.
Đường
đi vắng vẻ. Chúng tôi không gặp một xe nào chạy cùng chiều hay ngược
chiều. Xe hai bánh cũng chỉ lác đác. Người dân quê đang lo ngại, ở yên
trong nhà nghe ngóng, chờ đợi. Qua khỏi cầu Ông Thình chúng tôi gặp
một toán lính khoảng 30 người đi hướng về phía Cần Giuộc. Họ đi bộ
hàng một, súng đeo vai, người dẫn đầu cầm cờ Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam. Tôi bấm còi xe, họ thủng thẳng nép ra bên đường, đầu cúi
gầm. Trông họ rất giống như những người lính trẻ trên quân xa đậu
trước nhà tôi hôm qua. Có thể chỉ vài ba toán lính như thế đã được
luân lưu đi nhiều nơi của Sài Gòn và phụ cận. Nếu gặp tàn quân Miền
Nam phục kích, loại lính trẻ ấy là những người hy sinh trước tiên.
Gần một tiếng sau, chúng tôi đến bến phà qua sông Cửu Long.
May
quá có phà đưa. Chúng tôi rất ngạc nhiên thấy chiếc xe Jeep của BXN
nằm ở một bên bến phà, không có ai trên xe. Họ đâu cả? Hỏi những
người quanh đấy, và những người đưa phà, không ai biết gì hơn. Chúng
tôi lo lắng nhưng cũng đành lái xe lên phà. Sông nước mênh mông tràn
trề phản chiếu nắng trưa, thỉnh thoảng gió giật mạnh, sóng lớn như
sóng biển khơi tung vào mạn chiếc phà làm ướt đẫm những người đứng
kề lan can mải miết nhìn phía trước. Không ai nói với ai một lời.
Lục bình xanh lốm đốm hoa tím nhạt cụm dài cụm ngắn từ xa tít tắp
ở cuối trời lênh đênh như chìm nổi trôi trên sóng xuống phía hạ lưu.
Nhìn lui, mái nhà nâu, đỏ, cây lá biếc, xanh đã biến thành những vết
nhòe và mờ dần. Phải chăng đây là lần cuối cùng mình được nhìn
thấy chặng đường mình vừa đi qua? Lòng bỗng phiền muộn. Chẳng bao lâu
bờ bên kia của sông Cửu Long hiện ra, chúng tôi vội vàng lên xe
chạy từ từ rời khỏi chiếc phà đã được neo lại. Từ đấy đến chỗ
hẹn là khu chợ Gò Công mất gần nửa tiếng.
Khu
chợ cũng không đông. Có khá nhiều tiệm ăn của người Tàu quanh chợ.
Đói quá, chúng tôi vào một tiệm gọi hoành thánh, bánh bao, xíu mại
– những món nổi tiếng ngon của Gò Công. Có lẽ vẫn ngon và rẻ, tôi
không để ý. Gò Công yên tĩnh, có vẻ như chưa đổi chủ, tuy trên khuôn
mặt mọi người đều nhuốm lo âu. Chúng tôi kêu thêm cà phê uống chậm
rãi, ngồi đó chờ rất lâu, không thấy tăm hơi của bạn tôi đâu cả. Tôi
đi quanh quẩn tìm. Càng thất vọng và lo cho gia đình bạn. Chờ mãi
không được, đến chiều chúng tôi phải quay trở về nhà theo đường cũ.
Tôi đã tính nếu vì trễ giờ phà hết đưa, tôi sẽ chạy vòng ngã Chợ
Gạo, Mỹ Tho. Thì khuya cũng sẽ đến ngôi nhà cũ của mình, ngôi nhà
mình đã ở trên 10 năm với nhiều kỷ niệm, sẽ thấy lại bàn thờ tổ
tiên trên đó có bức hình của mẹ tôi mới mất, và sẽ gặp lại hai con
mèo, một con chó. Chúng sẽ mừng lắm. Thật ra chúng tôi không bỏ rơi
chúng. Nếu chúng tôi đi thoát, bà chị vợ cũng sẽ về với chúng. Khi
mọi người lên lại xe, chị khóc nức nở vì vui sướng. Mấy hôm nay chị
nín thinh. Chị rất lo sợ cho chuyến đi liều lĩnh và đầy bất trắc
của chúng tôi, chị bảo thế.
Nếu
cần phải nói thêm vài lời, trước hết xin trở lại với bạn tôi, BXN.
Hai
hôm sau tôi liên lạc được với BXN. Thì ra khi đến bến phà, bạn tôi
không lên phà được vì phà đầy. Thấy trên phà có cả xe đò Sài Gòn -
Gò Công, BXN và gia đình liền bỏ lại xe hơi của mình trên bến, theo
lên xe đò vì ngại HMG phải chờ lâu. Không tìm thấy HMG, BXN quay trở
lại phà, thấy chiếc xe Jeep vẫn còn đó, lái về Sài Gòn. Trong khi
đó HMG đậu thuyền chờ đến hai ngày trên bãi biển Tân Thành cách thị
xã 5km. Trong cơn bối rối, họ hẹn sai chỗ. Mấy ngày sau BXN trở lại
Bệnh Viện, tôi cũng trở lại Esso. Sau đó BXN và tôi, theo lệnh của Ủy
Ban Quân Quản, hẹn nhau trình diện “Học Tập Cải Tạo” tại cùng một
địa điểm, cho có bạn. Sau hơn hai năm tù, vì là bác sĩ, BXN
được thả về sớm, làm việc tại Bệnh Viện Sùng Chính, Sài Gòn trước
khi vượt biển thành công, nay định cư tại Canada. Tôi thì sau hơn ba năm
tù, về nhà thoạt tiên không có việc làm phải đi “lao động tổng quát”
(phụ thợ hồ, mang gạch cho thợ hồ xây nhà) một thời gian, vượt biên
ba lần đều thất bại. Về sau dạy học tại các Trung Tâm Sinh Ngữ và
bốn năm tại Trường Cao Đẳng Sư Phạm Sài Gòn, rồi đi Mỹ theo diện HO
(sĩ quan biệt phái ngoại ngạch). Trong thời gian tôi dạy học, một hôm
Phường yêu cầu tôi lên Tây Ninh đốt củi làm than vì tôi từng làm việc
cho hãng Esso, tất nhiên có kinh nghiệm về nhiên liệu. Cứ hai tháng tôi
sẽ được về thăm gia đình một lần. Tôi xuất trình tờ Hợp Đồng dạy
học tại Trường Cao Đẳng Sư Phạm nên được miễn đi làm than.
Và
thêm vài dòng về đêm 30/4/1975 của chúng tôi. Sau bữa ăn tối qua loa,
chị vợ và vợ tôi bàn bạc thật sôi nổi. Lũ con đã ngủ. Mang theo mấy
chiếc va - li đây? Hai chiếc thôi. Chạy giặc mà, chứ đâu phải đi du
lịch. Rồi lên lầu, xuống lầu lục lọi; chạy ra phòng trước, chạy vào
phòng sau tìm kiếm. Đem cái này, bỏ cái nọ, thêm cái kia, bớt cái
khác, phân vân hoài. Thỉnh thoảng liếc mắt nhìn tôi, tôi lắc đầu ngầm
bảo rằng hai chị em muốn làm gì thì làm, tôi không có ý kiến. Họ
làm việc luôn tay, chăm chút, hăng hái, gọn gàng. Đàn bà tài thật,
trong hoàn cảnh nào họ cũng không buông xuôi, tôi chợt nghĩ ra. Mấy hôm
nay đêm nào tôi cũng thức đến ba, bốn giờ sáng, để chả làm được gì
cả. Đêm nay mọi chuyện đã ngã ngũ, một cách thảm hại, phải chuẩn
bị ra đi, tôi lại trở chứng, buồn ngủ quá chừng. Rồi ngồi ngủ từng
giấc ngắn trên chiếc ghế dài, choàng hai tay ra sau làm gối. Tiếng
khua động của đồ đạc, tiếng xếp áo quần sột soạt, tiếng nói lúc to
lúc nhỏ, và có cả tiếng cười khe khẽ thỉnh thoảng đi vào giấc ngủ
chập chờn của tôi. Khiến tôi lơ mơ thoáng có ý nghĩ rằng đàn bà tài
thật mà cũng lạ thật, trong tình huống này vẫn có thể cười.
Bỗng
mọi âm thanh, tiếng động, đều ngưng bặt. Cái im lặng đột ngột làm tôi
tỉnh giấc trở mình mở mắt ngó dáo dác. Rồi tôi kín đáo nhìn. Hai
chị em đang ngồi xệp trên sàn nhà đối diện nhau qua một chiếc va - ly,
tần ngần. Bốn bàn tay đang cầm bốn góc lá cờ, nước mắt cả hai
người ràn rụa. Tôi vờ ngủ tiếp nhưng cũng kịp nhìn thấy lá cờ sau
đó được xếp làm hai, rồi làm bốn. Vợ tôi lấy ra hết các thứ trong
chiếc va - li nằm trước mặt, rồi đặt lá cờ vào đáy va- li, xong cho
các thứ vào lại./
[1]
Xin xem “Miền Nam và Miền Bắc”- Nguyễn Hưng Quốc (Diễn Đàn Thế Kỷ
26-3-2015)
No comments:
Post a Comment