02:18:am
25/04/15
Tiếng
hát của tử thần đã chiếm lĩnh những con đường đi về nơi đất nước. (Cánh Thiên
Nga – Tagore)
*
Bốn
mươi năm trước, trong giờ khắc hấp hối khi quân đội miền Nam đã tan vỡ, dinh Độc
Lập đã thất thủ thì ngôi trường thiếu sinh quân nhỏ bé tại Vũng Tàu vẫn đứng vững,
oanh liệt giữa tiếng súng kháng cự trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam.
Nhắc lại câu chuyện này tôi muốn mở đầu một chuỗi những mẩu chuyện về cách hành
xử đáng kính của những người trẻ trong các tình huống vô vọng mà tôi cho đó là
nhân cách, là di sản của dân tộc Việt. Một điều mà chúng ta phải nhìn nhận là
trong xã hội hiện nay di sản đó đang tiêu hao, mòn mỏi từng ngày.
Vào
những ngày cuối tháng tư năm 1975, trường Thiếu Sinh Quân chỉ còn lại khoảng
hơn 100 học sinh ở độ tuổi từ 8 đến 17. Những em này do nhà ở các tỉnh xa nên
gia đình chưa đón về kịp. Khi được ban quản trị thông báo là các em phải tự lo
cho chính mình, nhà trường đã hết trách nhiệm với các em; thoạt đầu, như đám gà
con mất mẹ, bọn trẻ đã hoảng loạn, sợ hãi, bỏ chạy tứ tán. Thế nhưng cuối cùng,
những đứa trẻ chưa thành người lính này đã tập họp lại, và đã đánh trả khi bộ đội
Bắc Việt cho một tiểu đoàn quân chính qui tiến chiếm ngôi trường thân yêu của
các em. Trận đánh kéo dài suốt sáu tiếng đồng hồ, cho đến khi các em nhận được
tin Sài Gòn đã đầu hàng theo lịnh của tướng Dương Văn Minh. Để bảo toàn mạng sống
cho cả trường, các em lớp 12 đã quyết định ngưng bắn đầu hàng. Không muốn để
quân đội Bắc Việt làm nhục lá Quốc Kỳ, các em đã yêu cầu được làm lễ hạ Kỳ trước
khi kéo cờ trắng đầu hàng. Một buổi lễ chào cờ cuối, đẫm lệ đã diễn ra trong bầu
không khí trang nghiêm.
Như
thường lệ, hai thiếu sinh quân lớp lớn đã tiến ra trước sân cỏ. Các thiếu sinh
quân tuổi từ tám đến mười bảy tập họp thành hai tiểu đoàn. Tất cả đứng nghiêm
trước cột cờ, bắt súng chào và làm lễ hạ Kỳ đúng theo lễ nghi quân cách. Đó là
buổi lễ chào cờ cuối cùng, các em hát quốc ca với những khuôn mặt đầm đìa nước
mắt. Vừa mới hôm qua, dưới ngọn cờ này các em đã được học tập, được đào tạo để
mai kia trở thành những người lính sẵn sàng ngã xuống dưới ngọn cờ để bảo vệ tổ
quốc.
Hôm
nay mọi việc đã đổi thay! Không ai có thể biết tâm trạng của các em lúc đó ra
sao? Khi bài hát chấm dứt và khi lệnh tan hàng của một em liên lớp 12 ban ra,
thình lình những đứa trẻ oà lên khóc, rồi cứ thế chúng ôm lấy nhau khóc nức nở!
Cùng
lúc đó ở ngoại quốc, bản tin về Sài Gòn thất thủ đến với các sinh viên VN du học
như sét đánh ngang tai. Chị Bùi thị Bạch Phượng một du học sinh tại Đức đã chia
sẻ trong một bài viết của chị: “Tin khủng khiếp đến lúc trời còn tờ mờ
tối, sau một đêm khắc khoải, mất ngủ vì lo âu. Hồn tôi chơi vơi trong một khoảng
không nào đó, đôi bàn chân hình như đã lìa mặt đất, đầu óc trống trải, mông
lung. Ðến sáng hôm sau, bọn chúng tôi vào giảng đường đại học, tìm chút hơi ấm
từ bạn bè cùng chí hướng, nhìn nhau trong ngấn lệ, không biết chảy ra tự lúc
nào”.
Tại
Pháp, như đoán trước định mệnh của đất nước, ba ngày trước khi miền nam mất,
sinh viên Trần Văn Bá cùng Tổng Hội sinh viên Paris đã tổ chức “Ngày để tang
cho chiến sĩ”. Trên đường phố Paris, gần 300 sinh viên du học đã đi tuần hành
trong im lặng. Đầu chít khăn tang trắng, họ lặng lẽ đi qua các đường phố của
khu Latin rồi đứng lại trước tòa Đại Sứ Mỹ tại công trường Concorde để phản đối
sự bội bạc của người Mỹ trong chiến cuộc Việt Nam!
Miền
Nam mất, những sinh viên du học như những đứa con côi cút mất lối về. Giấy
thông hành của họ do chính phủ VNCH cung cấp coi như hết hiệu lực, tất cả đều
phải xin thông hành tị nạn. Nhiều sinh viên ở Đức, ở Pháp đã kể lại cảm giác
đau thương khi phải cầm cuốn sổ thông hành mới với hàng chữ “Vô tổ quốc”. Tuy
nhiên, những người trẻ bơ vơ này chưa bao giờ coi mình là những người vô tổ quốc.
Mỗi năm, vào dịp 30/4 các sinh viên này đã họp nhau lại, cùng thức sáng đêm để
đi dán bích chương. Cùng nhau tổ chức những đêm không ngủ và những buổi hội thảo
về tình hình đất nước, về thảm trạng thuyền nhân…
Vào
đầu xuân năm 1976, Trần Văn Bá và các sinh viên thuộc Tổng Hội sinh viên Paris
đã cùng nhau tổ chức Tết tại Hội Trường Palais de la Mutualité với chủ đề “Ta
Còn Sống Đây”. Nhiều anh chị sinh viên đã bồi hồi kể lại nỗi xúc động của họ
trong đêm đó. Hàng ngàn người có mặt đã rơi lệ khi nghe sinh viên Trần Văn Bá cất
tiếng hát lớn bài hát “Hồn Tử Sĩ”. Lịch sử đã sang trang, thế giới đã quay mặt,
quê hương đã mất dấu; nhưng xương máu và những hy sinh của các thế hệ cha anh vẫn
luôn hiện hữu và là ngọn đuốc soi đường cho thế hệ trẻ. Khơi dậy được tình yêu
nồng nàn đối với tổ quốc trong lòng những sinh viên VN, Trần Văn Bá đã trở
thành linh hồn của lớp người trẻ tị nạn.
Ông
Võ Văn Kiệt có câu nói nổi tiếng về ngày 30/4: “có triệu người vui mà cũng có
triệu người buồn.” Tuy nhiên, trong triệu người buồn đó, đa số đã ôm hy vọng và
ước mơ về một cuộc sống mới thanh bình và tốt đẹp hơn cho người dân cả hai miền
bởi chiến tranh đã kéo dài quá lâu. Nhưng thực tế diễn ra sau đó hoàn toàn ngược
lại, thảm trạng của thuyền nhân, tù cải tạo, kinh tế mới và cả một thế hệ thanh
niên bị đẩy vào cuộc chiến vô vọng bên Cam Pu Chia…Tất cả những thảm cảnh trên
không ngừng ray rứt tâm trí của người Việt tha hương. Ngay đến tận ngày hôm nay
sau 40 năm, sự gắn bó sâu nặng với đất nước của đa số người Việt vẫn được nhìn
thấy qua sinh hoạt thường ngày: sống ở nước ngoài người Việt vẫn theo dõi tin tức
tại VN, đau với cái đau của người dân mất đất, nhục với cái nhục khi giàn khoan
của Trung Quốc nghênh ngang kéo vào lãnh hải. Ông Hoàng Thu, một người Việt ở
Florida đã tự thiêu để gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh đồng bào mình về hiểm
hoạ xâm lược. Ngày 20/6/2014 người đàn ông này qua đời để lại mảnh giấy tuyệt mệnh
với hàng chữ: “Hai Yang 981 phải rời khỏi V-N hải phận”.
Là
một thanh niên trẻ với bầu nhiệt huyết và niềm khao khát được dấn thân cho quê
hương, Trần Văn Bá tin rằng những
chuyển đổi đất nước chỉ có thể phát xuất từ Quốc Nội, anh tham gia lực lượng “Mặt
Trận Thống Nhất các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam” và xâm nhập về Việt
Nam. Anh bị cộng sản bắt và bị tử hình vào ngày 8/1/1985. Điều cuối cùng bạn bè
còn giữ lại là những suy tư anh viết trong thư gởi về Paris năm 1982:
“ …Phần tôi cũng bình thản thôi, cực thì có, nhưng tôi sống trọn vẹn với
con người của tôi, với quê hương nghèo đói. Con đường tôi chọn rất chông gai,
nhưng dù sao tôi cũng phải đi tới cùng…”
Tại
Nhật, sinh viên Ngô Chí Dũng khi ấy
mới 24 tuổi, anh là con chim đầu đàn của Uỷ Ban Tranh Đấu Cho Tự Do Của Người
Việt. Sau khi miền Nam mất, trong tình cảnh hoang mang cực độ của hầu hết các
sinh viên du học tại Nhật, Ngô Chí Dũng đã cùng một số anh chị em sinh viên làm
việc ngày đêm để tranh đấu thành công hai vấn đề bức thiết quan trọng lúc ấy.
Thứ nhất là chính quyền Nhật đồng ý gia hạn chiếu khán cho các kiều bào ta và
các sinh viên đang sinh sống tại Nhật, thứ hai những sứ quan Pháp, Bỉ, Anh và
Hoa Kỳ… đã hứa cấp chiếu khán cho bất cứ ai muốn đến các quốc gia này định cư.
Cùng với các sinh viên du học tại Nhật, Ngô Chí Dũng đã tích cực giúp đỡ những
gia đình thuyền nhân trong các trại tị nạn. Anh tốt nghiệp nghành Kỹ Sư Hoá Học
thuộc Viện Đại Học Meisei tại Tokyo năm 25 tuổi. Nhưng cũng như Trần Văn Bá,
Ngô Chí Dũng tin rằng sự chuyển đổi đất nước chỉ có thể xảy ra tại môi trường
Quốc Nội và với cái quan niệm rằng muốn giải quyết vấn đề của đất nước thì
chính mình phải nhập cuộc, chính mình phải đi đầu. Anh bỏ lại cuộc sống êm đềm
và một tương lai đầy hứa hẹn ở Tokyo để trở về với quê hương. Anh tham gia “Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” và hy sinh trên đường công tác.
Cách
sống và hành xử của những người trẻ trong hoàn cảnh tuyệt vọng của đất nước cho
thấy một thế hệ thanh niên đầy nhân cách, trong sáng và vững vàng. Một thế hệ kế
thừa tinh thần Nguyễn Thái Học, những con người sống có lý tưởng, có mục đích,
có trách nhiệm với xã hội, có tình yêu thương và niềm tin vào những giá trị tốt
đẹp; do đó, dù ở trong hoàn cảnh vô vọng họ không dễ dàng đánh mất chính mình.
Và đó chính là di sản của một dân tộc đã tồn tại qua hàng ngàn năm thăng trầm của
lịch sử. Di sản đó đã khiến cả một thế hệ thanh niên miền bắc sẵn sàng lao vào
lửa đạn đến nỗi nhà thơ Hoàng Trần Cương bảo nếu đem ghép những chiếc áo của đồng
đội anh lại chắc cũng đủ căng lên thêm một bầu trời. Và cô giáo Nguyễn Thị Mai
thì bồi hồi viết trong nhật ký: “Chưa bao giờ máu gửi nhiều theo những lá đơn /
Chưa buổi lên đường nào tình nguyện đông như vậy”. Nhưng đó là chuyện của ngày
xưa, ngày nay di sản của dân tộc Việt đang bị nhấn chìm trong một vùng nước
xoáy.
***
Chiến
thắng 30/4/75 đã từng làm cả thế giới phải cúi đầu nể phục một dân tộc anh
hùng. Trong niềm hân hoan của chiến thắng ngày ấy, không một ai có thể tưởng tượng
một dân tộc hào hùng, bản lĩnh lại có thể cam tâm chịu nhục như ngày hôm nay. Một
quốc gia độc lập với một quân đội hùng mạnh mà từ lãnh đạo đến tướng tá đều câm
lặng, khuất phục nhìn từng phần chủ quyền của đất nước bị tước đoạt, bị mất trắng,
mất đau đớn trong các hiệp ước với Bắc Kinh… Thử hỏi một cuộc duyệt binh vĩ đại
mừng 40 năm chiến thắng, với 6000 người tham dự cùng các lực lượng võ trang và
các khí tài hiện đại như lời Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa thì có ý nghĩa gì?
chỉ thấy bật lên một niềm đau có chiến thắng nào cay đắng đến vậy? Sau cuộc nội
chiến huynh đệ tương tàn, hàng ngàn những vành khăn tang đã chít trên mái đầu vợ
con của người lính miền nam, hàng ngàn những thanh niên miền bắc ra đi không trở
lại, giấy báo tử rơi đầy mái rạ; chỉ để đổi lấy một đất nước đói nghèo lệ thuộc,
tụt hậu, lầm than…
Nhiều
blogger trong nước nhận định rằng di sản lớn nhất của 40 năm chiến thắng là sự
sợ hãi, nhu nhược, hèn kém và li tán. Dẫu sao tôi vẫn tin rằng di sản của 40
năm không thể nào vượt thắng, không thể nào tiêu diệt được di sản của mấy ngàn
năm dân tộc. Hãy nhìn những khuôn mặt rất trẻ trong cuộc tuần hành cho cây
xanh, hãy nghe Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi nói về cái quyết tâm giành lại quyền
con người của em. Giữa giòng xoáy của bạo lực và sự sợ hãi, các em là những đốm
lửa đủ sáng, đủ tin cậy, đang nương vào nhau để thắp sáng và vực dậy di sản của
dân tộc. Di sản đó không thể bị tiêu diệt khi chúng ta còn những người con gái
Việt trẻ trung kiên cường như Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Nguyễn Phương Uyên, Đỗ thị
Minh Hạnh…khi chúng ta có những chàng trai bản lĩnh, nhiệt huyết như Lê Quốc
Quân, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hoà, Trần Vũ Anh Bình… Bạo lực, nghịch cảnh không
chỉ là rào cản ngăn chặn ước mơ của chúng ta, mà chính nó còn thúc bách con người
bước đến với ước mơ ấy. Trong ý nghĩa đó, mọi nguy cơ đều ẩn chứa một cơ hội, một
thách đố … Và chỉ trong nguy cơ con người mới động tâm tìm ra sức bật để sinh tồn
và để vượt lên một tầm cao mới.
Bốn
mươi năm đã quá đủ để người tù vừa rời khỏi trại giam vẫn vững vàng bước chân,
để người dân ngừng lời than oán cùng sát vai nhau đòi lại cái quyền làm chủ đất
nước này. Hàng trăm người ở Cam Ranh đã xuống đường đòi quyền được đối thoại,
hàng ngàn người ở Bình Thuận đã xuống đường đòi giải quyết môi trường ô nhiễm,
hàng ngàn người ở Hà Nội đã tuần hành để bảo vệ cây xanh, và hàng chục ngàn
công nhân đã xuống đường để phản đối điều 60 Luật Bảo Hiểm Xã Hội… Những bước
chân dồn dập của người dân trên các nẻo đường đất nước đang làm rung chuyển chế
độ độc tài.
Nguyễn
Đặng Minh Mẫn – cô gái bị án 8 năm tù giam trong vụ án xử nhóm Thanh Niên Công
Giáo
Tôi
nghĩ đến Nguyễn Đặng Minh Mẫn, người thiếu nữ
vừa mới bị biệt giam tuần rồi và câu nhắn của cô qua một tù nhân lương tâm. Quả
thật Minh Mẫn vẫn “ trước sau như một” .Tám năm tù với biết bao nhiêu lần biệt
giam không khuất phục nổi người thiếu nữ nhỏ nhắn này. Như bao nhiêu người trẻ
đang chịu trù dập, bách hại cho quê hương mình, Minh Mẫn chính là cánh thiên
nga trong lời thơ của thi sĩ Tagore và tôi tin rằng ban mai thế nào cũng đến,
bóng tối sẽ tan đi và tiếng đập cánh của thiên nga sẽ xé vòm trời rực rỡ.
© Nguyệt
Quỳnh
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment