08.04.2015
Bước sang tháng Tư, không khí của những ngày định mệnh
lịch sử bắt đầu rộ khắp các tuyến đường, con phố, bờ sông. Năm nay đặc biệt hơn
vì đây là cột mốc lần thứ 40. Bởi lẽ, những cột mốc ý nghĩa luôn nhắc người ta
nhìn lại quảng đường chúng ta đã đi suốt mấy chục năm ròng.
Sài Gòn những năm 1975, vốn mệnh danh là “hòn ngọc
Viễn đông”, từng là giấc mơ của Lý Quang Diệu những ngày đầu thành lập
Singapore. Bốn mươi năm sau, các khẩu hiệu treo đầy đường phố nêu cao thông điệp
về một Sài Gòn đầy thành tích. Kẻ đứng trên những con số tăng trưởng kinh tế “đầy
tranh cãi” sau 40 năm cười “ngặt nghẽo”. Tôi chưa bao giờ phủ nhận một Sài Gòn
mở rộng sau 40 năm - nay trở thành trung tâm kinh tế của cả nước, thu hút đầu
tư mạnh từ trong và ngoài nước với chỉ số đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
hay các dự án viện trợ chính thức (ODA) khiến nhiều nước khác phải ganh tỵ. Tốc
độ phát triển chóng mặt của những con số phát triển GDP Sài Gòn nói riêng và Việt
Nam nói chung luôn khiến giới quan sát, ngay như các vị lãnh đạo cấp bộ trưởng,
cũng phải giật mình. Nhưng xin thưa! nếu “gói ghém” thành tích của Sài Gòn, có
lẽ cũng chỉ dừng ở chữ “tiềm năng”. Trong khi hàng tá vấn đề cho đến nay, Sài
Gòn vẫn loay hoay, bế tắc, và sẽ còn tiếp tục loay hoay, bế tắc, nếu chính quyền
vẫn cứ hoạt động một cách luộm thuộm như nhiều năm qua họ vẫn làm.
Trước hết hãy bàn về kết cấu hạ tầng, đô thị - điều
khiến mấy chục triệu dân cứ mãi phàn nàn, rồi lại phàn nàn một cách vô vọng. Bốn
mươi năm các vị mở rộng Sài Gòn cả về chiều rộng địa lý lẫn về chiều sâu kinh tế
- xã hội. Các áp lực dân số, chênh lệch giàu nghèo, môi trường, tệ nạn xã hội,
sức ép hạ tầng cơ sở, văn hóa đô thị… là không thể tránh khỏi. Để rồi người dân
Sài Gòn – vốn đã “già trước khi giàu” – nay phải quẩn quanh bên một “thành phố
ao làng” với hàng loạt các hệ lụy nhức nhối: ngập nước ngày càng nặng; ô nhiễm
(khói, bụi, tiếng ồn, nguồn nước) ngày càng trầm trọng hơn; văn hóa tiểu nông,
lúa nước lũ lượt kéo nhau vào Sài Gòn, trong khi cái mà các vị lãnh đạo gọi là
“văn minh thành phố” lại chính là việc bê-tông hóa các tuyến đường vốn được cây
xanh bao phủ, là hầm vượt sông tốn kém nghìn tỷ đồng vốn có thể được thay thế bằng
nhiều cây cầu khang trang hơn, là các đề xuất dự án “ăn trước - chặn sau” theo
kiểu nhóm lợi ích, ví như học sinh tiểu học phải trang bị máy tính bảng khi đến
trường. Để rồi bọn trẻ, dù nhiều gia đình khó khăn cũng phải vét tiền của lo
cho con “sang nước ngoài tỵ nạn giáo dục”. Nhà ổ chuột cho dân ở, trong khi nhà
cao ốc thì chỉ biết để chuột “định cư” do hệ quả bong bóng bất động sản vỡ…
Mỗi thế hệ lãnh đạo Mỹ, EU, Nhật Bản hay Singapore đều
để lại dấu ấn bằng những công trình tầm cỡ phục vụ lợi ích của dân. Tổng thống
Mỹ Barack Obama với hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân (dù bị phe nhà giàu
tranh cãi), Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe với cải cách kinh tế Abenomics vực dậy
Nhật Bản, đặc biệt sau thảm họa kép 2011. Hay như Lý Quang Diệu với gần 50 năm
xây dựng một đảo quốc Singapore bị Malaysia “bỏ rơi” trở thành con rồng châu Á.
Trong khi Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung, các vị nhận không biết bao
nhiêu vốn ODA đổ vào đầu tư hạ tầng, ưu tiên phát triển cơ sở vật chất phục vụ
đời sống hiện đại hóa, để rồi số công trình hạ tầng phục vụ lợi ích cho dân đạt
chuẩn quốc tế chỉ nằm trên đầu ngón tay bởi sự đục khoét bằng đủ các kiểu tham
nhũng: lót tay, hối lộ, bôi trơn, lại quả. Các nhóm lợi ích thì xem vốn ODA vẫn
là thứ tiền phải “giải ngân cho kịp” để “ăn”, trong khi dân phải mang tiếng
“xin”, chấp nhận những “cảnh cáo” từ phía đối tác mà mới nhất là Nhật Bản, rằng
“còn tham nhũng sẽ cắt tiền ODA”.
Thứ hai, không khỏi xót xa khi nhìn vào các ngành
công nghiệp mũi nhọn và các ngành công nghiệp ưu tiên. Trong tầm nhìn chiến lược
phát triển công nghiệp từ nay đến năm 2020, Sài Gòn đã xác định ba ngành mũi nhọn
của công nghiệp bao gồm: i) Cơ khí chế tạo (ô tô, đóng tàu, thiết bị toàn bộ,
máy công nghiệp, cơ điện tử); ii) Thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ
thông tin; iii) Sản phẩm từ công nghệ mới (năng lượng mới, năng lượng tái tạo,
công nghiệp phần mềm, nội dung số).
Phải khẳng định đây đúng là “ba mũi nhọn” quan trọng,
không chỉ Việt Nam, mà nhiều quốc gia khác như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản cũng từng
trải qua. Nhưng sau 40 năm giải phóng thì nay là lúc ai cũng hốt hoảng khi
chúng ta chỉ còn 5 năm để đạt ba mục tiêu mũi nhọn trên. Nhưng xin thưa, 5 năm
là một con số “viển vông và không tưởng” khi hiện tại Sài Gòn đang đứng sau vạch
số 0. Nghĩ làm gì đến công nghệ cao siêu khi ngay cả con ốc vít, hay các phụ kiện
nhỏ nhất phục vụ ngành công nghiệp lắp ráp, cho đến nay gần như Việt Nam đều phải
nhập khẩu. Khái niệm “công nghiệp phụ trợ” – ngành công nghiệp cơ bản của mọi
ngành công nghiệp đã được đưa ra thảo luận và đầu tư – ra đời từ hơn chục năm
trước ở Việt Nam, nhưng các vị lãnh đạo vẫn để nó dậm chân tại chỗ, mệt mỏi,
thoi thóp và rồi chết đứng, nhường chỗ cho hàng hóa tiểu ngạch, chính ngạch của
Bắc Kinh.
Xin phép được hỏi các vị “bao nhiêu doanh nghiệp phụ
trợ mới có thể làm ra một chiếc xe hơi?” Xin thưa! Trên dưới 200 doanh nghiệp
con “trợ sức” từng chi tiết máy mới có một chiếc ô tô mà các vị lãnh đạo ngồi mỗi
ngày đến công sở. Cho nên có vị nào dám cam đoan sau 5 năm nữa, khi rào cản thuế
quan phải hạ xuống dưới bước chân của gã khổng lồ WTO hay các thể chế mậu dịch
tự do tương tự, một chiếc ô tô “lắp ráp in Vietnam” có thể sống trước ô tô ngoại
nhập? Báo chí mấy hôm nay đưa tin “ô tô Việt Nam vẫn loay hoay lắp ráp để… chờ
chết”, chứ Sài Gòn đừng bàn đến công nghiệp công nghệ cao – chỉ tổ khiến dân chờ,
đợi, mỏi mòn và thất vọng.
Trong khi đó, bảy ngành công nghiệp được ưu tiên
phát triển của Sài Gòn là: dệt may, da dày, nhựa, chế biến nông lâm thuỷ sản,
khai thác chế biến nhôm, thép, hoá chất cũng đã và đang hấp hối. Xưa nay, không
ít các vị lãnh đạo vẫn cứ sống trong mớ bong bóng “rừng vàng biển bạc đất phì
nhiêu”, cho rằng Sài Gòn có nhân công giá rẻ, gần các khu tài nguyên. Để rồi
khi công nghệ cao ngoại nhập khỏa lấp đi sức lực của đôi bàn tay không chỏng
chơ, chai sượn của những người dân nghèo khốn khổ, thì các doanh nghiệp nội địa
bắt đầu xếp hàng phá sản, đá bể toàn bộ chén cơm của hàng trăm nghìn người thất
nghiệp. Hãy nhìn các doanh nghiệp nội địa ngành dệt may, mía đường, sữa,… liên
tục “than trời trách đất” trong những năm qua trước áp lực của các doanh nghiệp
ngoại đến từ Lào, Campuchia sẽ thấy chúng ta đang yếu đến cỡ nào.
Cuối cùng, xin hãy thẳng thắn nói về môi trường đầu
tư. Chỉ chưa đầy một tháng, Việt Nam nhận liên tiếp ba sự kiện “choáng váng”. Một
là, Nhật Bản tuyên bố “cắt viện trợ ODA nếu có thêm bất kỳ một dự án tham nhũng
nào tại Việt Nam. Hai là, tập đoàn POSCO (Hàn Quốc) bị điều tra tham nhũng, hối
lộ nhà thầu Việt Nam trong các dự án cao tốc giai đoạn 2009-2012. Ba là, Ngân
hàng Thế giới (World Bank) tuyên bố cấm hoạt động trong vòng một năm đối với Tập
đoàn Louis Berger Group (LBG, Mỹ) vì dính líu đến các hành vi hối lộ trong hai
dự án do Ngân hàng Thế giới tài trợ tại Việt Nam. Công ty mẹ của LBG cũng bị hạn
chế quyền đấu thầu đối với các dự án của Ngân hàng Thế giới vì không quản lí được
các hoạt động “chung chi, hối lộ quan chức” mà LBG đã thực hiện trong hai dự
án: Giao thông Nông thôn 3, và Đầu tư Ưu tiên Cơ sợ Hạ tầng Đà Nẵng do Ngân
hàng Thế giới tài trợ. Tất nhiên, không ai điểm mặt chỉ tên Sài Gòn, nhưng những
vấn nạn tương tự: thủ tục kinh doanh, đầu tư rườm rà, phức tạp mở đường cho các
nghi thức “lót tay”, hay “lại quả”. Đó là chưa kể đến các vụ bê bối về tham
nhũng, lừa đảo trong hệ thống ngân hàng; hối lộ trong hệ thống cảnh sát giao
thông… Tất cả làm giảm đáng kể tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Sài Gòn.
Một Sài Gòn mà hàng triệu dân mơ ước bất kể phải nếm
mật nằm gai trong suốt 40 năm qua phải theo đuổi tám mục tiêu: i) Hệ thống cung
cấp nước và vệ sinh môi trường (Water supply and sanitation); ii) Giao thông vận
tải (Traffic and transport); iii) Năng lượng (Energy); iv) Chức năng đô thị
(Urban functions); v) Kiến trúc (Architecture); vi) Quản lý chất thải (Waste
Management); vii) Quy hoạch cảnh quan (Landscape Planning); viii) Hợp tác giữa
khối nhà nước và khối tư nhân (Public and private stakeholders).
Nhưng rồi trước mắt họ, con đường từ nhà đến nơi làm
việc đang đối diện quá nhiều rủi ro từ hệ lụy tích tụ suốt 40 năm: Đó là một
con đường đầy khói bụi, lô cốt dựng khắp nơi, dây điện chằng chịt, nước ngập
úng với lượng rác thải khổng lồ. Thỉnh thoảng lại gặp vài ba anh cảnh sát giao
thông “nghiêm khắc” rất thích bắt lỗi đèn xi-nhan, lấn tuyến dù con đường nhỏ hẹp
và biển báo đánh đố người dân – những kẻ ngoài việc đóng thuế nuôi quan chức phải
tự nguyện trả thêm ít tiền “lót tay” nếu không muốn bị “vạch ví” giữa đường. Và
cũng trên con đường ấy, những chiếc xe hơi sang trọng, vẫn âm thầm và lạnh lùng
lướt qua những mảnh đời cơ cực phải lam lũ đội nắng trên đầu, lội mưa tới bụng
và trong hai hốc mắt sâu hoắm vẫn mong chờ bữa ăn chiều có đủ cháo, rau.
Vậy đấy, chẳng biết sau những ngày tiệc tùng mừng 40
năm chiến thắng, có vị quan chức nào giật mình thốt lên “đã 40 năm rồi cơ đấy”
khi thấy tại quảng trường độc lập vẫn còn không ít kẻ lang thang nhặt lấy từng
chiếc lọ, cái lon để bán kiếm tiền mà quên mất “ngày độc lập phải vui lên”.
* Blog của Cao Huy Huân là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
* Blog của Cao Huy Huân là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment