Friday, December 10, 2010

GIỚI THIỆU SÁCH "NHỮNG NGƯỜI LÍNH THỢ" của LIÊM KHÊ LUGERN (RFI)

Thanh Hà  -  RFI
Thứ sáu 10 Tháng Mười Hai 2010

Quyển sách song ng Vit và Pháp « Nhng người lính th - Les Travailleurs Indochinois Requis» nhường li cho các bác lính th còn sng sót đ tìm hiu xem những người lính th Đông Dương là ai ? H ra đi trong hoàn cnh nào ? Họ sống cơ cc ra sao trên đt Pháp ? Ngày tr v ca h đã được thu xếp ra sao ?

« Những người lính th » nm trong khuôn kh chương trình nghiên cu đ chun bị lun án tiến sĩ ca Liêm Khê Luguern. Đây là mt tác phm song ng, Vit và Pháp trong đó, tác giả đã phác ha li hành trình ca mt vài nhân chng còn sống sót trong s 90 ngàn lính th và lính chiến Đông Dương vào năm 1939 b « trưng tp » sang Pháp trong chương trình "Kế hoch Mandel" nhm góp phn h trợ cho cuộc Thế chiến th hai. 

Cuộc hành trình đó bắt đu t khi nhng thanh niên này có lnh tp trung, họ đưa lên tàu sang thành ph cng Marseille, cho đến khi h phi bt tay vào vi một cuc sng mi và đã được tn mt trông thy s tht bại ca nước Pháp trước sức mnh ca quân Đc Quc Xã.

Trong trên dưới 10 năm sng trên đt Pháp thành phn lính th Đông Dương đã được đưa vào các xưởng chế to vũ khí, đn dược, làm đ mi ngành ngh tay chân, họ phi chu nhiu tng áp bc.
Cuộc sng ca h thêm cht vt k t khi nước Pháp tht trn vào tháng 6/1940. Trong thời gian này nhiu người trong s h đã tham gia vào mt s các hoạt đng chính tr và công đoàn. Đó cũng là lý do khiến nhiu người lính Đông Dương đã b cưỡng bc hi hương vào cui thp niên 40, đu nhng năm 50 thế kỷ trước.

Trong gần 250 trang, bằng hai ngôn ng Vit và Pháp, tác gi đã nhường li cho gần 20 chc bác lính th tt c tui đã ngoài 90 đ h k li giai đon 10 năm ít được s sách ca Pháp cũng như ca Vit Nam nhc đến.

Những người lính th Đông Dương là ai ? H ra đi trong hoàn cảnh nào ? Họ sống cơ cc ra sao trên đt Pháp ? Ngày tr v ca h đã được thu xếp ra sao ? Đó là một vài câu hi đã được Liêm Khê Luguern nêu lên trong cun "Nhng người lính thợ" va cho ra mt công chúng mùa hè năm nay

Trả
li ban vit ng RFI, Liêm Khê Luguern nhấn mnh đến ý nghĩa ca vic cun "Nhng người lính th" phi được in bng hai th tiếng Vit và Pháp :
"Cuốn sách này năm trong khuôn kh chương trình nghiên cu, chun b lun án tiến sĩ ti Trường Cao đng Khoa hc Xã hi Pháp, EHESS ở Paris vi ch đề chính liên quan đến các bác lĩnh th b trưng dng trong thi kỳ chiến tranh thứ hai. Mới trong thi gian gn đây, tôi đã v nước tìm đến các nhân chng đ ghi lại nhng gì h đã tri qua.
Tôi cố ý mun cun sách này phi được đăng bng hai th tiếng, Vit và Pháp để mun nói lên rng, lch s không thuc v ai, đó là mt giai đon lch sử chung, liên quan đến nước Pháp và đến Vit Nam. Nhng đóng góp ca các thành phần lính th Đông Dương ít được biết đến Pháp và li càng ít được nhc tin na ti Vit Nam. Thêm vào đó điu tôi quan tâm là s phn ca nhng con người đã đi sang làm thuê cho Pháp trong thi kỳ chiến tranh cho dù là sau đó họ trở v quê quán sinh sng"

Tác giả nói tiếp v nhng khó khăn đã gp phi đ hoàn thành tác phm này và cho ấn bn trong mt thi gian rt ngn :
"Tác phẩm này là s tiếp ni trong công vic nghiên cu ca tôi, nhưng đồng thi tôi cũng mun đi chiếu cuc sng ca nhng người lính th hi hương, với những người li Pháp, tc là nhng ai đã sng và gây dng s nghip trên đất Pháp.
Tôi cũng xin lưu ý là li k, li chng ca nhng bác lính th còn sng sót là một ngun thông tin quý báu đi vi công vic nghiên cu ca tôi. Chúng bổ sung cho các thông tin tôi có được qua nhng tài liu tham kho t nhiu khou tr, nhưng đó là nhng văn bn, chng t, nhng tài liu mang tính hành chính.
Việc khó làm nht là liên lc vi các bác. Nay h đã rt cao niên, sc khỏe suy yếu. Có người còn nh được chút tiếng Pháp, có người đã quên nhiu. Kể từ khi các bác hi hương, h sng tn mn không còn gi liên lc vi nhau. Tìm lại được các bác tht là khó. Tôi đã gi đi hơn 250 lá thư nhưng ch được khong độ hơn mt chc ngui hi âm, cho phép tôi đến hi chuyện các bác. Gi đây hu hết các bác sng nông thôn và khi tiếp tôi, các c đã tr li mt cách ci m. Điều khiến tôi rt ngc nhiên là nhng bác còn minh mn, h nh đy đ các chi tiết ca thi kỳ sng ti Pháp : t ngày tháng, tên người, tên đường, tên thành phố, nhng th trn h đã đi qua …
Tiếp theo đó phn ln các bác rt xa thành ph. Tìm được đến h tht là khó vô cùng, chẳng hn như phi mt công lm tôi mii liên lc được vi mt số bác ở Thanh Hóa".

Lời k ca các nhân chng còn sng sót, cho phép tác giả đưa ra kết lun là sau thời gian trên dưới 10 năm lao đng ti Pháp, hu hết tt c các bác lính thợ Đông Dương đã tr v quê cũ vi « hai bàn tay trng » :
"Lời k ca các bác lính th không đi ngược li vi nhng tài liu mà tôi đã có, tức là nhng tài liu được lưu tr ca Pháp (lnh đưa h sang pháp, tên tàu, cảng nơi h ri khi Vit Nam …) Nhưng các cuc nói chuyn đó cho phép tôi khẳng đnh mt trong nhng gi thuyết đã nêu lên ban đu : đó là sau 10 năm sngu lc Pháp khi trở về Vit Nam, h tr li vi đi sng y như truc khi ra đi. Tức là đi sng ca h không được ci thin, không có gì thay đi.
Đa số v li đúng quê quán, li tiếp tc vi công vic nhà nông như trước khi họ ra đi -sau 10 hay 15 năm sng lưu vong, đi sng ca h li « đâu vào đy », từ mt đa lý đến vt cht, ngh nghip ….. Khác hn vi nhưng các lính th ở lại Pháp. S này, đi sng ca h được ci thin : h có thêm bng cp, có chuyên môn, an cư lc nghip trên đt Pháp và có thay đi trên nc thang xã hội".(...)
Sở dĩ tôi cho in cun sách này nhanh như vy là đ các bác có th đc được, đ cám ơn các bác lính th đã vui lòng m li mt chương trong cuc đi của h cho tôi nhìn vào. « Nhng Người Lính Thợ » cũng là mt hình thc đ nhìn nhận vai trò, nhng đóng góp ca h cho lch s, cho s phát trin kinh tế ca Pháp ở vào mt thi đim nht đnh. Đi vi tôi li chng ca các bác là nhng « vật liu » quý giá đi vi lch s đi vi nhng người làm công việc nghiên cu.

Trở li vi xut x ca thành phn lính th Đông Dương, hai c Đ V và Hà Mười hin sinh sng ti Qung Nam tâm s vi tác gi : « Xóm tôi có 120 gia đình và chúng tôi có đến 6 lính th. Chúng tôi b lý trung cưỡng bc nhp ngũ. Tất c chúng tôi đu là nông dân ».
« Tôi không được đi hc, không biết đc, không biết viết. Tôi b trưng tập năm 1939. tt c mi gia đình phi có mt người ra đi. Tôi đi thế cho các anh tội vì h đã có v con. Nhng người cùng lượt vi tôi đu b lý trưởng bt buộc. Chúng tôi không th trn được. Nhóm tôi gm 24 lính th, tt c đu mù chữ » (tr.44) 

Cuộc sng trên đt Pháp :
Nói về cuc sng trên đt Pháp, C Lê Hu Đinh, quê Thanh Hóa tng được đưa đến Bergerac nh li : «Tôi làm ở xưởng đúc đn cho quân đội. Cuc sng rt khó khăn. Chúng tội b đói và rét. T năm 1940-1945 tôi làm vic cùng khp trên lãnh thổ Pháp như đn g, đào than đá … công vic rt nng nhọc. Rt may gia chúng tôi, những người xa x, chúng tôi rt đoàn kết và thường giúp đ lẫn nhau. (..) Chúng tôi muốn được hi hương càng sm càng tt. Bi vì chúng tôi cm thy đời sng Pháp khôgn mang li cho chúng tôi mt chút an ninh nào ».
Còn ông Nguyễn Đình Duyt ti Ngh An nói v cái nhìn ca quân đi Đc, ca người bn x đi vi các lính thợ Đông Dương (tr.77). 

Ngày trở v :
Trong thời gian ti Pháp nhiu bác lính th Đông Dương đã tham gia các phong trào đấu tranh, chng hn như tham gia công đoàn CGT thân đng cng sn Pháp, tham gia các hoạt đng chính tr đ giành đc lp cho Việt Nam. Đó là lý do khiến nhng thành phn này b cưỡng bc hi hương như trung hp ca ông Đ Vị vĩnh viễn mt liên lc vi v và con trai còn li nước Pháp :
« Năm 1951, tôi xin trở v nước đ thăm cha m già yếu và bnh tt. Ln này chỉ là mt ln về tm vì tôi đ v con li Marseille. Nhưng vì h chiếu của tôi hết hn và vì chiến tranh, tôi vĩnh vin không th tr li Pháp được. Tại quê nhà tôi lp gia đình (…) Tôi tr v làng làm rung và t đó tôi ch một nông dân thường (…) Hôm nay tôi chẳng muốn tr li Pháp mt tí nào c » (tr.43)

Về phn ông Hà Văn Oanh, hin sng ti tnh Hà Đông, đã tình nguyn ra đi. Rời Hi Phòng, ông đến Marseille vào tháng 2/1940 sau đó được đưa v làm vic tại mt nhà máy sn xut vũ khí ti Roanne. Mười năm sau ông trở li quê nhà vi hai bàn tay trắng. Ông nói : « Khi nghe lệnh tp trưng, tôi xung phong ra đi. Khi tôi trở li quê hương thì ch có hai ban tay trng. Tôi chưa bao giờ được lãnh tin bi thường. Tôi làm vic cho nước Pháp trong 10 năm (…), nhưng khi đến tòa đại s, h chng cho tôi bước chân vào » (tr.52)

Mỗi người mt hoàn cnh, c Hoàng Công Cn sinh năm 1918, Qung Tr trong tình trạng b cưỡng bc hi hương vì đã tham gia các hot đng công đoàn k li : « Vào đầu năm 1948 tôi tìm được vic làm Grenoble, tôi về Lyon chun bị sửa son đ đc đ đì Grenoble thì tôi b bt ti nhà ga Lyon (…) Tháng 2/1948 tôi bị đưa đến cng Port de Bouc lên tàu Lyberty Ship (…) khi ra khơi tôi mi hiểu rng người ta đưa chúng tôi v Đông Dương (…) Tôi không hi tiếc gì về vic đã xung phong vào lính ONS ở Pháp. Tôi đi tham quan hu hết min Nam nước Pháp và thuộc nm lòng thành ph Lyon. Tôi viếng Paris 2 ln và đã quen biết được nhiều người Pháp tt và nhân đo. Tôi ao uc được quay li nước Pháp đ xem nước Pháp có thay đổi không (…) nhưng nay thì đã quá mun » (tr.65-66)

Về phn mình c Lê xuân Thim, Quỳnh Lưu, Ngh An (p 74) kết lun : « Tôi vẫn luôn luôn là nông dân nơi đng rung. Rt cuc thì đi tôi chng có gì thay đổi. Tôi không h nhn được tin tr cp (…) Đời sng ca tôi cc kỳ khó khăn »  Nhưng đôi khi nhưng k nim v nước Pháp đã quá xa ri đi vi nhng người lính thợ còn sng sót. Nguyn vng ca mt vài người là mong ly li được phn lương đã b gi li hàng tháng trong thi gian lao đng ti Pháp nhưng cũng có người thì mun vĩnh vin chôn vùi 10 năm lưu lc đó vào quá khứ.
.
.
.

No comments: