Sunday, October 4, 2009

GIÁO DỤC ĐẠI HỌC tại VIỆT NAM : KHỦNG HOẢNG và ĐÁP ỨNG


Giáo dục đại học tại Việt Nam:
Khủng Hoảng và Đáp Ứng
Thomas J. Vallely & Ben Wilkinson
Xuyến Như chuyển ngữ

Đăng ngày 04/10/2009 lúc 00:00:00 EDT
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=4189
Nguồn: Tạp chí Tia Sáng

I. Tổng quan:
Bản phúc trình giản lược này nhằm cung cấp những phân tích có phẩm bình về sự khủng hoảng của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam dành cho các thành viên phía Hoa Kỳ trong Uỷ Ban Đặc Nhiệm Song Phương về Giáo Dục Đại Học những phân tích. Chúng tôi mở đầu với việc phân tích mức độ khủng hoảng và căn nguyên của nó. Kế đến, chúng tôi xem xét đến những nhân tố chính – nhà nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam, và cộng đồng quốc tế - đã phản ứng ra sao trước tình trạng đó. Phần kết luận sẽ nhấn mạnh đến việc đổi mới cơ chế là một thành tố quan trọng để tạo ra nền móng cải cách giáo dục hiệu quả. Cuối cùng chúng tôi đính kèm một tiểu luận về giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, do một nhà khoa học Việt Nam danh tiếng viết ra, xem như phần phụ lục để tham khảo.
Bản ghi nhớ này được đúc kết qua kinh nghiêm thiết lập và điều hành Chương Trình Đào Tạo Kinh Tế Fulbright, một trung tâm giảng dạy và nghiên cứu chính sách công tại thành phố HCM [1]. Hiện nay, Viện nghiên cứu Ash là đối tác của chúng tôi trong một đề án nghiên cứu do Trường Tân Lập đề ra nghiên cứu những trở lực thuộc về cơ chế đối với công cuộc cải cách giáo dục đại học Việt Nam.

II. Tầm mức khủng hoảng:
Thật khó mà nói vống thêm nữa về sự nghiêm trọng của những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong giáo dục đại học. Chúng tôi cho là nếu không có những cải cách nhanh chóng và tận gốc dành cho giáo dục đại học, Việt Nam sẽ không thể phát huy tiềm năng to lớn của mình [2]. Phát triển kinh tế ở Đông và Đông Nam Á cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa phát triển và giáo dục đại học. Mặc dù mỗi một quốc gia thịnh vượng nhất trong khu vực này – Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và gần đây là Trung Quốc - đã đi theo hướng phát triển đặc thù của mình, nhưng quyết tâm xây đắp cho một một nền giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học phẩm chất cao luôn là mối quan tâm chung. Những quốc gia kém thành công hơn tại Đông Nam Á – Thái Lan, Philippines, Indonesia – cho chúng ta một lời cảnh giác. Những quốc gia này nói chung không đạt phẩm chất đào tạo cho giáo dục đại học, và không phát triển nổi những nền kinh tế hiện đại. Điều này chẳng hé lộ điều gì tốt lành cho tương lai Việt Nam cả, vì các đại học Việt Nam lạc hậu quá, so ngay cả với các nước láng giềng không có gì đặc sắc tại Đông Nam Á.

Bảng 1: Công trình nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành trong năm 2007
Học viện Quốc gia Công trình nghiên cứu
Seoul National University Đại Hàn 5060
National University of Singapore Singapore 3598
Peking University Trung Quốc 3219
Fudan University Trung Quốc 2343
Mahidol University Thái Lan 950
Chulalongkom University
Thái Lan 822
University of Malaya Mã Lai 504
University of the Philippines Phi Luật Tân 220
Trường Đại Học Quốc Gia VN (Hanoi & Saigon) Việt Nam 52
Viện Khoa Học & Kĩ Thuật VN Việt Nam 44
Nguồn: Science Citation Index Expanded. Thompson Reuters

Việt Nam không có được một trường đại học nào có chất lượng được công nhận. Không có một trường đại học Việt Nam nào được ghi nhận trên bất kỳ bảng xếp hạng quen thuộc các đại học hàng đầu tại Châu Á. Về mặt này, Việt Nam thua kém ngay cả so với các quốc gia khác ở Đông Nam Á, vì phần đông họ còn có thể trưng ra được đôi ba học viện có đẳng cấp. Trường đại học Việt nam nói chung bị lọt ra ngoài dòng kiến thức quốc tế, như những con số nghèo nàn các công trình nghiên cứu nêu ra trong Bảng 1, và giáo sư Hoàng Tuỵ đã khắc hoạ rõ trong bài tiểu luận của mình [3].

Đại học Việt Nam không đào tạo được một lực lượng lao động có đủ trình độ đáp ứng cho nhu cầu kinh tế và xã hội Việt Nam. Các cuộc khảo sát do các cơ quan có liên hệ với nhà nước cho thấy có tới 50% sinh viên Việt Nam tốt nghiệp đại học xong đã không thể tìm được việc làm phù hợp với chuyên môn của họ, chứng tỏ có một khoảng cách to lớn giữa giảng đường và thị trường lao động. Với mức độ 25% giáo trình đại học xoáy quanh các môn học chính trị giáo điều thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi sinh viên Việt Nam chỉ được chuẩn bị một cách tồi tệ cho công việc tương lại hoặc cho các học trình cao đẳng ở nước ngoài. Sự kiện công ty Intel đã phải vất vả để tuyển dụng kỹ sư cho cơ sở sản xuất của họ ở TP HCM là một ví dụ điển hình. Khi Công ty này tiến hành một cuộc thi tuyển cho 2000 sinh viên IT Việt Nam thì chỉ có 90 ứng viên, tức 5%, đạt tiêu chuẩn. Và trong nhóm này, chỉ có 40 ứng viên vừa hội đủ trình độ Anh ngữ để có thể thu dụng. Công ty Intel ghi nhận đây là kết quả tệ nhất mà họ gặp phải tại các nước mà họ đầu tư vào. Các nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế đều bảo rằng việc thiếu hụt công nhân và lực lượng quản lý có trình độ là rào cản lớn đối với sự mở rộng của họ. Chất lượng giáo dục đại học nghèo nàn đã có một ảnh hưởng tiêu cực khác: Trái với những sinh viên Trung Quốc và Ấn Độ, sinh viên Việt Nam thường khó cạnh tranh để chiếm một suất học bổng tại các chương trình giáo dục trên đại học có đẳng cấp tại Mỹ hay Châu Âu.

Bảng 2: Các công trình phát kiến ghi nhận trong năm 2006
Quốc gia Chứng nhận phát minh cấp phát năm 2006
Đại Hàn Dân Quốc 102633
Trung Hoa 26292
Singapore 995
Thái Lan 158
Mã Lai 147
Philippines 76
Việt Nam 0
Nguồn: World Intellectual Properties Organization: 2008 Statistical Review

III. Nguyên do của khủng hoảng

A. Di sản lịch sử:
Những vấn nạn Việt Nam đang phải đối đầu trong hệ thống giáo dục đại học ngày nay một phần là do hậu quả của lịch sử bi thảm của đất nước này trong thời hiện đại. Chế độ thực dân Pháp cai trị Việt Nam trong nửa sau thế kỷ 19 cho đến năm 1945 đã đầu tư rất ít vào hệ thống giáo dục đại học so với các chế độ thuộc địa khác. Hậu quả là Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội khi làn sóng cách tân giáo dục đại học quét qua phần lớn lục địa Châu Á trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, là thời điểm thành lập nhiều học viện hàng đầu trong khu vực. Hậu quả là sau khi giành độc lập, Việt Nam chỉ có một nền tảng giáo dục đại học rất kém cỏi để xây dựng. (Đây là một điểm tương phản rõ nét so với Trung Quốc, nơi mà cho đến ngày nay, phần lớn các trường đại học hàng đầu đã được thành lập từ trước cách mạng). Giai đoạn Pháp thuộc, cộng với tổn hại từ chiến tranh, rồi đến giai đoạn cai trị chuyên đoán khắt khe của chế độ xã hội chủ nghĩa, đã không phải điều kiện thuận lợi để tạo ra những học viện có chất lượng cao cho nền giáo dục đại học.

B. Phương thức cai quản của Nhà nước:

Nguyên nhân trước mắt của cuộc khủng hoảng nằm ở sự thất bại nghiêm trọng của chính sách quản lý của nhà nước. Các đại học Việt Nam hoàn toàn thiếu vắng những phẩm chất phổ biến tại khắp các đại học từ Boston đến Bắc Kinh [4]:
Tự trị đại học: Tất cả mọi học viện tại Việt Nam đều phải chịu sự kiểm soát của một hệ thống quản lý tập trung cao độ. Chính nhà nước quyết định con số sinh viên được tuyển nhận, và mức lương của các giảng viên (đối với trường công lập). Ngay cả những quyết định về điều hành cũng như việc phát triển trường sở đều lệ thuộc vào sự kiểm soát trung ương. Hệ thống kiểm soát này không khuyến khích các trường đại học và học viện cạnh tranh và cải cách. Việc thăng thưởng dựa vào thâm niên và lương chính thức thấp kém đến nỗi các giảng viên phải làm việc phụ trội vượt mức mới đủ sống. Ngược lại với Trung Quốc, Việt Nam chưa có chế độ đãi ngộ những người Việt tốt nghiệp tại hải ngoại.
Tuyển dụng theo thành tích: Tham nhũng tràn lan và ai cũng biết học vị và học hàm là những thứ có thể mua được [5]. Hệ thống nhân sự đại học thì khá nhập nhằng và mọi sự thăng thưởng đều dựa trên những tiêu chuẩn bên ngoài khả năng học thuật, như mức thâm niên, lý lịch chính trị và gia đình, cũng như quan hệ cá nhân.
Nhân sự quản trị các phân khoa và cấp cao hơn của hệ thống đại học có khuynh hướng chọn người đào tạo từ Liên Xô hoặc Đông Âu, không nói được Anh ngữ và trong không ít trường hợp, tỏ ra ác cảm với các đồng nghiệp trẻ tuổi hơn được giáo dục từ phương tây.
Quan hệ quốc tế và chuẩn mực: Mở mang kiến thức là một việc không cùng, nhưng các học viện tại VN thiếu hẳn những mối liên hệ quốc tế có ý nghĩa. Thực tế là các học giả trẻ, được đào tạo từ nước ngoài thường nại ra mối quan ngại rằng họ không thể cập nhật những kiến thức đương thời như một lý do để tránh không muốn làm việc tại các đại học Việt Nam. Như Giáo sư Hoàng Tuỵ mô tả, các học viện tại VN rất co cụm và không lượng giá chính mình dựa trên tiêu chuẩn quốc tế.
Tinh thần trách nhiệm: Đại học Việt Nam không phải chịu trách nhiệm trước các giới liên quan ở ngoài, cũng như trước các cơ quan tuyển dụng trọng yếu. Trong hệ thống đại học công, ngân sách không dựa vào phẩm chất hoặc thành quả của trường. Tương tự như thế, tài trợ của nhà nước cho các công trình nghiên cứu được phân phát không dựa trên khả năng cạnh tranh, mà như là một hình thức lương bổng phụ trội. Vì số tuyển sinh trong các đại học rất thấp – chỉ có 1 trong 10 học sinh thuộc lứa tuổi đại học được nhận vào - do đó, trường đại học Việt Nam không bị ép buộc phải canh tân. Họ nắm một thị trường độc quyền, bởi chỉ có một số rất nhỏ mới đủ năng lực để ra nước ngoài học.
Tự do trí thức: So với Trung Quốc thôi thì cũng thấy ngay là đại học Việt Nam rất thiếu tính năng động trí thức. Ngay cả khi các trường đại học đã được nhận một không gian thoáng hơn, một mạng lưới kiểm soát chính thức cũng như trá hình vẫn còn vây bọc, khiến các trường đại học Việt Nam vẫn ở trong tình trạng bị nghẽn về tri thức trong khi phong thái công luận thì đã ngày càng sắc hơn.
Từ những bàn bạc trên đây có thể rút ra một số hệ luận. Trước hết, chướng ngại chủ yếu cho sự cải tiến trong nền giáo dục cao đẳng không nhất thiết là vấn đề tài chính. Thực vậy, tính theo tỉ lệ của GDP, Việt Nam chi tiêu nhiều hơn các quốc gia khác trong lĩnh vực giáo dục. Đó là chưa kể khoản tiền rất lớn mà các gia đình Việt Nam phải chi vào giáo dục cho con cái, tại nhà và ở nước ngoài. Cách sử dụng các nguồn tài chánh đó như thế nào là một vấn đề khác. Thứ nữa, đầu tư vào du học nước ngoài không đủ để cải tiến hệ thống. Trừ khi môi trường sinh sống và làm việc cho sinh viên du học được cải tổ, sẽ khó có thể lôi kéo được các sinh viên du học về công tác tại các trường đại học.

IV. Đáp Ứng

A. Các chính sách quản trị:
Phần lớn thời gian kể từ năm 1986 khi Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới, tức là tiến trình cải cách kinh tế và tự do hoá, tốc độ của việc cải tổ nền giáo dục đại học vẫn ở trong tình trạng đóng băng. Trong giai đoạn này, chất lượng giáo dục trì trệ tới mức một số nhà khoa học Việt Nam đã tin rằng chất lượng giảng dạy ở những môn khoa học căn bản đã bị thoái bộ [6].
Trong ba năm qua, Nhà Nước đã đặt ra ưu tiên cao hơn cho cải cách giáo dục đại học. Năm 2005 Nhà Nước áp dụng chính sách được nêu ra trong Nghị Quyết 14 về việc “cải tổ toàn diện nền giáo dục đại học” tới năm 2020. Đây là một bước ngoặt kêu gọi cải cách trong việc điều hành, bao gồm trao quyền tự trị lớn hơn cho các trường, và sử dụng các cơ chế tuyển chọn dựa vào thành quả. Mặc dầu rất khó để đánh giá ảnh hưởng của Nghị Quyết 14 vào tiến trình đề ra chính sách, nhưng tốc độ thay đổi vẫn rất chậm.
Gần đây hơn, nhà nước đã loan báo những sáng kiến thiết lập những học viện với các đối tác quốc tế, và bày tỏ sự sẵn sàng sử dụng nguồn vốn vay từ các nguồn cho vay đa phương như World Bank. Những kế hoạch này là những chỉ dấu tốt, chứng tỏ người ta đã nhận ra nhu cầu thiết yếu của các trường đại học mới, tuy vậy nhiều vấn nạn vẫn còn nguyên đó. Các quan chức ngành giáo dục Việt Nam vẫn giữ chặt quan điểm “nhà nước là trung tâm” khi nói về hợp tác đào tạo đại học, trong đó nhà nước, chứ không phải các học viện là đối tác chính với nước ngoài. Cách tiếp cận này hoàn toàn không phù hợp khi làm việc với hệ thống giáo dục tản quyền ở mức độ cao như ở Hoa Kỳ, trong đó mỗi trường đại học chiếm vai trò quyết định chính và chính quyền chỉ có vai trò rất hạn chế. Thứ hai, chính quyền vẫn phô bày não trạng “kế hoạch hoá tập trung” khi thiết kế các sáng kiến phát triển các trường đại học, bào gồm cả việc quyết định trước những môn học mà trường đại học mới mở sẽ tập trung vào dạy (Dự án ban đầu gợi ý tập trung chủ yếu vào các ngành khoa học và kỹ thuật, có lẽ để tránh các môn nhân văn và xã hội). Thứ ba, mặc dầu các dự án được hoạch định trên căn bản là các đối tác quốc tế sẽ cung cấp các nhà quản lí và giảng viên, nhưng cách thức phân phối các nguồn tài chính như thế nào thì không được xác định, không ai biết các khoản tiền vay từ các nhà tài trợ đa phương có được dành cho các đối tác quốc tế hay không. Cuối cùng, người ta phải chờ xem mức độ tự trị và tự quản mà các học viện này được phép như thế nào [7].

B. Hợp tác:
Kể từ năm 1986, sinh viên Việt Nam ra du học nước ngoài ngày càng nhiều. Trong những năm đầu của đổi mới, phần lớn các sinh viên du học qua các chương trình học bổng song hoặc đa phương như các chương trình Fullbright hoặc chương trình World Bank… Khi xã hội VN trở nên khá giả hơn, các gia đình Việt Nam đã bắt đầu cho con cái đi du học tự túc. Những năm gần đây, con số sinh viên VN đi du học tại Mỹ gia tăng nhanh chóng một cách đặc biệt. VN nằm trong số 20 quốc gia hàng đầu gửi sinh viên đến Hoa Kỳ du học. Các kinh tế gia VN ước lượng các gia đình VN đang tiêu dùng ít nhất 1 tỉ đô la mỗi năm cho việc du học.
Du học nước ngoài là một phản ứng quan trọng trước sự khủng hoảng giáo dục đại học tại VN, nhưng không thể là một giải pháp được. Trước hết và quan trọng nhất, du học chỉ là một lựa chọn của một thiểu số rất nhỏ, những người có tiền hoặc may mắn có được học bổng. Đang có một sự chênh lệch rộng và ngày càng gia tăng giữa thành thị và nông thôn, giữa tầng lớp thượng lưu giàu có và đại đa số dân chúng còn nghèo. Việt Nam là một quốc gia rộng lớn, và không thể khoán trắng nền giáo dục đại học cho các trường đại học nước ngoài. Thứ hai, ngày nào mà các trường đại học tại Việt Nam vẫn chỉ cung cấp được môi trường làm việc thảm hại và những tưởng lệ thiếu hấp dẫn, thì các chuyên viên được đào tạo từ nước ngoài vẫn tránh né làm việc tại môi trường đại học. Một thăm dò không chính thức dành cho sinh viên trên đại học Việt Nam ở Mỹ cho thấy đa số không muốn quay trở lại trường đại học Việt Nam, nhưng sẽ cân nhắc quay trở lại nếu môi trường làm việc hấp dẫn hơn.

C. Yếu tố quốc tế:
Nhiều năm nay, các cơ quan tài trợ quốc tế đã hỗ trợ các chương trình trao đổi sinh viên. Do yêu cầu của chính phủ Việt Nam, các cơ quan này đã đầu tư rất nhiều vào hệ thống giáo dục đại học. Theo quan điểm của chúng tôi, nỗ lực của các nhà tài trợ trong lĩnh vực này không hiệu quả, bởi vì họ làm rất ít, nếu không nói là không có gì, để giải quyết các vấn đề liên quan đến điều hành của chính phủ. Các khoản tài trợ đã không được phân phối trên cơ sở cạnh tranh, và những viện / trường được nhận tiền báo cáo rằng họ có ít quyền trong việc quyết định các khoản tiền được sử dụng như thế nào.
Các trường đại học quốc tế đã được khuyến khích để thiết lập các chương trình đào tạo tại Việt Nam, một cách độc lập hoặc (thường xảy ra hơn) thông qua hợp tác với các học viện trong nước. Trừ một vài ngoại lệ, các dự án này chỉ nhằm mục tiêu trục lợi và do đó chỉ nhắm vào những ngành thực dụng đã sẵn có nhu cầu (như tiếp thị, quản trị, lập trình v.v.). Việc tuyển sinh phần lớn dựa vào khả năng trả học phí và phần lớn vượt quá tầm tay của đại chúng. Có thể nói rằng những chương trình như thế chỉ là phần nhỏ bé không đáng kể đối với hệ thống giáo dục đại học. Những học viện này không đáp ứng được nhu cầu giáo dục cao đẳng có chất lượng cao.
Chính phủ Việt Nam rất mong thu hút sự tham gia hợp tác của những đại học hàng đầu trên thế giới, đặc biệt là các trường đại học Hoa Kỳ. Chúng tôi cho rằng cần 3 yếu tố chính để đạt được mục tiêu này. Thứ nhất, chính phủ phải nhận thức rằng các đại học có chất lượng cao sẽ không vào Việt Nam dưới vai trò những công ty đầu tư. Hơn nữa, trong cuộc chạy đua toàn cầu để tìm tài năng xuất sắc, các đại học Hoa Kỳ luôn luôn là những đối tác được nhiều người đeo đuổi. Nói thẳng ra là, Việt Nam phải chấp nhận trả giá cao. Thứ hai, cũng quan trọng không kém, chúng tôi phải nhấn mạnh rằng, các trường đại học danh tiếng sẽ không chấp nhận hạ thấp tiêu chuẩn của họ, và như thế chính phủ Việt Nam chỉ có cách cam kết theo đuổi một quy cách điều hành tốt hơn cho hệ thống giáo dục đại học, bao gồm chấp nhận chương trình giảng dạy và chế độ tự quản lớn hơn cho các trường đại học. Thứ ba, bởi vì hệ thống giáo dục đại học cao đẳng tại Hoa Kỳ có tính tản quyền cao độ, chính phủ Hoa Kỳ sẽ chỉ đóng một vai trò hạn chế, mang tính hỗ trợ trong việc thúc đẩy hợp tác của các viện đại học Hoa Kỳ.

IV. Kết Luận: Cần cải cách cơ chế

Cải tổ toàn bộ cung cách điều hành của chính quyền là chìa khoá để cải tiến nền giáo dục đại học tại Việt Nam. Tuy nhiên, cải tổ các học viện giáo dục đào tạo ở bất cứ nơi đâu cũng là một tiến trình lâu dài. Đây là lý do tại sao chúng tôi tin rằng Việt Nam phải xây dựng một học viện đào tạo đại học mới, mà ngay từ đầu đã có cơ chế điều hành tốt nằm trong DNA của nó [8]. Nỗ lực như thế sẽ tạo ra tác động có thể tạo chuyển biến hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam. Một học viện mới sẽ cung cấp một mái nhà hấp dẫn cho các nhà khoa học trẻ Việt Nam, những người mà hiện nay không tha thiết theo đuổi nghề giảng dạy đại học tại Việt Nam. Thứ nhì, một học viện mới như thế sẽ là kiểu mẫu cho các học viện khác học hỏi và noi theo, cũng như là một động lực cạnh tranh lành mạnh và rất mực cần thiết. Chúng tôi tin rằng Uỷ ban Đặc Nhiệm về Giáo Dục Đại Học có vai trò độc nhất vô nhị trong việc thúc đẩy tiến trình cải cách ở Việt Nam bằng cách xây dựng một lộ đồ toàn diện và khả thi cho cải cách cơ chế ở Việt Nam.

Thomas J. Vallely & Ben Wilkinson
Tháng 11/2008

Nguồn:
Harvard Kennedy School, Ash Institute: “VIETNAMESE HIGHER EDUCATION: CRISIS AND RESPONSE” (November 2008)
Xuyến Như chuyển ngữ
-----------------------------------

[1] Chương Trình Việt Nam thuộc Chương Trình Châu Á của Học Viện Ash trực thuộc Trường Kennedy. Đường hướng của Học Viện Ash là nâng cao phẩm chất của chính quyền và chính sách công. Tại Châu Á Thái Bình Dương, kế hoạch này hướng trọng tâm vào Trung Hoa, Việt Nam, và một vài quốc gia khác.
[2] Để có đánh giá một cách hệ thống và tương đối về các thách thức chính sách mà Việt Nam phải đối mặt, xem thêm
Choosing Success: The Development of East and Southeast Asia and Lessons for Vietnam” ( “Lựa chọn Thành công: Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam)
[3] Hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ thống học viện Xô Viết, trong đó trường đại học chủ yếu là để giảng dạy, còn các nghiên cứu được thực hiện tại các viện nghiên cứu. Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực thúc đẩy nghiên cứu tại trường đại học, nhưng chỉ thành công rất nhỏ, vì lý do giải thích ở bên dưới đây. Như Bảng 1 cho thấy, các viện nghiên cứu ở Việt Nam cũng không làm tốt việc nghiên cứu cho lắm.
[4] Phân tích của chúng tôi về thất bại của việc quản lý ở Việt Nam dựa theo những phân tích của
Uỷ ban Đặc biệt về Giáo dục Đại học, Ngân hàng Thế Giới và UNESCO chủ trì, dưới sự chủ toạ của Giáo sư Henry Rosovsky (trường Harvard) và Giáo sư Mamphela Ramphele (trường University of Cape Town). Trong báo cáo kết quả của mình, "Peril and Promise: The Challenges of Higher Education in Developing Countries", Uỷ ban này đã kết luận rằng quản lý của chính quyền chính là rào cản lớn nhất khiến giáo dục không đạt kết quả tốt hơn. Giáo sư Rosovsky hiện là cố vấn cho công trình nghiên cứu đang được tiến hành tại Ash Institute về cải cách thể chế ở Việt Nam.
[5] Cũng cần phải nhấn mạnh rằng còn một thứ trong hệ thống giáo dục chưa bị làm què quặt bởi tham nhũng và gia đình trị là các cuộc thi tuyển sinh đại học. Chính phủ đã bỏ khá nhiều công sức để đảm bảo rằng quá trình thi cử này không bị vẩn đục. Kết quả là những học sinh được nhận vào thường có tài năng và nhiều người đã thành công trong việc bổ sung kiến thức cho chương trình học lỗi thời bằng cách tự học.
[6] Trong những năm gần đây, các trường đại học tư đã nở rộ. Tuy nhiên, những trường này vẫn phải chịu nhiều kiểm soát giống như đại học công. Hầu hết trong số đó là các tổ chức tìm kiếm lợi nhuận và dựa vào học phí để tạo ra lợi nhuận; và kết quả là chất lượng nói chung là thấp.
[7] Trường "Đại học Việt Đức" là trường đại học mới đầu tiên kiểu này. Đây là một dự án liên kết giữa chính quyền Việt Nam và chính quyền Đức.
[8] Chúng tôi đã khuyến nghị chính phủ Việt Nam là cần tập trung một tập đoàn các trường đại học Mỹ để xây dựng một trường nghiên cứu, ban đầu là để cung cấp giảng dạy đại học, rồi từ từ đưa ra các chương trình giảng dạy sau đại học.Phụ Lục 1
Giáo sư Hoàng Tuỵ được công nhận là một nhà khoa học Việt Nam có công trạng to lớn trong thế kỉ XX. Là nhà toán học, ông đã xuất bản những công trình khoa học trên các tạp chí quốc tế và có một định đề mang tên ông. Giáo sư Tuỵ đã nổi bật qua những phê phán sắc bén về giáo dục đại học và khoa học. Tiểu luận dưới đây đã phổ biến trên tạp chí Tia Sáng của Bộ Khoa Học & Kĩ Thuật. Chương Trình Việt Nam của Harvard đã dịch từ bản tiếng Việt.

Năm mới, chuyện cũ
Cách đây mấy tháng, phát biểu trước Quốc hội khi từ nhiệm, nguyên Thủ Tướng Phan Văn Khải nhìn nhận chúng ta không thành công trên lĩnh vực giáo dục và khoa học. Gần đây, ông Lý Quang Diệu, một chính khách lỗi lạc của Singapore, lại có lời nhắc nhở chúng ta: thắng trong giáo dục thì sẽ thắng trong kinh tế.
Trong không khí rộn ràng chuẩn bị cho việc hội nhập quốc tế khi đất nước gia nhập WTO, mong rằng hai ý kiến đó sẽ tạo một cú hích mới cho giáo dục và khoa học Việt Nam.

Thật ra sự trì trệ triền miên của giáo dục và khoa học Việt Nam nhiều năm qua là sự thật khách quan dễ nhận thấy. Nhưng đây là lần đầu tiên sự thật đó được chính thức thừa nhận bởi người có trách nhiệm chính quyền cao nhất trong một thời gian dài. Nếu như trung thực với chính mình, không tự ru ngủ bằng những thành tựu ảo hay phóng to lên nhiều lần, là điều kiện đầu tiên để thành công trong hội nhập thì nhận định của vị cựu lãnh đạo không những không làm chúng ta bi quan mà ngược lại đã gây cho chúng ta niềm tin vào tương lai hơn, vì từ đây ta biết rõ hơn mình đang ở đâu và cần làm gì để gỡ lại sự chậm trễ.
Singapore là nước đã bứt phá ngoạn mục từ kém phát triển lên tiên tiến trong thời gian 3-4 thập kỷ, nhờ chủ yếu đã biết chăm lo giáo dục từ sớm. Cho nên lời khuyên của họ có trọng lượng thuyết phục hơn cả mọi lý thuyết. Phải nói rằng chúng ta cũng đã có những nhà lãnh đạo sáng suốt nhìn nhận tầm quan trọng “quốc sách hàng đầu” của việc phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ. Song thực tế nhiều năm qua cho thấy không dễ gì đưa được quan điểm ấy vào cuộc sống. Trong khi các văn kiện, nghị quyết nhấn mạnh quan điểm ấy, thì nhiều chính sách thực tế liên quan giáo dục và khoa học đều thể hiện tinh thần ngược lại. Hy vọng lần này tác dụng cộng hưởng của hai ý kiến trên của hai chính khách Việt Nam và Singapore sẽ làm thức tỉnh quan chức ở mọi ngành để có quyết tâm cao hơn góp sức chấn hưng giáo dục và khoa học vì sự phát triển của đất nước.

1. Cần một tầm nhìn chiến lược. Muốn vực giáo dục và khoa học lên, vấn đề đầu tiên không phải là “tiền đâu”. Thật sự nguyên nhân chính của sự suy thoái giáo dục, khoa học không phải do thiếu tiền mà do ta không biết cách làm, cách quản lý. Giáo dục, khoa học là một hệ thống phức tạp, chỉ có thể quản lý tốt trên cơ sở hiểu biết đầy đủ các đặc thù hệ thống của nó, và chú ý kinh nghiệm của thế giới và các thế hệ đi trước. Điều quan trọng trước hết là phải có một tầm nhìn chiến lược về mục tiêu trước mắt và lâu dài, hướng đi, nhu cầu, khả năng trong xu thế phát triển, tư tưởng chỉ đạo, đường lối tổng quát, cũng có thể gọi là triết lý làm giáo dục, khoa học thời nay, trong thế giới này.
Thiếu một tư duy hệ thống, một tầm nhìn chiến lược bao quát thì dễ sa vào sự vụ, nay thế này mai thế khác, “cải cách” liên miên nhưng vụn vặt, chắp vá, không nhất quán, rốt cục tiêu tốn nhiều mà kết quả chỉ là làm rối thêm một hệ thống vốn đã què quặt, không có sinh khí. Thế giới ngày nay biến chuyển mau lẹ, xây dựng giáo dục và khoa học trong thế giới đó đòi hỏi những người lãnh đạo không chỉ có tâm trong sáng và trung thực mà còn phải đủ tầm nắm bắt nhanh nhạy những biến chuyển đó và có khả năng suy nghĩ sáng tạo để tìm ra chiến lược phát triển thích ứng nhất.

2. Một lỗi hệ thống cần sửa. Không đâu cần bốn chữ cần kiệm liêm chính hơn trong lĩnh vực giáo dục, khoa học. Một nền giáo dục, khoa học đã thiếu vắng các đạo đức cơ bản ấy tất nhiên hoạt động không bình thường và sớm muộn lâm vào bế tắc. Khi đó chỉ bằng những điều chỉnh cục bộ theo cơ chế phản hồi trong điều hành không cứu nổi hệ thống, mà phải tìm cho ra các lỗi hệ thống và sửa các lỗi đó mới mong đưa được hệ thống ra khỏi khủng hoảng. Vậy cái lỗi hệ thống gì khiến cho giáo dục, khoa học của ta thiếu cần, thiếu kiệm và thiếu cả liêm, chính? Câu hỏi này đặt ra không chỉ cho giáo dục, khoa học mà cho cả bộ máy nhà nước ta. Chính vì cái lỗi hệ thống đó nên cuộc chiến chống tham nhũng cho đến nay vẫn chưa thành công.
Mấu chốt nằm ở nghịch lý lương/thu nhập: lương chỉ bằng một phần nhỏ thu nhập ngoài lương, thì đương nhiên người lao động giáo dục, khoa học phải dồn phần lớn tâm trí, khả năng để kiếm thu nhập ngoài lương, mà phần này thì phân phối tùy tiện, bất công, không có kiểm toán chặt chẽ, cho nên là nguồn gốc nhiều sự tiêu cực mà ai cũng biết. Vì sao nói đó là lỗi hệ thống? Vì nó chi phối, làm méo mó mọi quan hệ trong hệ thống. Đến mức bây giờ dù có tăng lương cho đủ sống mà không sửa cái lỗi hệ thống đó thì cũng chẳng thay đổi được tình hình. Thậm chí lỗi hệ thống đó đã sản sinh ra những quan hệ vận hành lâu ngày trở thành một phần cấu trúc của hệ thống nên ngay khi đã sửa lỗi đó rồi cũng phải đợi một thời gian và có thể phải sửa thêm một số lỗi hệ thống khác nữa mới đưa được hệ thống về hoạt động bình thường.
Dù sao, giải tỏa cái nghịch lý lương/thu nhập là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cần, kiệm, liêm, chính và do đó nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục, khoa học. Tôi dám cam đoan còn tồn tại nghịch lý đó thì giáo dục, khoa học còn hư hỏng. Mà giải tỏa cái nghịch lý đó hoàn toàn khả thi về tài chính, nhưng đương nhiên khó khăn tư tưởng khá lớn vì nó đụng chạm đến một bộ phận khá đông quan chức được hưởng lợi từ cách quản lý thiếu minh bạch này. Chung quy vấn đề là ta có thật sự muốn xây dựng một nền giáo dục, khoa học lành mạnh hay không, đó chính là câu hỏi phải trả lời trung thực.

3. Tư duy toàn cầu. Muốn thắng cuộc trong thế giới toàn cầu hóa, tất nhiên mọi suy nghĩ và hành động đều phải chú ý tới luật chơi chung. Phải hướng tới và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế trong mọi lĩnh vực hoạt động thì mới có thể hợp tác và cạnh tranh được. Tiếc thay, từ việc đào tạo tiến sĩ, việc tuyển chọn giáo sư, tiêu chuẩn đánh giá trình độ một công trình khoa học, một nhà khoa học, một trường đại học, chúng ta đều có tiêu chuẩn riêng chẳng giống ai. Có những công trình khoa học, những luận văn tiến sĩ của ta ngay cả về những ngành học thuật có tính quốc tế như khoa học cơ bản, kinh tế, v.v..., nếu xét theo tiêu chuẩn thông thường ở các nước thì thậm chí chỉ là những mớ giấy lộn. Đội ngũ GS của ta thì nhiều người hữu danh vô thực, số khá đông dưới xa chuẩn mực quốc tế bình thường nhất.
Oái ăm là trong khi đó nhiều người có năng lực xứng đáng, nhất là người trẻ, lại bị loại vì không đạt các tiêu chuẩn vớ vẩn, không giống ai, của ta. Chẳng lạ gì có những ông A bà B trong nước được coi là nhà khoa học nổi tiếng mà trên quốc tế hoàn toàn vô danh. Thời gian gần đây lại xuất hiện ngay trong hàng ngũ các quan chức hàng loạt viện sĩ “hữu nghị”, viện sĩ “chạy”, viện sĩ “mua”, hoàn toàn không xứng với danh hiệu mà nhiều người vẫn tưởng là dành cho những tài năng lỗi lạc.
Chuẩn mực xô bồ như vậy mà ngày nọ tôi còn thấy môt vị lãnh đạo của Hội đồng Chức danh GS tuyên bố trên báo rằng GS... phải là người xây dựng được trường phái học thuật của mình (!). Thật tình tôi không biết cái gọi là trường phái học thuật đó có gì chung với khái niệm trường phái học thuật theo cách hiểu thông thường ở các nước. Với chuẩn mực khác người như vậy, làm sao có thể hội nhập quốc tế dễ dàng được.
Cái nguy hại của việc huênh hoang bất chấp các chuẩn mực quốc tế là ta tự lừa dối ta quá dễ dàng, cuối cùng thật giả lẫn lộn, chẳng còn sự phân biệt nào giữa người có năng lực thật và những kẻ bất tài. Các chức danh GS, PGS ở Việt Nam bây giờ quá rẻ, đến độ khi bàn về nhân tài mà nêu GS nọ GS kia, nhiều người nghe cũng đủ ớn.

4. Trách nhiệm cộng đồng. Kinh tế tri thức thực chất là nền kinh tế dựa vào chất xám và tài năng. Cho nên công cuộc hội nhập muốn thành công phải coi trọng đặc biệt vấn đề thu hút nhân tài. Đã từ nhiều năm Nhà nước hô hào người Việt thành tài ở nước ngoài về nước làm việc. Chủ trương đó rất đúng đắn và cần thiết. Tuy nhiên sự thực thì vấp phải quá nhiều rào cản, mà rào cản lớn nhất là chủ trương chung thì thoáng nhưng đi vào cụ thể thì còn nhiều chính sách rất bí. Từ cấp lãnh đạo cao đến người dân chưa phải ai cũng đã thật sự thông suốt với chủ trương này.
Chẳng hạn các cơ quan quan trọng như Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ đều có nhiều quy định kỳ lạ, thể hiện những quan niệm rất bảo thủ và lạc hậu hoàn toàn không đếm xỉa gì đến những yêu cầu tối thiểu về điều kiện làm việc cho các nhà khoa học. Một vài ví dụ: theo quy định của bộ Tài Chính, tiêu chuẩn không gian nơi làm việc cho giáo sư thấp hơn cả trưởng phó phòng hành chính, giáo sư phải chen chúc nhiều người trong một phòng chật hẹp, tìm đâu có chỗ để nghiên cứu, thảo luận, gặp gỡ giúp đỡ sinh viên. Tiền thù lao giờ giảng thì phụ thuộc chức vụ hành chính một cách lố bịch (Thứ, Bộ trưởng được thù lao giờ giảng cao hơn hẳn GS, PGS). Xếp ngạch bậc lương thì GS bậc cao nhất cũng chưa bằng chuyên viên cao cấp bậc thấp nhất, và số bậc nhiều đến mức phần lớn nhà khoa học giỏi làm việc nghiêm túc đến khi nghỉ hưu vẫn chưa leo lên được đến bậc cuối cùng, trừ khi tuổi hưu được gia hạn đến... 90 hay 100.
Hôm nọ tôi thấy trên báo còn có độc giả phát biểu: những người được đi học thành tài ở nước ngoài chưa đóng góp được gì cho Tổ quốc mà đòi hỏi điều kiện đãi ngộ này nọ là không ổn.
Ai dám bảo ý kiến đó sai, nhưng sao mà nó giống với ý kiến: giáo sư là gì mà đòi hỏi buồng riêng, hoặc: anh là nhà khoa học Việt kiều, đã sống sung túc bao nhiêu năm, bây giờ về nước công tác sao còn đòi hỏi ưu đãi nọ kia. Với những quan niệm như thế thì thôi xin đành gác lại chủ trương thu hút người tài, và lùi cái thời hạn đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu sang thế kỷ 22 hoặc sau nữa.

5. Tư duy tốc độ. Để hội nhập thành công trong thế giới ngày nay, không chỉ cần hiệu quả mà còn cần tốc độ, hay nói đúng hơn đáp ứng nhanh trở thành một lợi thế đáng kể trong kinh doanh, nhiều khi còn quan trọng hơn hiệu quả.
Số là, cho đến gần đây, tiêu chí hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh là hiệu quả và thông thường các hãng tập trung vào dự đoán nhu cầu của khách hàng và tăng hiệu quả đồng vốn. Logic kinh doanh đó thích hợp khi thị trường ổn định và thay đổi chậm. Nhưng ngày nay, khi thị trường khó tiên liệu và thế giới biến chuyển nhanh chóng mặt, thì cái logic ấy không còn thích hợp mà phải nhường chỗ cho một logic mới đặt ưu tiên vào khả năng thích ứng mau lẹ nhiều hơn là hiệu quả. Trước kia cặm cụi “làm-ra-và-tiêu-thụ” - make-and-sell thì bây giờ phương châm hoạt động là thường xuyên “nắm-bắt-và-ứng-đáp” - sense-and-respond. Tốc độ, khả năng thích ứng mau lẹ trở thành yêu cầu tối quan trọng, nếu không muốn bỏ lỡ cơ hội.
Trong cái thế giới đổi thay cực nhanh này, khó ai chấp nhận kiểu làm việc lề mề, chậm chạp như chúng ta. Cải cách hành chính hơn mười năm chưa thấy kết quả gì, chỉ thấy làm rối thêm một số việc đơn giản. Nhiều lỗi hệ thống là nguyên nhân chủ yếu sinh ra tham nhũng, quan liêu, lãng phí tràn lan, nhưng vẫn cứ tồn tại năm này qua năm khác. Kỳ họp Quốc hội nào cũng lên án mạnh mẽ tham nhũng, thế mà rồi cái quốc nạn ấy không hề bị đẩy lui. Ngay cái tập quán phong bì là nét văn hóa đáng xấu hổ của xã hội ta mà hàng chục năm rồi vẫn ngang nhiên tồn tại, thậm chí văn phòng một cơ quan đầu não còn làm gương xấu.
Giáo dục, khoa học trì trệ, trong lúc chất xám bị sử dụng hết sức lãng phí. Năm này qua năm khác, hội thảo đi rồi hội thảo lại không biết bao nhiêu lần mà vẫn không có được một chính sách cụ thể khả dĩ đem lại chút niềm tin trong vấn đề này. Bàn đi tính lại mãi chuyện khuyến khích tài năng, cuối cùng chỉ làm được mỗi việc là ghi tên các thủ khoa đại học vào bảng vàng để ở Văn Miếu!
Từ hơn mười năm về trước đã có biết bao đề nghị hợp lý về cải cách, chấn hưng giáo dục, từ việc đào tạo tiến sĩ, công nhận GS, PGS, đến nhiều việc cụ thể khác về thi cử, phân ban, tuyển sinh, tự chủ đại học,v.v. có thể nói không có vấn đề gì thiếu những đề nghị cải cách cụ thể, nhưng mãi đền gần đây một số những đề nghị ấy mới bắt đầu được nghiên cứu. Cải cách quản lý luôn là những chủ đề nóng của giáo dục và khoa học, nhưng cũng không có lĩnh vực nào đổi mới chậm chạp hơn giáo dục và khoa học.
Ngay gần đây nhất cái ý tưởng hay lập một đại học đẳng cấp quốc tế, từ lúc được Thủ Tướng chấp nhận và nêu ra, được nhiều nhà khoa học Mỹ nhiệt tình ủng hộ, đến nay đã gần hai năm vẫn chưa thấy hình hài rõ ràng. Anh bạn tôi kể lại trong khi đó Thủ tướng Trung Quốc vừa sang thăm một nước Phương Tây, thỏa thuận với họ cho một đại học nổi tiếng mở chi nhánh ở Bắc Kinh thì chỉ mấy tháng sau họ đã chiêu sinh. Cơ hội gì cũng chỉ trong thời gian nào đó, có bao giờ là vĩnh viễn.
Sống trong thời đại internet, tên lửa vũ trụ, điện thoại di động, mà cứ giữ nếp tư duy chậm chạp và làm việc rùa bò thì mọi thời cơ bay đi hết. Không ai đủ kiên nhẫn chờ chúng ta. Thời đại công nghệ thông tin vừa mới bắt đầu chưa lâu la gì thì nay họ đã bàn chuyển qua thời đại công nghệ nano, chưa biết rồi sẽ còn những gì bất ngờ nữa đây để liệu mà vừa làm vừa nghĩ vừa chạy, vẫn không kịp “sense-and-respond”.


No comments: