Việt Nam vừa muốn Mỹ
giúp ở Biển Đông, vừa muốn Trung Quốc giúp về an ninh chế độ
Sheena Chestnut Greitens và Isaac B. Kardon | Foreign Policy
Tạ
Kiều Trang,
biên dịch
Washington
không nên đánh giá quá cao sức ảnh hưởng của mình đối với Hà Nội.
Trong
bốn năm qua, chính quyền Biden đã đầu tư đáng kể nhằm mở rộng và làm sâu sắc mối
quan hệ quốc phòng với Việt Nam. Những nỗ lực này đã đạt đến một tầm cao mới
khi hai bên thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện trong chuyến thăm cấp
nhà nước của Tổng thống Joe Biden tới Hà Nội vào tháng 9 năm 2023.
Đối
với Mỹ, thúc đẩy hợp tác quốc phòng với Việt Nam là một phương thức quan trọng
để hiện thực hóa “lợi ích an ninh chung” ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình
Dương, nhất là để đối phó với các hoạt động của Trung Quốc tại các vùng biển
tranh chấp. Điều này được nhấn mạnh rõ trong cuộc gặp giữa Biden và Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm tại New York vào tháng 9 năm ngoái. Hai nhà lãnh
đạo đã thảo luận về việc “hợp tác để đảm bảo một khu vực Ấn Độ Dương – Thái
Bình Dương tự do và rộng mở” và “tái khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì
hòa bình và ổn định trong khu vực, đặc biệt là tại Biển Đông”.
Tuy
nhiên, quá chú trọng đến mở rộng quan hệ quốc phòng có thể dẫn đến những kết luận
sai lệch về bản chất thực sự của mối quan hệ Việt – Mỹ. Việt Nam có những lợi
ích riêng và đã vạch ra con đường của mình theo cách mà Washington chưa nhận
ra. Điều đáng nói nhất là, ngay trong lúc Hà Nội đang cần Mỹ hỗ trợ về phòng thủ
trên biển ở khu vực, các nhà lãnh đạo Việt Nam lại đang đẩy mạnh quan hệ an
ninh trong nước với Bắc Kinh, vốn đã ở mức thân tình, với một tiến trình thậm
chí còn nhanh hơn – họ chào đón Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong chuyến
thăm vào tháng 12 năm 2023, chỉ ba tháng sau chuyến thăm của Tổng thống Biden.
Các nhà lãnh đạo Việt Nam coi đó là một “dấu mốc lịch sử”.
Việt
Nam mở rộng quan hệ với cả hai bên không có nghĩa rằng mối quan hệ đang phát
triển với Mỹ là giả tạo hay thiếu chân thành. Hà Nội đã tích cực tìm kiếm sự hỗ
trợ từ Washington nhằm đối phó với các mối đe dọa lớn và nghiêm trọng từ Trung
Quốc đối với chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Tuy nhiên,
phạm vi của mối quan hệ đối tác này vẫn còn hạn chế. Khi tình hình trở nên gay
go, Bắc Kinh sẽ dùng tới sức ảnh hưởng vốn đã lớn và có lẽ sẽ ngày càng lớn lên
một vấn đề trọng yếu đối với giới lãnh đạo Hà Nội: sự tồn vong của chế độ.
Washington không nên ngạc nhiên nếu sức ép và đặc quyền tiếp cận Việt Nam của
Trung Quốc khiến nỗ lực xây dựng ảnh hưởng của Mỹ bị hạn chế và suy yếu.
Có
thông tin gần đây cho rằng Tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump có thể thăm Việt
Nam trong năm nay để kỷ niệm 30 năm hai nước bình thường hóa quan hệ. Cải thiện
quan hệ với Việt Nam cũng từng là một trong những ưu tiên của Bộ Quốc phòng
trong nhiệm kỳ Trump đầu tiên. Khi đó, Trump hai lần thăm Việt Nam. Nhưng tình
hình lần này có chút khác biệt. Khi chính quyền mới xây dựng chiến lược của Mỹ
đối với Việt Nam giai đoạn tiếp theo, họ không nên quá tự tin. Nếu không hiểu
rõ “chiến lược an ninh hỗn hợp” (hybrid security strategy) hiện tại của Hà Nội
và không đánh giá nghiêm túc những xu hướng cạnh tranh mới trong môi trường an
ninh của khu vực châu Á, các nhà lãnh đạo Mỹ có thể sẽ đánh giá quá cao sức ảnh
hưởng của mình ở Việt Nam – và thậm chí toàn khu vực châu Á.
Chính
quyền Biden đã lấy việc củng cố liên minh và quan hệ đối tác làm trọng tâm
trong chính sách châu Á. Đặc biệt, trụ cột “liên kết” trong chiến lược “đầu tư,
liên kết, cạnh tranh” (invest, align, compete) đối với Trung Quốc đã nhận được
sự hoan nghênh từ một số nước, chẳng hạn như Việt Nam, là những nước đang tìm
cách bảo vệ lợi ích của mình trước một Trung Quốc ngày càng mạnh và hung hăng.
Hà
Nội và Bắc Kinh đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
và nhiều lần tranh chấp quyền kiểm soát các khu vực này tại Biển Đông. Đặc biệt,
từ năm 2013 đến 2016, Trung Quốc tiến hành bồi đắp đất quy mô lớn và xây dựng hạ
tầng quân sự khổng lồ trên một số thực thể đang tranh chấp. Dù không chính thức
đứng về bên nào trong các tranh chấp chủ quyền, nhưng sau nhiều thập niên xa
cách, Mỹ đã bắt đầu phản ứng mạnh mẽ hơn trước các mối lo ngại của Việt Nam khi
vị thế của Trung Quốc tại Biển Đông ngày càng mạnh.
Chính
quyền Biden đã nhấn mạnh thành công trong việc tăng cường quan hệ quốc phòng với
Hà Nội, đưa hợp tác an ninh trên biển trở thành trọng tâm của quan hệ đối tác
chiến lược toàn diện. Giới chức Mỹ coi Việt Nam là một “quốc gia dao động quan
trọng” (critical swing state), trong đó sự hợp tác ngày càng phát triển với Việt
Nam có thể quyết định kết quả của cuộc cạnh tranh đang nổi lên giữa các cường
quốc trong khu vực.
Vào
năm 2016, sau một khoảng thời gian Trung Quốc gia tăng các hoạt động ở Biển
Đông, Mỹ đã dỡ bỏ lệnh cấm kéo dài đối với việc bán vũ khí sát thương cho Việt
Nam. Washington và Hà Nội cũng đã khởi xướng một số sáng kiến hợp tác, thông
qua và cập nhật tuyên bố chung về quan hệ quốc phòng giữa hai nước vào năm
ngoái.
Chuyến
thăm vào tháng 3 năm 2018 của tàu sân bay Carl Vinson của Mỹ đến Đà Nẵng – lần
đầu tiên một tàu sân bay Mỹ ghé cảng Việt Nam kể từ khi Mỹ rút quân khỏi Việt
Nam vào năm 1975 – đã đánh dấu một mức độ hợp tác quốc phòng mới. Các chuyến
thăm hải quân sau đó bao gồm hai tàu sân bay khác cùng các lực lượng trong nhóm
tác chiến của chúng, tàu chỉ huy Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ, cùng với một tàu của
lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ đã ghé cảng Cam Ranh vào mùa hè vừa qua. Những biểu
hiệu hỗ trợ rõ nét này đi đôi với những đợt chuyển giao vũ khí ngày càng có chiều
sâu và có độ tinh vi. Vào tháng 11 năm 2024, Mỹ đã bàn giao máy bay huấn luyện
T-6 (đợt chuyển giao tiếp theo có khả năng là F-16), cùng với lần bàn giao trước
đó gồm hai tàu tuần tra và 18 xuồng tuần tra. Phần lớn các hoạt động hợp tác quốc
phòng này đều liên quan đến an ninh biển, song an ninh mạng cũng đang trở thành
một lĩnh vực phát triển tiềm năng.
Chuỗi
những “lần đầu tiên” mới trong quan hệ quốc phòng Việt – Mỹ nhất quán với quan
điểm “không nơi nào trên thế giới lo ngại bá quyền Trung Quốc hơn Việt Nam”.
Quan điểm này có thể đúng, song những mối lo ngại về an ninh trong khu vực chỉ
là một phương diện trong cách Hà Nội nhìn nhận các mối đe dọa. Như các nhà phân
tích Việt Nam nhận định: “Việt Nam đi với Trung Quốc thì có thể mất nước, đi với
Mỹ thì có thể mất chế độ.”
Tình
thế nan giải trên chính là tóm lược của chiến lược hỗn hợp của Hà Nội, trong đó
Hà Nội tìm cách lôi kéo cả hai cường quốc cam kết bảo trợ cho các khía cạnh
khác nhau trong an ninh của mình. Chính vì vậy, gia tăng hợp tác với Mỹ không đồng
nghĩa rằng Hà Nội sẵn sàng hy sinh mối quan hệ với Bắc Kinh để đổi lấy sự ủng hộ
từ Washington hiện nay, hay thậm chí nhiều hơn hiện nay.
Ngay
cả khi mối quan hệ quốc phòng giữa Mỹ và Việt Nam ngày càng phát triển, Hà Nội
vẫn duy trì quan hệ đối tác an ninh sâu sắc với Trung Quốc. Tuy nhiên, không giống
như hợp tác với Washington mà trong đó chủ yếu tập trung vào quốc phòng và an
ninh biển, hợp tác an ninh giữa Việt Nam và Bắc Kinh nhắm đến củng cố cả hai chế
độ trước những mối đe dọa đối với vị trí cầm quyền của Đảng.
Ưu
tiên hàng đầu trong chính sách an ninh quốc gia của Tập Cận Bình là “an ninh
chính trị”, tức là bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Trung Quốc đối với hệ thống đó và vai trò trung tâm của Tập trong bộ
máy lãnh đạo. Các chuyên gia chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ cần hiểu rằng
các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng tập trung vào an ninh chính trị theo cách tương
tự. Điều này thể hiện thông qua tần suất và cấp bậc của các cuộc gặp gỡ liên
quan đến an ninh giữa Trung Quốc và Việt Nam trong hai năm qua. Các lãnh đạo Việt
Nam đã gặp gỡ tất cả các bộ phận trong cơ quan an ninh nội địa của Trung Quốc,
bao gồm bộ trưởng công an, bộ trưởng an ninh quốc gia, bộ trưởng tư pháp, trưởng
ban Chính trị và Pháp lý, người đứng đầu Lực lượng cảnh sát vũ trang nhân dân,
v.v. – thường xuyên và nhiều lần.
Khi
so với việc các bộ trưởng an ninh Trung Quốc lần lượt ghé thăm Hà Nội hay tiếp
đón các đồng cấp tại Bắc Kinh, những nỗ lực của Washington ở cấp cơ sở nhằm
thúc đẩy phụ nữ tham gia vào các lực lượng thực thi pháp luật (trong khuôn khổ
chương trình Phụ nữ, Hòa bình và An ninh của Liên Hợp Quốc) là đáng ghi nhận,
song, không giải quyết được những nhu cầu an ninh căn bản sẽ định hướng cho các
quyết định chiến lược của Việt Nam.
Hà
Nội đã thể hiện rõ ưu tiên của mình trong chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình
đến Việt Nam vào tháng 12 năm 2023. Ông Tập kêu gọi hai nước “đặt an ninh chính
trị quốc gia lên hàng đầu, giữ vững lá cờ đỏ chủ nghĩa xã hội không để bị thay
đổi, và dốc toàn lực ngăn chặn, hóa giải, cũng như kiềm chế mọi loại rủi ro an
ninh và chính trị.” Đáp lại, Việt Nam hoan nghênh và ủng hộ “Sáng kiến An ninh
Toàn cầu” của ông Tập, sáng kiến mà các nhà phân tích Trung Quốc mô tả là một
phần mở rộng trong chính sách đối ngoại dựa trên khái niệm an ninh quốc gia
toàn diện, trong đó lấy chế độ làm trọng tâm.
Để
thúc đẩy hợp tác an ninh, Trung Quốc đã làm việc chặt chẽ với các cơ quan công
an, an ninh và tình báo của Việt Nam nhằm duy trì “ổn định xã hội và đoàn kết
dân tộc.” Vào năm 2024, ông Lâm, khi đó giữ chức Bộ trưởng Công an, đã vươn lên
vị trí lãnh đạo cao nhất tại Việt Nam. Vài tháng trước khi đảm nhận cương vị
này, ông đã chỉ đạo một chiến dịch nhằm “tăng cường hợp tác giữa các cơ quan thực
thi pháp luật và an ninh của Trung Quốc với Bộ Công an Việt Nam trong các lĩnh
vực an ninh và tình báo, đặc biệt chú trọng đến bảo vệ chế độ và thể chế.”
Trong
chuyến thăm cấp nhà nước tới Bắc Kinh hồi tháng 8 năm 2024, ông Lương Tam
Quang, người kế nhiệm ông Lâm làm Bộ trưởng Công an, đã gặp Bộ trưởng Công an
Trung Quốc Vương Tiểu Hồng và Bộ trưởng An ninh Quốc gia Trần Nhất Tân. Chuyến
thăm này diễn ra ngay sau các cuộc diễn tập chống khủng bố chung giữa Bộ Công
an Việt Nam và Lực lượng Cảnh sát Vũ trang Nhân dân Trung Quốc. Ngoài ra, Việt
Nam cũng tham gia vào các chương trình huấn luyện cảnh sát của Trung Quốc.
Trong
khi Bộ Quốc phòng Mỹ và Việt Nam hợp tác hướng đến một tầm nhìn “hòa bình và thịnh
vượng khu vực” bằng cách đối trọng với Trung Quốc trên biển, các cơ quan an
ninh nội bộ của Việt Nam cũng theo đuổi mối quan hệ mật thiết với Trung Quốc nhằm
ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do và các thế lực đối lập – những thứ mà họ
tin rằng chủ yếu bắt nguồn từ Mỹ và từ chương trình thúc đẩy dân chủ toàn cầu của
nước này.
Nguyên
tắc an ninh cơ bản của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc hơn, điều
này thể hiện qua những cam kết kéo dài hàng thập kỷ nhằm chống lại các “chiêu
bài nhân quyền và dân chủ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam”. Hiện
nay, hợp tác an ninh nội bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc tập trung vào “trao đổi
thông tin tình báo, chống can thiệp, ngăn chặn ly khai, và tăng cường chia sẻ
kinh nghiệm cũng như hợp tác trong việc ngăn chặn “diễn biến hòa bình” của các
lực lượng phản động và thù địch, “cách mạng màu” và chủ nghĩa ly khai”. Những đợt
tập trận chống khủng bố chung tại Tân Cương với các đối tác Trung Á, một trung
tâm nghiên cứu chung với Campuchia để tìm hiểu cách ngăn chặn các cuộc cách mạng
màu, dù là gì đi nữa, những điều này đều phù hợp với khuôn khổ hợp tác an ninh
toàn diện của Trung Quốc nhằm tập trung giải quyết các mối đe dọa ở các khu vực
ngoại vi.
Chiến
lược hợp tác an ninh song song và không ràng buộc này cho thấy ý định của Việt
Nam trong việc duy trì một hướng đi độc lập trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược
ngày càng căng thẳng ở cả khu vực và trên thế giới. Chiến lược này bắt nguồn từ
thời kỳ Chiến tranh Lạnh, khi Việt Nam liên minh với Liên Xô và trở thành mục
tiêu tấn công từ Trung Quốc; cuộc chiến của Nga ở Ukraine dường như càng khiến
Hà Nội lo ngại sẽ bị đè bẹp trong cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc.
Vào
năm 2019, Việt Nam bổ sung vào bộ nguyên tắc “ba không” nổi tiếng – không tham
gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, và không
cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự – một nguyên tắc thứ tư: không sử dụng hay đe
doạ sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, cũng trong Sách trắng quốc phòng đó, Việt Nam
cũng nới lỏng ba điều cấm: “Tùy vào diễn biến tình hình và trong những điều kiện
cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng và quân sự với
các nước khác nếu cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi bên.”
Đối
với Việt Nam, hợp tác an ninh với cả Bắc Kinh và Washington là hợp lý, bởi vì mỗi
cường quốc sẽ mang lại những lợi ích an ninh khác nhau. Trung Quốc giúp giới
lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam duy trì ổn định trong nước và củng cố an ninh
chế độ, điều trớ trêu thay lại có thể bị đe doạ khi Việt Nam tăng cường quan hệ
với Mỹ. Mặt khác, hợp tác quốc phòng với Washington giúp Việt Nam đối phó với sức
mạnh hải quân của Trung Quốc, đồng thời giúp Việt Nam có thêm lựa chọn về mặt
chiến lược để không bị phụ thuộc Bắc Kinh trong khu vực.
Ở
những lĩnh vực khác, bao gồm các vấn đề an ninh phi truyền thống và đa dạng của
khu vực như tội phạm mạng, buôn người và buôn lậu ma túy xuyên biên giới, Việt
Nam chủ động hợp tác với cả Trung Quốc và Mỹ nếu có cơ hội. Tháng 7 năm 2024,
Việt Nam và Mỹ lần đầu tiên tổ chức Đối thoại An ninh và Thực thi Pháp luật. Chỉ
ba tuần sau, Việt Nam tham gia chương trình hợp tác thực thi pháp luật khu vực
của Trung Quốc, Hợp tác Mekong – Lan Thương, đồng thời ủng hộ tuyên bố chung gần
đây nhất về đấu tranh chống tội phạm xuyên biên giới. Trong tuyên bố chung có đề
cập đến các cuộc tuần tra chung của các quốc gia ven sông và nhắc đến Sáng kiến
An ninh Toàn cầu của Trung Quốc theo một cách tích cực.
Suốt
một thời gian dài, một phần trong chiến lược tự chủ của Việt Nam cũng bao gồm
việc nhập khẩu vũ khí từ Nga, một đối tác quốc phòng truyền thống. Tuy nhiên,
trong năm 2023, Việt Nam không đặt thêm đơn hàng vũ khí lớn nào với Nga, có lẽ
vì Nga phải dành nguồn lực cho cuộc chiến tốn kém và kéo dài ở Ukraine. Điều
này cho thấy Hà Nội cảm thấy cần phải khẩn trương tìm nguồn cung khác để đáp ứng
nhu cầu quốc phòng của mình. Tình hình thiếu chắc chắn của Nga sẽ là bài kiểm
tra xem liệu chiến lược hiện tại của Hà Nội có còn bền vững trong những năm tới
hay không.
Việc
Việt Nam quyết định hợp tác chặt chẽ với cả hai cường quốc đối địch trong vấn đề
an ninh sẽ giúp thay đổi quan niệm thông thường cho rằng sức hút duy nhất của
Trung Quốc đối với các nước là kinh tế. Những xu hướng tương tự cũng đã xuất hiện
ở Serbia và Hungary (một đồng minh của NATO), cũng như ở các Tiểu vương quốc Ả
Rập Thống nhất, nơi mà quan hệ đối tác quốc phòng kéo dài 30 năm với Mỹ cũng
không cản được các nước này đẩy mạnh hợp tác với Trung Quốc trong lĩnh vực công
nghệ giám sát và an ninh.
Trong
một số trường hợp, Washington có thể có các biện pháp của riêng mình hoặc phối
hợp với các đối tác khu vực như Úc, Nhật Bản và Hàn Quốc để giải quyết các nhu
cầu an ninh phi truyền thống và các nhu cầu an ninh nội bộ được coi là chính
đáng, đồng thời hỗ trợ xây dựng năng lực, đào tạo cũng như đưa ra các loại hỗ
trợ khác cho những vấn đề như phòng chống ma túy và đấu tranh chống nạn buôn
người.
Trong
một số trường hợp khác, khi mục tiêu của nước đối tác rõ ràng là sự sống còn của
chế độ chuyên chế, lúc đó Washington phải thừa nhận những giới hạn của mình, bởi
vì Bắc Kinh sẽ đưa ra những hỗ trợ mà Mỹ không thể mà cũng không nên bắt chước
theo. Nhìn chung, chính sách của Mỹ sẽ được cải thiện nếu Mỹ hiểu rõ hơn về mức
độ quyền lực và ảnh hưởng ngày càng tăng của các nước thứ ba. Việt Nam sẽ là một
điểm khởi đầu thích hợp để tham khảo.
------------------------------
Sheena
Chestnut Greitens là phó giáo sư tại Trường Công vụ Lyndon B. Johnson thuộc
Đại học Texas tại Austin.
Isaac
B. Kardon
là thành viên cấp cao về nghiên cứu Trung Quốc tại Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc
tế.
Nguồn: Sheena Chestnut
Greitens và Isaac B. Kardon, “Vietnam Wants U.S.
Help at Sea and Chinese Help at Home”, Foreign Policy,
13/1/2025
No comments:
Post a Comment