TS
Lê Học Lãnh Vân trao đổi với cháu Coca về di sản của người Pháp ở Việt Nam
Phan Thúy Hà
| Báo Tiếng Dân
05/08/2024
Phan
Thúy Hà:
Sáng nay, đọc tâm tình bác Lê Học Lãnh Vân, Coca muốn chia sẻ đến bác một bài
viết mới của cháu.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2024/08/2-4-768x537.jpg
Ảnh:
Bác Lê Học Lãnh Vân trong một buổi giới thiệu sách. Nguồn: Phan Thúy Hà
Lê
Học Lãnh Vân:
Phan Thúy Hà đang làm một việc rất có ý nghĩa là hối hả ghi lại cuộc sống của
các nhân chứng và nạn nhân “trong cuộc nội chiến chiến khốc liệt hai mươi năm”
vì “ký ức phai dần và quỹ thời gian của họ không còn nhiều”. Cô bạn nhà văn ấy
cho biết một người trẻ tên CoCa hỏi cô về giặc Mỹ và giặc Pháp độc ác, Hà “nhờ
các bác trả lời giúp”. Dưới đây là gợi ý của tôi nhằm trả lời giúp Phan Thúy
Hà.
***
Thư
bác Vân gửi Coca:
Cháu
thân yêu ơi,
Bác
hoan nghênh cháu đặt những câu hỏi. Thế hệ cháu và thế hệ bác cần những câu hỏi
thảo luận, bàn bạc, tâm sự như vậy để các thế hệ được gần gũi nhau.
Cháu
thắc mắc về giặc Pháp và giặc Mỹ. Lòng bác đau xót vì thế hệ bác đã làm gì, nói
gì để cháu thắc mắc như vậy. Trong thời đại ngày nay mà để cháu đặt câu hỏi đó,
bác tự thấy thế hệ mình có lỗi.
Cháu
ạ, đúng như cháu nghĩ, Pháp là giặc trong con mắt người Việt Nam.
Sở
dĩ có điều đó là vì người Việt thời đó, tức thế hệ ông, cha của bác đã chỉ thấy
cảnh người Pháp ức hiếp, khinh khi người Việt chứ không thấy người Pháp đối xử
văn minh và rộng lượng với người Việt.
Thế
hệ ấy chỉ thấy hai người phụ nữ là bà Blanche Richel và Hélène Blanche, phu
nhân và con gái của quan Toàn quyền Pháp Paul Doumer, đang rải tiền xuống đất
cho người dân Việt lượm năm 1900 tại chùa Láng, chứ không thấy những công trình
ông Paul Doumer, chồng và cha họ, đã làm cho Việt Nam. Bức ảnh ấy được đăng kèm
theo bài viết này.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2024/08/4-1024x778.jpg
Ảnh: Bà Blanche Richel, vợ
quan toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, và con gái Hélène Blanche rải tiền, trẻ
em và người lớn tranh nhau nhặt. Nguồn: Ảnh cắt từ đoạn phim (bên dưới) do
Gabriel Veyre quay tại chùa Láng, Hà Nội, năm 1900 và đã được phục chế màu.
Trong vòng
năm năm, ông Paul Doumer đã xây nên các công trình huyền thoại ở Việt Nam như cầu
Long Biên (Hà Nội), cầu Tràng Tiền (Huế), cầu Bình Lợi (Sài Gòn), cầu Hàm Rồng
nối Bắc Trung kỳ với Bắc kỳ, cảng Hải Phòng. Hệ thống đường sắt xuyên Đông
Dương mà tới giờ dân ta vẫn còn dùng như hệ thống vận chuyển Bắc Nam hữu hiệu
nhất.
Ngoài
những cơ sở hạ tầng giao thông, ông cũng để lại viện Viễn Đông Bác cổ Pháp –
EFEO, viện Pasteur Nha Trang, viện địa chất, địa lý, Nha khí tượng thủy văn,
trường Đại học Y Hà Nội… những cơ sở nâng cao dân trí mang mục đích phát triển
Việt Nam lâu dài. Ông cũng đặt nền móng pháp lý và xây dựng các thành phố Hải
Phòng, Đà Lạt…
Cháu
có biết đó là những công trình giao thông và khoa học, học thuật tiến bộ nhất của
thời đó không? Chúng khiến Việt Nam trở thành vùng đất giàu đẹp và văn minh
đương thời!
So sánh với
những công trình tiện ích lớn lao cho người Việt mà ông Paul Doumer để lại, việc
vợ, con gái của ông rải tiền xuống đất quá nhỏ bé. Nhưng người Việt chúng ta lại
để cho sự việc bé nhỏ che lấp hoàn toàn các công trình vĩ đại kia!
Người
Việt cũng không thấy các giá trị văn minh, khai minh mà người Pháp đem tới.
Chỉ
cần so sánh cách Pháp cai trị Việt Nam với cách Việt Nam cai trị Cao Miên vài
chục năm trước đó, dễ thấy nền cai trị của Pháp văn minh hơn của Việt Nam nhiều
lần! Từ cách đối xử với Pháp trước kia và với Mỹ về sau, dân ta chỉ tìm khía cạnh
dị biệt và gây phiền phức để khinh rẻ, hận thù, gây xung đột, không thấy điểm
tương đồng và các giá trị người ta mang lại cho mình để quý trọng, thương yêu,
hợp tác!
Nếu
dân ta thấy những điều đó, nếu dân ta đừng để các bực bội nhỏ nhặt che lấp tầm
nhìn xa rộng, che lấp các giá trị cao đẹp, biết đâu các cuộc chiến tàn phá sinh
lực quốc gia đã không xảy ra, nguyên khí Việt được giữ gìn nguyên vẹn phục vụ
cho công cuộc xây dựng và phát triển Tổ quốc…
Ôi,
càng nghĩ càng tiếc, cháu ạ!
Trong khi
rất đồng cảm tấm lòng của thế hệ chống Pháp, bác vẫn muốn nói với cháu suy nghĩ
tận đáy lòng, chia sẻ kinh nghiệm của vài thế hệ để mong thế hệ cháu nhìn ra và
không bước vào con đường kém hiệu quả của ông cha! Kém hiệu quả vì sau khi đốt
cháy nguồn lực xương sống của Tổ quốc giành được độc lập, Việt Nam nửa thế kỷ
nay loay hoay trong vòng tụt hậu.
Nếu
so sánh với những gì ông Toàn quyền Pháp Paul Doumer làm trong vòng năm năm cho
Việt Nam, những gì người Việt ta làm cho đất nước chúng ta trong vòng năm mươi
năm nay hình như còn thua về với độ lớn và tầm dài hạn. Nước người chỉ hai muơi
năm đã hóa rồng, nước ta năm mươi năm vẫn còn chậm tiến! Dòng tinh hoa về tài lực, trí lực tiếp
tục bỏ nước đi tị nạn giáo dục, tị nạn tri thức, tị nạn giá trị đạo đức…
Các
cháu thân yêu, không ít bạn bè bác lấy đất trời sông nước môi trường sống quê
hương làm niềm vui thanh thản, lấy việc góp sức phát triển quốc gia làm hạnh
phúc. Bác xin được cùng các cháu…
Bác
tin rằng cuộc sống tốt đẹp nhất là sống bằng tấm lòng nhân hậu, trung thực, sống
không tham vật chất ích kỷ, thấp hèn, sống không để quyền lợi phe nhóm, đảng
phái che lấp Tổ quốc. Tuyệt đối không để lòng căm thù che lấp các giá trị cao đẹp
nhân bản. Chỉ cần như vậy, bác tin các cháu sẽ phát triển cộng đồng như mong muốn,
xây dụng được cuộc sống ấm no, hạnh phúc…
Ngày
1 tháng 8 năm 2024
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2024/08/1-9-1024x670.jpg
Ảnh: Coca
năm lớp 1 (khi “viết dặc”) và Coca năm lớp 6
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2024/08/3-2-823x1024.jpg
Bài
viết của Coca: Đà Lạt và tuyến đường sắt răng cưa
Tôi
ngồi trên chuyến tàu hỏa đang băng băng trên tuyến đường sắt xuyên Việt được
hình thành từ thế kỷ XIX. Phong cảnh đất nước và con người Việt Nam hiện qua
khung cửa sổ con tàu thật phong phú, thật đẹp. Tôi nghĩ đến hình ảnh Việt Nam
khoảng 120 năm trước qua cuốn hồi ký “Xứ Đông Dương” của ông Paul Doumer mà bác
A2 đã tặng tôi trong lần về quê ở miền “Trung Trung Kỳ’’. Bác A2 với vẻ tự hào
chỉ cho tôi những dòng mà ông Doumer viết về người Việt Nam được in ở bìa cuối
cuốn sách: “Người An Nam chắc chắn là tộc người ưu trội so với các dân tộc xung
quanh…”.
Tôi
đã đọc cuốn hồi ký của ông Doumer trong một thời gian dài. Mỗi khi tôi muốn tìm
hiểu một vùng đất nào đó của Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
tôi đều tìm đến cuốn hồi ký dày 649 trang này. Cảnh vật, đời sống con người,
phong tục tập quán, nghi lễ, văn hóa… nước ta hiện ra thật sinh động khiến cho
tôi như đang được sống trong giai đoạn lịch sử ấy.
Ông
Paul Doumer tới Việt Nam năm 1897 để nhậm chức Toàn quyền Đông Dương. Trong nhiệm
kỳ 5 năm (1897-1902), ông đã thực hiện nhiều đổi mới về nhiều mặt ở nước ta để
khai thác thuộc địa hiệu quả. Ông Doumer viết trong hồi ký về việc khí hậu và bệnh
tật đã “kết án và thi hành án” tử hình nhiều người Pháp vì không thích nghi được
với thời tiết An Nam khiến tôi bị ám ảnh. Tôi nhớ nhất là câu chuyện về ông phó
sứ mà ông Doumer đã gặp khi tới Đà Nẵng. Cuộc đời ông thật ly kỳ và ấn tượng với
3 lần thoát án tử hình ở châu Âu nhưng khí hậu An Nam đã thi hành án tử hình
ông một cách không mấy khó khăn.
Quá
trình di chuyển đầy khổ cực để khảo sát thực tế khắp Đông Dương, ông Doumer đã
có nhiều quyết định để phát triển xứ sở này. Trong đó, ông nghĩ phải xây dựng
khu nghỉ dưỡng cho người Pháp tại đây. Nhà thám hiểm, bác sĩ Yersin đã viết thư
đề xuất với ông Doumer cho xây dựng một thành phố nghỉ dưỡng là Đà Lạt ngày
nay. Đây là nơi đã được ông Yersin khám phá ra từ năm 1893, là nơi khiến người
ta thấy mình như đang hưởng khí hậu của nước Pháp. Đến nay, thành phố Đà Lạt
tròn 130 tuổi.
Lần
đầu tiên tôi đến Đà Lạt cách đây 7 năm trong một chuyến theo mẹ đi công tác 9
ngày. Ký ức về Đà Lạt trong lần đầu đến ấy vẫn đọng lại trong tôi rất nhiều.
Ngay từ khi xuống máy bay, một bầu trời mát mẻ ùa vào tôi rất dễ chịu, khác hẳn
với Hà Nội đang nắng nóng. Một thành phố rộng lớn với rừng thông và ngàn hoa
khoe sắc và những con người thân thiện, tươi cười chào đón chúng tôi.
Khu
nghỉ dưỡng của chúng tôi ở trên lưng chừng đồi thông. Tôi và em Cá (con trai của
cô Thiên Thanh cùng đoàn công tác của mẹ tôi) chơi với nhau ngoài vườn hoa mỗi
khi mẹ tôi họp ở tòa nhà gần đấy. Một hôm, em Cá trêu tôi, tôi khóc chạy đến
phòng họp tìm mẹ. Nhưng khi đó tôi thấy mẹ tôi đang phát biểu và không khí cuộc
họp rất nghiêm túc nên tôi chỉ dám đứng bên ngoài lấp ló nhòm vào.
Đứng
ngoài một lúc lâu, mẹ tôi mới chợt nhìn thấy tôi và hớt hải ra ngoài hỏi tôi:
“Sao thế con?”. Khi ấy, tôi đã nín khóc và hỏi mẹ tôi về mấy điều tôi tò mò
nghe được nhưng mẹ bảo tôi về phòng trước đi, họp xong mẹ sẽ trả lời sau. Đó là
lần đầu tiên tôi nghe tới cái tên Paul Doumer và Yersin. Tôi đã hiểu, đó là những
người Pháp đầu tiên đã khám phá và khai sinh ra thành phố Đà Lạt này.
Đà
Lạt có rất nhiều công trình kiến trúc được xây dựng từ thời Pháp thuộc mà đến
nay vẫn còn giữ được sự cổ kính. Tôi đã được đến các điểm tham quan nổi tiếng của
thành phố trong sương này. Trên đỉnh LangBiang, tôi đã không đủ can đảm như em
Cá để cưỡi lên lưng con ngựa vằn chơi và chụp ảnh. Tôi chạy quanh trên núi và
ngắm toàn cảnh thành phố Đà Lạt với những đám mây trắng mờ ảo.
Các
điểm đến của thành phố tôi đều nhớ hết nhưng tôi nhớ nhất là đi uống cafe với mẹ
và mọi người ở nhà ga Đà Lạt. Mẹ hứng thú rủ tôi chụp ảnh với mẹ bên chiếc tàu
hỏa không còn hoạt động nữa. Mẹ chỉ cho tôi đoạn đường sắt răng cưa và nói, đây
chính là tuyến đường sắt huyền thoại của thế giới. Sau này, tôi tìm hiểu kỹ hơn
và được biết đây là một trong hai tuyến đường sắt răng cưa leo núi độc đáo của
thế giới chỉ có ở Việt Nam và Thụy Sĩ.
Tại
chuyến theo mẹ đi công tác Đà Lạt năm ấy, tôi được gặp những người nổi tiếng và
am hiểu về Đà Lạt mà sau này thỉnh thoảng tôi vẫn gặp họ trên ti vi. Tôi tiếc
vì hồi đó tôi còn nhỏ và chưa hiểu biết gì nên bỏ lỡ cơ hội tiếp xúc với họ nhiều
hơn.
Bây
giờ, mỗi khi nhìn thấy ai đó cưỡi ngựa tôi đều nhớ tới hình ảnh ông Doumer với
con ngựa An Nam nhỏ bé nhưng sức chịu đựng lớn. Con ngựa mà ông Doumer cũng
thương nó và thương cả chính ông khi đi khảo sát ở Trung Kỳ đã cùng phải lội
qua những vùng cát ngập đến khuỷu chân ngựa. Có lẽ, việc di chuyển rất khốn khổ
của ông Doumer khi đi khảo sát Đông Dương từ những ngày đầu đến nhậm chức đã tạo
động lực cho ông xây dựng những công trình giao thông quan trọng để phát triển
nền kinh tế xứ sở này.
Nước
An Nam của chúng ta khi ấy trong mắt ông toàn là những hình ảnh nghèo nàn, kém
phát triển. Ông viết trong hồi ký: “Quả thật như vậy là chưa tương xứng với một
xứ sở mà chúng ta đã xây dựng từ hơn 10 năm nay. Lẽ ra nơi này phải đang phát
triển kinh tế rất nhanh chóng”.
Ông
Doumer là người rất chú trọng việc xây dựng các công trình nhà cửa và giao
thông, bến cảng nhằm phát triển kinh tế tại các thuộc địa để phục vụ lợi ích
cho chính quốc Pháp. Ông cho mở mang Cảng Hải Phòng, cho nhập giống cao su về
trồng để xuất khẩu…
Dưới nhiệm
kỳ ông, Hà Nội là thành phố đầu tiên của châu Á có hệ thống chiếu sáng đường phố
bằng ánh điện. Cùng với đường sắt xuyên Việt, ông còn để lại dấu ấn của mình là
ba cây cầu đường sắt ở ba miền là cầu Doumer bắc qua sông Hồng (cầu Long Biên),
cầu Thành Thái (cầu Tràng Tiền) bắc qua sông Hương và cầu Bình Lợi bắc qua sông
Sài Gòn. Những công trình đường sắt mà ông Doumer đã quyết định xây dựng trên đất
Việt Nam cách đây hơn 100 năm, đến nay vẫn còn giá trị đối với nền kinh tế nước
ta. Vốn là người con của một công nhân hỏa xa nên có lẽ ông càng gắn bó và hiểu
tầm quan trọng của giao thông đường sắt đối với phát triển kinh tế. Giới báo
chí Pháp thời đó đã gọi ông là người của chủ nghĩa Đường sắt.
Trở
lại câu chuyện ông Doumer quyết định xây dựng thành phố Đà Lạt, ông cũng quyết
định lập tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm – Đà Lạt bởi phải có đường giao
thông thuận tiện để kết nối từ đồng bằng tới khu vực cao nguyên Lâm Viên này.
Năm 1932, trải qua mấy chục năm xây dựng và trải qua nhiều nhiệm kỳ của các
“Toàn quyền Đông Dương”, công trình đường sắt dài 84km này mới được hoàn thành.
Đó
là một nhánh của tuyến đường sắt xuyên Việt. Tuyến đường sắt này được hoạt động,
những chuyến tàu từ vùng biển lên cao nguyên rộn rã là mồ hôi và tính mạng của
biết bao người An Nam. Những phu hỏa xa khổ cực đã lao động bằng những dụng cụ
thô sơ để làm nên một công trình đường sắt huyền thoại của thế giới này.
Được
xây dựng đồng thời với tuyến đường sắt là nhà ga Đà Lạt. Ga Đà Lạt là nhà ga nằm
ở vị trí có độ cao nhất của nước ta – 1.500 mét so với mặt nước biển. Đến thăm
nhà ga Đà Lạt ngày nay, chúng ta sẽ cảm nhận được sự cổ kính qua kiến trúc độc
đáo của người Pháp. Tòa nhà ga chính với 3 mái vòm mang nét đặc trưng của kiến
trúc Pháp và mô phỏng 3 đỉnh núi trên dãy Langbiang hùng vĩ của Việt Nam.
Một
người An Nam xuất sắc mà tôi muốn được nhắc tới là ông Võ Đình Dung – người đã thi công
những công trình quan trọng trong quá trình người Pháp xây dựng thành phố Đà Lạt.
Khi người Pháp tuyển lao động từ miền Trung vào Đà Lạt xây dựng nhà cửa, công sở…
ông Võ Đình Dung đã đến Đà Lạt lập nghiệp. Có nguồn thông tin nói ông Dung quê ở
Thừa Thiên Huế, có nguồn tin lại nói ông là người Quảng Ngãi nên tôi tạm gọi
ông là người quê ở vùng Ngũ Quảng.
Năm
1932, nhà ga Đà Lạt được xây dựng, do 2 kiến trúc sư người Pháp thiết kế, ông
Võ Đình Dung là người được người Pháp tin tưởng giao làm nhà thầu chính. Ngoài
ra, ông Dung còn được giao xây dựng nhiều công trình nổi tiếng khác như Dinh 3
vào năm 1933 để làm nơi ở và nơi làm việc cho vua Bảo Đại mỗi khi đến Đà Lạt.
Tôi
nhớ câu chuyện của bác A2 kể về ông bà nội bác đã cùng đến cao nguyên Lâm Viên
tham gia xây dựng tuyến đường sắt răng cưa này. Hai người bác ruột của bác A2
đã được sinh ra bên tuyến đường sắt đang được hình thành. Thời tiết, bệnh tật
đã khiến họ nằm lại ở Trạm Hành.
Câu
chuyện này làm tôi lại chợt nhớ tới bức ảnh chụp những người phu hỏa xa đang
khiêng khúc gỗ tà vẹt nặng nề với khuôn mặt khắc khổ trên một con dốc cao ngổn
ngang đất đá dưới chân đi. Tôi nghĩ đến hàng nghìn người An Nam đã nằm lại nơi
rừng thiêng nước độc trong quá trình xây dựng tuyến đường sắt đặc biệt này mà
ngày nay, tuyến đường cũng nằm im trong sự bỏ hoang.
Cuối
tuần trước, nhà ga Đà Lạt trở nên rộn ràng và ý nghĩa hơn khi lần đầu tiên có một
đám cưới được tổ chức trên một chuyến tàu hỏa. Một không gian ấn tượng với sân
ga nhộn nhịp, đoàn tàu đang được mọi người trang trí hoa cưới lộng lẫy. Bên cạnh
đó là một triển lãm ảnh đang diễn ra trong tiếng nhạc của người nghệ sĩ đường
phố. Du khách trong nước và quốc tế ngắm những bức ảnh đen trắng về lịch sử ga
Đà Lạt và hình ảnh những con tàu lăn bánh trên cao nguyên Lâm Viên này từ hơn
100 năm trước.
Cô
dâu, chú rể là đồng nghiệp trong ngành đường sắt. Họ đã cùng làm việc và gắn bó
với con tàu và nhà ga nơi đây. Những hình ảnh về đám cưới ấy tôi xem được từ
bài báo mà bác A2 gửi cho tôi khiến tôi cảm thấy bất ngờ và đầy thú vị. Đoàn
tàu cưới lăn bánh từ ga Đà Lạt đến ga Trại Mát. Trong toa tàu cổ, tiếng vĩ cầm
du dương, chú rể trao nhẫn cưới cho cô dâu và mọi người cùng nâng ly chúc mừng
hạnh phúc. Trên VTV1, chương trình “Chuyển động 24h” cũng đưa tin về đám cưới
này. Đám cưới đã thu hút được sự chú ý của mọi người.
Với
tôi, ý nghĩa của việc tổ chức đám cưới trên tàu là khi cả cô dâu và chú rể đều
làm việc và gắn bó với đoạn đường sắt mà họ đã đi trong hôn lễ. Một gia đình mới
được thành lập và những đứa con của người đường sắt sẽ được sinh ra, lớn lên
chơi đùa trên sân ga.
Bác
A2 đã trở về từ lễ cưới và mang theo cả niềm vui về Hà Nội. Bác hứng thú nói về
ý tưởng tổ chức đám cưới cũng như nói về những việc làm cụ thể mang lại điều tốt
đẹp cho ngành đường sắt Việt Nam trong tương lai. Hiện nay, ga Đà Lạt chỉ phục
vụ khách du lịch trên tuyến đường 7km đến ga Trại Mát so với tuyến đường 84km đến
Tháp Chàm mà ông Doumer quyết định xây dựng để vận tải hành khách và hàng hóa.
Ai cũng mong muốn tuyến đường kỳ vĩ này được hoạt động trở lại. Tôi đã thấy Thủ
tướng tới thăm nhà ga Đà Lạt trong một chương trình thời sự trước đó và nhiều
bài báo viết về lịch sử, vai trò của tuyến đường sắt răng cưa này.
Tôi
tin rằng, những người An Nam ở thế hệ ông nội của bác A2, những người đã đổ mồ
hôi, xương máu và tính mạng cho tuyến đường cũng rất mong muốn được thấy tuyến
đường sắt răng cưa này được hoạt động hữu ích. Những đoàn tàu tấp nập ngược
xuôi kết nối thành phố Đà Lạt với mọi miền tổ quốc góp phần phát triển kinh tế
nước ta.
Coca
Coca
============================================
DẤU VẾT NĂM XƯA
.
Đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt –
Wikipedia tiếng Việt
.
Đường sắt răng cưa - Mây Adventure
https://mayadventure.vn/tour-item/duong-sat-rang-cua/
Hành
trình tìm vết tích đường sắt răng cưa từ Song Pha đi Eo Gió, tuyến đường có
1-0-2 trên giới giờ chỉ còn vài vết tích
.
Dấu ấn đường đường tàu răng cưa Phan
Rang Đà Lạt huyền thoại
Trang chủ / MIA
Go / Ninh Thuận
https://mia.vn/cam-nang-du-lich/dau-an-duong-duong-tau-rang-cua-phan-rang-da-lat-huyen-thoai-7494
Jul
17, 2022
https://www.youtube.com/watch?v=6lQXzqXTOJo
.
Dấu tích đường sắt răng cưa
Tháp Chàm - Đà Lạt | Phần 1: Nhà ga Sông Pha (youtube.com)
Mar
8, 2021
https://www.youtube.com/watch?v=oqzMgRXLgOE
No comments:
Post a Comment