Tưởng Năng Tiến
| Báo Tiếng Dân
01/08/2024
https://baotiengdan.com/2024/08/01/dieu-rat-may-cua-ben-bai-cuoc/
Tôi
bỏ ra nhiều thập niên để nghiên cứu về Vũ Trụ Học, Thiên Văn Học, Đại Dương Học,
Địa Chất Học, và Nhân Chủng Học. Sau khi đã hoàn toàn thông thiên văn/ đạt địa
lý, và hiểu thấu (hết trơn hết trọi) mọi lẽ cơ trời huyền diệu – cuối đời – thấy
mình vẫn còn rảnh rỗi quá xá nên bèn tìm hiểu thêm (chút đỉnh) về tiểu sử của
những vị lãnh tụ được sùng bái (nhất) trong khối cộng: Stalin, Lenin, Kim Nhật
Thành, Kim Chính Nhật, Hồ Chí Minh.
Cả
năm đều có một điểm này chung: khi họ chuyển qua từ trần thì dân chúng đều khóc
lóc quá trời, quá đất – đến nỗi có nơi bị lụt lội, thiệt hại đến mùa màng vì
dư… nước mắt!
Họ
còn có một điểm chung nữa: Không ai mang dép khi tiếp xúc với quần chúng, trừ
ông Hồ Chí Minh. Cuộc đời của nhân vật huyền thoại này gắn liền với đôi dép như
hình với bóng, ông lê la dép khắp mọi nơi – kể cả khi đi công du ở nước ngoài:
“Khi
Bác tới thăm 1 ngôi đền lớn và cổ kính của Ấn Độ thì có một chuyện lạ xảy ra.
Lúc Bác bước vào trong đền, để lại đôi dép bên ngoài thì bất ngờ có hàng trăm
phóng viên báo chí, nhiếp ảnh, quay phim ập đến vây kín đôi dép cao su của Bác.
Họ
như phục sẵn từ rất lâu rồi, một số phóng viên còn cúi xuống dùng tay sờ, nắn
đôi dép tỏ vẻ lạ lùng và trịnh trọng. Sau đó họ vội vàng ghi chép lại những gì
mình vừa thấy. Từ những góc độ, cự ly khác nhau, các phóng viên thi nhau bấm
máy, họ chen nhau để có được những vị trí thuận lợi.
Rồi
tiếp theo đó là cảnh đám đông dân chúng kéo đến từ các ngả, ùa vào để được ngắm
nghía đôi dép. Đó chỉ là một cảnh tượng tự hào và cảm động mà bạn bè quốc tế đã
dành cho đôi dép của Bác trong rất nhiều nơi Bác tới thăm.” (“Trăm phóng viên
nước ngoài vây kín đôi dép của Bác” – Tin Ngắn, 19/05/2013).
Cảnh
tượng “tự hào và cảm động mà bạn bè quốc tế đã dành cho đôi dép của Bác” ở New
Delhi, thực ra, chả là cái (đinh) gì nếu so với lòng sùng kính của đồng bào
trong nước – nhất là đối với những người ở vùng xa, vùng sâu, vùng căn cứ cách
mạng :
“Không dối
lòng đâu, mỗi lần đi “dép Bác Hồ” là thấy bụng không nghĩ điều trái, chân không
đi hai đường. Chẳng riêng mình, cả làng này ai cũng vậy. Chiến tranh khỏi nói,
hòa bình rồi có biết bao chuyện khó… Bông Rẫy hồi chiến tranh chỉ có 50 hộ, bây
giờ đã lớn lên gần 120 hộ mà không còn ai đói, chỉ còn 10 hộ nghèo. Ai cũng có
xe máy, hơn một nửa đã làm được nhà xây. Không ai nghe lời kẻ xấu vượt biên
trái phép… Không nhờ phép lạ “dép Bác Hồ” sao được thế? Có “dép Bác Hồ” là thắng
tất! Đinh Ngút cất lên một tràng cười sảng khoái. Ông nâng niu đôi dép mòn vẹt
trên tay …
(Lê Quang Hồi. “Làng Bông Rẫy Mang Dép Bác Hồ.” Quân đội Nhân dân 1-6-2009).
Đôi
dép lốp của Bác, rõ ràng, không chỉ đã đi vào trái tim toàn thể nhân loại mà
còn đi vào vũ trụ và (sẵn trớn) đi luôn vào lịch sử văn học nghệ thuật, và danh
nhân của dân tộc Việt :
“Dép
Bác, đôi dép cao su
Bác
đi từ ở chiến khu Bác về
Phố
phường trận địa
Nhà
máy đồng quê
Đều
in dấu dép Bác về, Bác ơi…
Bác
Hồ là biểu trưng của tất cả những gì dung dị, mang một bản sắc dân tộc Việt Nam
nhuần nhị, sâu xa nhất. Ngay cả quần áo, đồ dùng tiện nghi của Bác cũng đơn sơ,
mộc mạc trong đó đôi dép của Bác trở thành một hình tượng thân quen, thắm thiết
đối với chúng ta…” (Trung Đức. “Đôi Dép Bác Hồ Đôi Dép Cao Su.” vietnamngayve
23-03-2013).
Hai
chữ “chúng ta” trong câu văn thượng dẫn, tiếc thay, không bao gồm cái đám dân
miền Nam – nơi vùng địch tạm chiếm. Ở đây, trong suốt chiều dài của cuộc chiến
vừa qua không ai được mang dép như Bác, và người dân cũng thiếu vắng hình ảnh
của lãnh tụ kính yêu (cỡ Bác) để tôn thờ.
Và có lẽ
vì thế nên có người đã sinh ra lòng đố kỵ, ganh tị, rồi thốt ra những lời lẽ
xúc phạm đến Bác một cách rất nặng nề : “Nhưng người Hà Nội đến lạ! Họ biết Xã
Hội Chủ Nghĩa là cái bánh vẽ cực kỳ thối tha mà cứ hớn hở ngồi vào lột lá bóc
ăn và xơn xớt khen ngon khen ngọt đến nỗi người ngoài nhìn vào phát thèm. Họ biết
Hồ Chí Minh gian manh xảo trá mà cứ ngoác miệng ngợi ca lúc ông ta còn sống và
khóc khô nước mắt khi ông chết.” (Vũ Biện Điền. Phiên Bản Tình Yêu, Volume II.
Fall Church,Virginia: Tiếng Quê Hương, 2012).
Nói
thư thế là “vơ đũa cả nắm.” Ở đâu mà không có kẻ này, kẻ nọ. Ở Hà Nội, cũng có
người ngắm đôi dép bác Hồ với đôi mắt ráo hoảnh :
“Một
lần tôi quay cảnh ông thăm đồng bào nông dân ở Hải Dương, mùa hè năm 1957. Sáng
sớm hôm ấy trời mưa to, trên đường còn lại những vũng nước lớn. Ðến một đoạn đường
lầy lội ông tụt dép, cúi xuống xách lên. Trong ống ngắm của máy quay phim tôi
nhìn rõ hai bên vệ cỏ không bị ngập. Tôi chợt hiểu : ông không đi men vệ đường
bởi vì ông muốn chưng đôi dép.” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày, 2nd ed. Fall
Church, Virginia: Tiếng Quê Hương, 2008).
Ồ
thì ra Bác dùng dép để chưng! Thảo nào mà đôi dép râu đã được toàn ban Tuyên
Giáo Trung Ương cầy cục, bằng mọi cách, để đặt nó lên…bàn thờ tổ quốc cho bằng
được mới thôi! Và thế mới biết là cái khái niệm “chính chủ” của (nguyên) Bộ trưởng
Đinh La Thăng không phải là hoàn toàn vô lý hay vô cớ.
Cùng
là đôi dép cao su, sản xuất hàng loạt, nhìn thô kệch y hệt như nhau mà Bác thì
sử dụng nó như là vật trang sức cho cuộc đời hoạt động chính trị của mình, và
cũng phần nào nhờ nó mà sự nghiệp cách mạng của Bác có lúc đã lên đến “đỉnh cao
chói lọi”, còn đám thường dân (dấm dớ) mà buộc phải xỏ chân vào là đời kể như
khốn nạn – nếu không bỏ mạng thì cũng bỏ mẹ như chơi.
Hình
ảnh này nếu dùng để minh hoạ cho bài thơ “Vay Tuổi” của Phùng Cung là (kể như)
hết xẩy :
Con
vừa mười sáu tuổi đời
Nửa
đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Đèn
con tiễn đến cổng đình
Quay
về hụt bước ngỡ mình chiêm bao
Khe
Sanh – Dốc miếu là đâu
Vắng
con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu
chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghĩa
trang mồ giả, nắm xương không mồ…
Dù
cũng sinh ra trong thời chinh chiến nhưng vì sống bên này vỹ tuyến nên tôi may
mắn hơn những người cùng tuổi với mình. Trong khi họ chân đi dép râu, vai đeo
ba lô, tay ôm súng đạn vượt Trường Sơn thì tôi vẫn được ngồi yên lành ở trường
trung học công lập Trần Hưng Đạo – Đà Lạt.
Dù
vậy, rất ít khi tôi chịu ngồi yên trong lớp. Một tuần, ít nhất cũng có đến hai
ba hôm tôi bỏ học. Tôi ra ngồi cà phê Tùng (Đà Lạt) để tập uống cà phê đen, hút
thuốc lá Basto Xanh, nghe nhạc Beatles hay đọc Im Lặng Hố Thẳm và Hố Thẳm Tư Tưởng
của Phạm Công Thịện – nếu vào buổi sáng.
Chiều,
tôi đi lang thang quanh đồi Cù rồi ngồi dựa gốc thông hát nhạc vàng (Thu Vàng,
Chiều Vàng) nho nhỏ chỉ đủ chính mình nghe :
Chiều
hôm qua lang thang trên đường
Hoàng
hôn xuống, chiều thắm muôn hương
chiều
hôm qua mình tôi bâng khuâng
Có
mùa Thu về, tơ vàng vương vương
Trên
đồi xanh chiều đã xuống dần
Mặt
trời lấp ló sau đồi chiều vàng.
Riêng
mình ta ngồi ngắm quanh trời
Lạnh
lùng nghe tiếng chim chiều gọi đàn
Mãi
cho đến sau Mùa Hè Đỏ Lửa, khi đã hai mươi tuổi, tôi mới nhận được giấy mời của
Nha Động Viên đi trình diện nhập ngũ “để sát cánh cùng quân dân cán chính chống
cộng sản xâm lược.”
–
Úy Trời, cộng sản xâm lược hồi nào vậy cà?
–
Sao hồi giờ không nghe ai nói gì hết trơn hết trọi về cái vụ này há?
–
Mà họ xâm lược làm chi mới được chớ? Why and for what?
Đến
khi tôi tìm ra được giải đáp cho những câu hỏi trên thì mọi sự đã trở nên quá
muộn, tôi đã trở thành một kẻ thuộc bên thua cuộc. Dù sao (nói có thánh thần
làm chứng) tôi vẫn cảm ơn Trời là đã may mắn không sinh ra và lớn lên… ở Bên Thắng
Cuộc, cái bên mà vô số thiếu niên hay thiếu nữ phải đi dép râu để cùng với Bác
hành quân rồi trở thành “những đoá hoa bất tử nơi ngã ba Đồng Lộc” hay tù binh
trên đường Trường Sơn. Hiếm họa mới có người vào đến được Sài Gòn để rồi trở về
với con búp bê, hay cái khung xe đạp trên vai!
Suy
cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh. Bên nào thắng thì nhân dân cũng bại. Nhưng
ở bên bại cuộc (chắc) đỡ bại hơn, chút xíu!
No comments:
Post a Comment