Trịnh Vĩnh Niên | Aisixiang
Lê
Thị Thanh Loan,
biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2024/08/26/an-do-the-gioi-va-trung-quoc/
Hai
nước Trung Quốc và Ấn Độ không chỉ là láng giềng mà còn là hai nền văn minh cổ
xưa gánh trên vai những trách nhiệm lớn lao đối với thế giới. Tôi sẽ bàn về ba
vấn đề từ góc độ vĩ mô của quan hệ quốc tế.
Công
cuộc hiện đại hóa của Ấn Độ sẽ còn tiếp diễn trong thời gian dài
Sau
khi Thủ tướng Modi lên nắm quyền, công cuộc hiện đại hóa của Ấn Độ đã trải qua
những thay đổi lớn lao. Sau cuộc bầu cử này, truyền thông phương Tây đã có thái
độ tương đối tiêu cực đối với Ấn Độ, mà chủ yếu là chỉ trích ông Modi từ góc độ
dân chủ và tự do, cho rằng ông độc tài, chuyên quyền và phản dân chủ.
VIDEO
:
https://www.youtube.com/watch?v=HxLAcnQ7BCw
Ngược
lại, quan điểm của tôi khá tích cực. Ấn Độ đang cùng lúc tiến hành công cuộc kiến
thiết nền kinh tế và kiến thiết đất nước. Sau khi giành được độc lập, chế độ
chính trị của Ấn Độ về cơ bản kế thừa hệ thống của Anh, nhưng việc xây dựng thể
chế nhà nước cơ bản thì vẫn chưa đạt đến độ hoàn thiện. Nếu tham khảo kinh nghiệm
hiện đại hóa của các quốc gia châu Âu như Pháp hay Đức, việc xây dựng thể chế
nhà nước cơ bản phải trải qua một thời gian tập trung quyền lực tương đối dài.
Tôi chia thể chế nhà nước thành ba phần. Phần lớn thể chế nhà nước phải được
thiết lập trước khi dân chủ hóa. Nếu không thể thiết lập được trước khi dân chủ
hóa thì sẽ khó thiết lập được sau khi dân chủ hóa. Chế độ an sinh xã hội đầu
tiên của Đức được thiết lập dưới sự cai trị chuyên quyền của Otto von Bismarck.
Tuy nhiên, cũng có nhiều chế độ phải được thiết lập sau khi dân chủ hóa, ví dụ
như chế độ đa đảng, xã hội dân sự, chế độ bầu cử… Có nhiều chế độ được thành lập
trước khi dân chủ hóa sẽ trải qua những thay đổi đáng kể sau khi dân chủ hóa,
ví dụ như hệ thống phúc lợi. Từ góc độ này, nếu Ấn Độ muốn trở thành một quốc
gia hiện đại hóa, nước này vẫn cần một thời gian tập trung quyền lực tương đối
dài, nhưng sự tập trung quyền lực này không nhất định là điều mà phương Tây gọi
là “chuyên chế”. Kể từ khi Thủ tướng Modi lên nắm quyền đến nay, những biến đổi
chính trị ở Ấn Độ thậm chí còn quan trọng hơn những thay đổi về kinh tế, đặc biệt
là những thay đổi trong hệ thống đảng phái.
Tôi
từng hỏi S.R. Nathan, vị Tổng thống gốc Ấn Độ của Singapore, câu hỏi rằng: Đâu
là khác biệt lớn lao giữa Trung Quốc và Ấn Độ? Ông đã nói hoàn toàn chuẩn xác về
một điểm. Hệ thống chính trị của Trung Quốc do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo,
điều này được xây dựng qua hơn một trăm năm cách mạng và chiến tranh, qua đó Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã phát triển thành hạt nhân chính trị của nước này. Tuy
nhiên trên thực tế, Ấn Độ chưa từng thực sự thiết lập được một hạt nhân chính
trị tương tự. Về cơ bản, Đảng Quốc đại Ấn Độ (Indian National Congress) là một
đảng phái gia tộc. Thủ tướng Modi có đóng góp to lớn là đã đưa Đảng Bharatiya
Janata từ một đảng khu vực thành một đảng quốc gia, điều này đem lại tác động lớn
lao cho sự phát triển của Ấn Độ. Ngày nay, Đảng Bharatiya Janata đã nắm quyền lần
thứ ba, điều này ngược lại cũng mang đến sự thúc đẩy đáng kể cho sự phát triển
của Đảng Quốc đại. Những thay đổi trong hệ thống đảng phái chính trị của Ấn Độ
sẽ đem đến tác động rất tích cực cho sự phát triển kinh tế và xã hội của nước
này. Từ góc độ này, Ấn Độ tiếp theo đây sẽ có sự tập trung quyền lực trong một thời gian
tương đối dài. Nhìn từ góc độ phát triển kinh tế thì kể từ cuộc cách mạng công
nghiệp, Anh, Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc đều cần xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn
để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ấn Độ tiến hành vấn đề này như thế nào? Nếu
không sở hữu thể chế có quyền lực tương đối tập trung thì sẽ rất khó thực hiện.
Việc công nghiệp hóa cơ sở hạ tầng thực sự đòi hỏi những thay đổi trong thể chế
chính trị. Công cuộc kiến thiết đất nước của Ấn Độ sẽ còn tiếp diễn trong thời
gian dài.
Ấn
Độ sẽ không hoàn toàn trở thành đồng minh của Phương Tây
Ngoại
giao là sự mở rộng của các vấn đề đối nội và những thay đổi trong các vấn đề đối
nội của Ấn Độ sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ của nước này với phương Tây.
Thứ
nhất, Ấn Độ sẽ không hoàn toàn trở thành đồng minh của Mỹ. Mặc dù phương Tây muốn
sử dụng Ấn Độ để đối phó với Trung Quốc vì những cân nhắc về địa chính trị
nhưng Ấn Độ vẫn sẽ tuân theo chính sách đối ngoại độc lập tự chủ. Nếu Ấn Độ trở
thành đồng minh với Mỹ, điều đó sẽ hạn chế không gian ngoại giao của nước này.
Đối với Mỹ, Nga và Trung Quốc, Ấn Độ đều có lợi ích quốc gia của riêng mình. Ấn
Độ đã làm rất tốt trong việc xử lý cuộc chiến Nga-Ukraine lần này. Nước này vừa
lên án Nga, lại vừa lên án việc NATO siết chặt không gian an ninh của Nga. Đừng
đánh giá thấp sức mạnh ngoại giao của Ấn Độ. Thậm chí, tôi nghĩ họ có một số điều
mà Trung Quốc có thể học hỏi.
Thứ
hai, quan hệ kinh tế và thương mại của Ấn Độ với các nước phương Tây còn hạn chế.
Trước hết, Ấn Độ vẫn chưa đạt đến giai đoạn mở cửa toàn diện và sâu sắc, việc
miễn thuế quan không phù hợp với lợi ích của Ấn Độ. Ấn Độ sẽ vẫn thực hiện chủ
nghĩa bảo hộ thương mại ở một mức độ nhất định trong thời gian dài. Tuy nhiên,
khi nền kinh tế và các doanh nghiệp trong nước trở nên mạnh mẽ hơn, nước này sẽ
dần mở cửa. Thứ hai, Ấn Độ có thể thu hút một số ngành sản xuất của phương Tây,
nhưng sẽ khó đạt được trình độ phát triển như ngành sản xuất của Trung Quốc.
Ngày nay đã không còn tồn tại những điều kiện tương tự như những điều kiện từng
cho phép Trung Quốc tiếp nhận một lượng lớn các ngành sản xuất của phương Tây
trong những năm 1980 và 1990. Các nước phương Tây nhận thức được những hạn chế
của quá trình phi công nghiệp hóa và giờ đây sẽ cố gắng giữ cho ngành sản xuất,
ngành công nghiệp ở lại trong nước. Đồng thời, một nền công nghiệp sản xuất có
quy mô lớn như Trung Quốc đòi hỏi phải xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn. So
sánh với điều đó, cơ sở hạ tầng của Ấn Độ vẫn phải đối mặt với những thách thức
lớn. Sở hữu tư nhân, pháp quyền… cũng hạn chế quyền lực nhà nước ở Ấn Độ. Ấn Độ
khó thực hiện được việc xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn như Trung Quốc, điều
này chắc chắn sẽ làm hạn chế sự phát triển của ngành sản xuất ở nước này. Cuối
cùng, do sự bất mãn với Trung Quốc nên Mỹ đang nghiêng về Ấn Độ, nhưng xu hướng
này có thể không bền vững. Mỹ đã từng kiềm chế Nhật Bản, Đức và Pháp, khi lợi
ích kinh tế thực tế của mình bị tổn hại, nước này cũng sẽ kiềm chế Ấn Độ.
Thứ
ba, có những hạn chế trong việc chuyển giao công nghệ từ phương Tây sang Ấn Độ.
Cho đến nay, Trung Quốc đã trải qua hai giai đoạn. Thời kỳ đầu là ứng dụng công
nghệ phương Tây nhưng hiện nay Trung Quốc đã tìm ra những ngành có lợi thế so
sánh, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lượng mới và kinh tế số. Mỹ chắc chắn sẽ
không từ bỏ việc kìm hãm những ngành đại diện cho hướng đi của các ngành công
nghiệp trong tương lai như Internet, trí tuệ nhân tạo hay năng lượng mới. Sự
phát triển trong tương lai của Ấn Độ, ngoài việc tiếp quản các ngành công nghiệp
gia công, sản xuất của phương Tây, còn phụ thuộc vào việc nước này có thể phát
triển các ngành công nghiệp mới trong nước hay không.
Thứ
tư, sự chỉ trích và mâu thuẫn của phương Tây đối với Ấn Độ sẽ ngày càng lớn
hơn. GDP của Mỹ vượt xa Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, điều tồi tệ là khoảng
cách giữa Trung Quốc và Mỹ bị nới rộng, còn điều tốt là Mỹ sẽ không tỏ ra quá
đáng sợ trước Trung Quốc. Ấn Độ trỗi dậy với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng và có tiềm năng lớn về lợi tức dân số. Với sự trỗi dậy nhanh chóng của Ấn
Độ, Mỹ sẽ dành cho Ấn Độ ngày càng nhiều lời chỉ trích trên nhiều khía cạnh
khác nhau, bao gồm chủ nghĩa bảo hộ thương mại, khí hậu và bảo vệ môi trường, sự
chuyên chế, vấn đề chủng tộc, vấn đề dân chủ… Ấn Độ cần phải chuẩn bị đầy đủ về
những vấn đề này.
Trung
Quốc và Ấn Độ cần tăng cường trao đổi
Quan
hệ Trung Quốc-Ấn Độ là một mối quan hệ rất phức tạp. Những thay đổi trong quan
hệ giữa Ấn Độ và phương Tây, giữa Trung Quốc và phương Tây đều sẽ ảnh hưởng đến
quan hệ Trung-Ấn. Hai nước là những quốc gia độc lập và việc xử lý mối quan hệ
hai bên đòi hỏi sự sáng suốt của lãnh đạo hai nước. Đối với Ấn Độ, dù có thể lợi
dụng quan hệ Trung-Mỹ để đối phó với Trung Quốc nhưng phần mà nước này có thể sử
dụng vẫn còn hạn chế. Mục tiêu duy nhất của Mỹ là trở thành kẻ đứng đầu thế giới,
phải ngăn cản những kẻ thách thức “bên ngoài hệ thống” như Liên Xô cũ, Nga và
Trung Quốc hiện tại; cũng như ngăn chặn những kẻ thách thức “bên trong hệ thống”.
Nga từng muốn gia nhập châu Âu và phương Tây vào những năm 1990, nhưng Mỹ đã từ
chối. Điều này là bởi nếu Nga trở thành một phần của hệ thống liên minh, nước
này sẽ có khả năng thách thức sự lãnh đạo của Mỹ trong hệ thống. Vì vậy, theo
logic quyền lực, Ấn Độ không thể trở thành đồng minh của Mỹ. Mối quan hệ đồng
minh của Mỹ không phải là mối quan hệ bình đẳng, mà cần “sự vâng lời”.
Đối
với Trung Quốc, nghiên cứu của chúng ta về Ấn Độ vẫn chưa đủ. Về mặt địa chính
trị, Trung Quốc và Ấn Độ tuy là láng giềng nhưng lại không có tính cạnh tranh
cao. Trung Quốc không có tầm nhìn địa chính trị như cách Mỹ và Liên Xô muốn xây
dựng một đế chế bành trướng, mối quan tâm địa chính trị của Trung Quốc và Ấn Độ
nằm trong không gian riêng của họ. Cuộc xung đột giữa Trung Quốc và Ấn Độ năm
1962 không bắt nguồn từ nguyên nhân địa chính trị như lời của một số học giả
phương Tây, mà do một vài nguyên nhân cụ thể khác. Trung Quốc và Ấn Độ cũng
đang phát triển mối quan hệ với ASEAN. Ngoài ra, bản thân Trung Quốc và Ấn Độ đều
là một phần của “phương Nam toàn cầu”. Trong “phương Nam toàn cầu” cũng có sự cạnh
tranh nhưng thiên về mối quan hệ hợp tác hơn, cạnh tranh cũng có thể là cạnh
tranh lành mạnh.
“Phương
Nam toàn cầu” rất đa nguyên và phong phú. Trung Quốc và Ấn Độ nên tận dụng lợi
thế so sánh của mình ra sao để thúc đẩy sự phát triển của “phương Nam toàn cầu”?
Câu hỏi này vô cùng quan trọng. Về kinh tế và thương mại, Trung Quốc và Ấn Độ rất
có tính bổ sung cho nhau. Các ngành sử dụng nhiều lao động của Trung Quốc đang
dần mất đi lợi thế, một lượng lớn các ngành sản xuất cấp trung và cấp thấp đang
chuyển sang Đông Nam Á, Nam Á và các nước khác, trong đó có Ấn Độ. Ngày nay,
Trung Quốc đề xuất lực lượng sản xuất mới với mục tiêu nâng từ mức phát triển
trung bình lên mức phát triển, trong khi nền kinh tế Ấn Độ ở mức phát triển
trung bình thấp và có thị trường rộng lớn với hơn 1,4 tỷ dân. Cả hai nước đều
có mối liên hệ rất tốt với “phương Nam toàn cầu” và hai nền kinh tế rất có tính
bổ sung cho nhau trong mối quan hệ với “phương Nam toàn cầu”. Về mặt văn hóa,
phần lớn người Trung Quốc đều rất thân thiện với Ấn Độ. Chúng ta nên cố gắng hết
sức để tăng cường giao lưu nhân dân.
-------------------
Nội
dung của bài viết này được biên tập từ bài phát biểu của giáo sư Trịnh Vĩnh
Niên tại Hội thảo vĩ mô Quý II năm 2024 “Đối thoại kinh tế mới Trung Quốc-Ấn Độ:
Kinh tế kỹ thuật số và phát triển xanh” của Viện nghiên cứu CICC (CICC Global Institute).
Nguồn: Trịnh Vĩnh
Niên, 郑永年:印度、世界与中国, Aisixiang,
19/08/2024.
No comments:
Post a Comment