Tôi,
đứa con người tù “học tập cải tạo” (Kỳ 1)
Lê Xuân Mỹ
18/04/2024
https://baotiengdan.com/2024/04/18/toi-dua-con-nguoi-tu-hoc-tap-cai-tao-ky-1/
LGT: Một thân hữu gửi tới
Tiếng Dân bài viết của tác giả Lê Xuân Mỹ, đã được phổ biến trước đây nhưng hiện
vẫn còn mang tính thời sự. Do bài viết dài hơn 15.000 từ, chúng tôi xin được
chia làm nhiều kỳ, để giới thiệu quý bạn đọc Tiếng Dân. Sau đây là nội dung:
***
Những
ngày cuối tháng Tư 1975, Sài Gòn đắm chìm trong cơn hỗn loạn. Tin tức về một cuộc
chiến kết thúc bi thảm được truyền đi, kéo theo một dòng người tìm mọi cách vượt
thoát khỏi quê hương. Không nhận được tin người đến đưa toàn bộ gia đình ra đi
như đã hứa, tôi cùng ba và gia đình người em gái trên chiếc xe Jeep hối hả đi về
Bến Bạch Đằng nơi con tàu Việt Nam Thương Tín đang ngập tràn những dòng người từ
khắp nơi đổ về… Hai vợ chồng em gái lên tàu trước. Tôi và ba chần chờ sửa soạn
lên sau.
Trong
cái dòng người hoảng loạn, trong cái âm thanh cuồng nộ những ngày cuối cùng của
tháng Tư, hai cha con vẫn còn nhìn về hướng Lăng Ông Bà Chiểu, nơi nhà tôi ở
đó. Vẫn còn hy vọng mẹ và các em đến kịp để cùng đi. Phép lạ đã không xảy ra.
Tàu sắp nhổ neo, mẹ và các em tôi vẫn biệt tăm.
Ba
bảo, thôi con lên trước đi, ba đợi thêm một tí nữa, mình gặp nhau trên tàu.
Trong mắt ba vẫn còn ánh lên một tia hy vọng. Nhưng tôi biết là đã hết. Thời
gian không còn kịp nữa. Ba hối thúc tôi lên tàu, riêng ba không đành bỏ vợ và 8
đứa con con nhỏ dại, quyết định quay lại.
Với
tôi, ra đi hay ở phải là một quyết định trong chớp mắt. Nhưng sao đành bỏ lại
ba một mình với khuôn mặt và cặp mắt thất thần như vậy. Tôi lắc đầu. Thế là tôi
và ba quay ngược lại dòng người vẫn cuống cuồng chạy về phía bờ sông, dù con
tàu đã từ từ rời bến. Cùng với hàng triệu người miền Nam Việt Nam, tôi và gia
đình bắt đầu sống những tháng ngày đen tối nhất.
Đêm
đầu tiên, khi nghe tin Đại Tướng Dương Văn Minh đầu hàng trên đài phát thanh,
ngoài đường những nhóm người đội mũ cối cầm súng đi qua đi lại, cả gia đình tôi
chui dưới chân cầu thang, tắt đèn tối thui, ẩn trốn, và ba đã khóc. Thế là chấm
dứt một quảng đời, lịch sử đã sang trang và chúng tôi đã cảm thấy một tương lai
mịt mù sắp tới.
Trong
những ngày sau đó, ba tôi sống trong hoang mang, lo sợ, không dám bước ra khỏi
nhà. Mặt ba lúc nào cũng căng thẳng. Riêng tôi mỗi ngày vẫn lên trình diện cơ
quan rồi về. Lên để biết, thì ra có những bạn bè cùng sở làm ngày xưa, từng
cùng vui chơi sinh hoạt với mình, bây giờ đội mũ cối, cầm súng lầm lì đi ra đi
vào. Có người còn chào hỏi tử tế nhưng có đứa mặt mày vênh váo, kênh kiệu, những
nhân viên còn lại, không phải dân Cộng Sản nằm vùng tụm lại một phòng trên lầu,
co cụm đến tội nghiệp.
Trong
những ngày đầu mất nước tháng 5 năm 1975, tôi biết ba vẫn còn hy vọng về một
người, người em út đi “tập kết” từ những năm 1954, nghe đâu đang làm lớn và
hình như đang có mặt tại Sài Gòn. Chính ủy chính iết gì đó. Ba kể, hồi nhỏ ba
và chú rất thương yêu nhau, ngày chú đi vào rừng theo kháng chiến, ba là người
cuối cùng gặp và đưa chú vào chiến khu. Ba vẫn nghĩ nếu có chú chắc ba sẽ không
sao.
Như
một người sắp sửa bị chìm tàu, cố bám víu một chút hy vọng nào đó để sống, dù rất
mỏng manh. Với riêng tôi, hình ảnh về chú không hiền lành như ba tưởng tượng mà
là những con người tôi đã từng xem qua cuốn phim “Chúng Tôi Muốn Sống”, lạnh
lùng và tàn ác. Tôi nghĩ ba quá ngây thơ, nhưng biết làm sao được, một người
lính thất trận, một vợ và 9 đứa con nheo nhóc trong một thành phố đã không còn
thuộc về mình, chung quanh đầy rẫy những bóng đen rình rập. Có thể ba đang cố
quên nhưng với tôi, ký ức về một Mậu Thân khủng khiếp ở Huế vẫn còn đó, không
thể nào không nhớ. Những cuộc trả thù tàn khốc chắc chắn sẽ xảy ra. Không ảo tưởng
như ba, tôi chờ đợi và biết rằng ngày đó sẽ đến, không xa.
Một
ngày đầu tháng Sáu, giống như ba đang mong đợi, chú tôi đi cùng một vài bộ đội
cầm súng ghé nhà thăm gia đình chúng tôi. Một trung tá chính ủy thuộc đơn vị
Phòng không Không quân CS Hà Nội, ghé thăm cựu trung tá cảnh sát chế độ cũ. Hai
anh em thuộc hai chiến tuyến gặp nhau tại Sài Gòn sau 20 năm xa cách. Hai người
đi hai con đường khác nhau, cuối cùng hội tụ tại một điểm. Cũng chào hỏi, cũng
mừng mừng tủi tủi, cũng nhắc lại chuyện xưa, nhưng tôi biết quan hệ đã không
còn như trước nữa, ngượng ngùng, khách sáo.
Nói
thật lòng, chú tôi nhìn bề ngoài gầy gò khắc khổ, ít nói và trông có vẻ hiền
lành chứ không đến nỗi dữ dằn như trong tưởng tượng của tôi. Nhưng tôi vẫn
không thể chuyện trò thân mật với chú được. Một bức tường vô hình đã chắn ngang
trong quan hệ của chúng tôi.
Sau
ngày đó, thỉnh thoảng chú đến thăm ba tôi, và cũng kể từ ngày đó những đồ đạc
quý giá còn sót lại trong gia đình cũng dần dần ra đi. Khi thì cái tủ lạnh, khi
thì cái truyền hình trắng đen hiệu Denon 4 cửa xếp. Mẹ nói riêng với tôi:
–
Cho chú, thôi kệ, của đi thay người, hy vọng sau này có gì nhờ chú giúp ba con
cũng đỡ khổ phần nào.
Mẹ
nghĩ vậy thì hay vậy, chứ trong thâm tâm tôi mẹ đã không biết gì về Cộng sản rồi.
Xin tiền thì có thể chú sẽ cho nhưng để bảo lãnh cho một sĩ quan cảnh sát như
ba tôi chắc chắn là không. Biết vậy, nhưng thôi cứ để mẹ bám víu một chút hy vọng,
dù rất mong manh. Nói một cách trung thực, từ ngày có chú đến thăm gia đình,
thái độ của các công an Cộng Sản, cán bộ phường đối với gia đình tôi cũng có
chút thay đổi, không giống như những ngày đầu mất nước.
Nhớ
lại ngay ngày mồng 2 tháng Năm, vừa mới sáng sớm, một đoàn người đông đảo, “cán
bộ” có, công an có ghé vào nhà, kêu ba tôi ra trình diện, ra lệnh ba tôi trong
thời gian này phải ở nhà, không được đi đâu cả cho đến khi có lệnh mới. Sau đó
đi một vòng quanh nhà tôi, ngang phòng khách, giật đứt chiếc điện thoại để bàn,
xem giấy tờ từng người và trước khi ra về, lấy luôn chiếc đồng hồ đeo tay của
ba trên đầu tủ thờ. Chiếc đồng hồ kỷ niệm của ông nội mà ba rất quý. Mẹ chắc lưỡi
– thôi kệ, của đi thay người.
Một
ngày cuối tháng Sáu, cái ngày tôi biết chắc chắn phải đến, cuối cùng đã đến. Ba
tôi nhận giấy đi “trình diện học tập cải tạo” dành cho đối tượng sĩ quan “Ngụy
quân, Ngụy quyền”. Địa điểm tập trung: Trường Trung Học Chu Văn An. Trong giấy
ghi rõ “đem theo dồ dùng cá nhân để sử dụng trong 30 ngày”. Nhận được giấy báo,
ba mừng như thoát được gánh nặng canh cánh bao lâu nay. Ba bảo:
–
Tôi nói có sai đâu bà, bây giờ hoà bình rồi họ không trả thù như hồi Mậu Thân
đâu. Kỳ này tôi chỉ đi học có 30 ngày mà ngay tại Sài Gòn này thôi. Xong kỳ học
tập này rồi mình sẽ được đối xử như những người dân bình thường. Tôi tính gia
đình mình sẽ về lại Đà Nẵng sinh sống. Có mắm ăn mắm, có rau ăn rau. Khoẻ rồi,
hoà bình rồi, hết chiến tranh rồi bà ơi.
Mẹ
tôi, với linh cảm và yếu đuối của đàn bà, lên tận sân bay Tân Sơn Nhất xin gặp
chú nhờ chú giúp đỡ. Liếc sơ qua giấy báo “trình diện học tập”, chú nói:
–
Chị đừng lo, cách mạng khoan hồng, anh cứ đi, học tập khoảng một tháng là xong.
Cứ học tập thật tốt, về sớm đúng ngày, không sao đâu.
Mẹ
tôi an lòng chuẩn bị mền, mùng, thức ăn khô cho ba. Riêng tôi, qua trực giác và
qua sách báo đã đọc, tôi nghi ngờ về chữ “học tập tốt” mà chú đã nhấn mạnh. Tôi
biết là mọi chuyện chỉ mới bắt đầu. Để xóa đi ký ức của một sĩ quan cảnh sát 51
tuổi đời, 25 năm quân ngũ, và để đào tạo thành một người “công dân chế độ Xã Hội
Chủ Nghĩa”, chắc chắn không thể là 30 ngày ngắn ngủi như thế.
Tôi
biết là chú đã không nói thật, và ba thì ảo tưởng hoặc có thể đã biết nhưng muốn
che giấu mẹ, cố gượng vui chờ ngày lên đường trình diện. Có những đêm thức giấc
giữa đêm khuya, tôi thấy ba ngồi lặng lẽ và hút thuốc liên tục ngoài hiên. Đôi
vai như quằn xuống, tôi chua xót nhận ra chỉ trong một thời gian quá ngắn ba đã
già đi rất nhiều. Trong cái bóng tối mênh mông, tôi cảm thấy mình nhỏ bé và vô
dụng vô cùng.
Một
ngày trước khi đi, ba dặn riêng tôi không cho mẹ biết, hai cha con ra chợ Bến
Thành. Ba nói ba còn để dành 2 lượng vàng, bán xong con nhớ đem về cất riêng,
khi nào mẹ và các em cần tiền thì con đưa cho mẹ. Ba không biết khi nào về, con
nhớ phụ mẹ lo cho các em. Thì ra ba không ngây thơ như tôi tưởng, tất cả nụ cười
trên khuôn mặt ba thường ngày chỉ là giả tạo. Không có mẹ bên cạnh, ánh mắt ba
bây giờ mới là thực. Nhìn khuôn mặt hoang mang đến tội nghiệp của ba, tôi thấy
mắt mình cay cay. Thương ba vô cùng.
Cuộc
mua bán 2 lượng vàng diễn ra nhanh chóng và lén lút. Tôi ngồi canh chừng Công
an, ba đưa vàng, người bán đếm tiền gói lại đưa cho ba, ba đưa tôi. Liếc ngang
liếc dọc, bỏ vô túi xách, ôm kè kè bên mình, về nhà cất kỹ trong két khoá lại,
phòng khi bất trắc.
Sáng
sớm hôm sau, không nhớ ngày, tháng 8 năm 1975, Ba từ giã gia đình đi “trình diện”.
Ba ôm mẹ, hôn các em. Mẹ, các em đều khóc. Bé út khóc to nhất. Tôi ráng cắn chặt
răng, mắt cay xè, hối hả đạp xe chở ba đến trường Chu Văn An. Không ai nghĩ rằng,
đó là lần cuối cùng mẹ và các em gặp ba.
Trước
cổng trường, đông nghẹt những người đi trình diện và những thân nhân lóng ngóng
bên ngoài. Tay xách ba lô, ba lủi thủi đi vào, trước khi bước qua cánh cửa sắt
có mấy tên công an đứng gác, ba quay lại nhìn tôi như nhắc nhở con nhớ thay ba
lo cho mẹ và các em. Khi bóng ba mờ khuất sau dãy lớp, nỗi đớn đau kềm hãm bấy
lâu vỡ oà, tôi khóc ngon lành như một đứa trẻ. Tôi biết rằng ngày ba trở về còn
xa lắc xa lơ.
Từ
khi ba đi, căn nhà trở nên vắng vẻ vô cùng. Mẹ phần lo chạy gạo hằng ngày, phần
lo lắng nhớ ba, gầy đi trông thấy. Tuy nhiên mẹ vẫn hy vọng 1 tháng sẽ trôi qua
nhanh chóng, ba trở về và mọi chuyện sẽ trở lại như xưa. 30 ngày, rồi 45 ngày
trôi qua, tôi và mẹ bắt đầu sốt ruột, lo lắng. Mẹ cứ mỗi ngày hết đi ra lại đi
vào, hết lên phường hỏi thăm rồi lại lên Tân Sơn Nhất tìm gặp chú. Vẫn là một
câu trả lời:
–
Chắc sắp được về thôi. Anh học tập tốt thì cách mạng sẽ cho về, chị đừng lo.
Câu
“chị đừng lo” càng lúc càng trở thành vô dụng khi bao tháng trôi qua, vẫn không
một tin tức gì về ba. Vừa phải lo cuộc sống, vừa phải chạy đôn chạy đáo hỏi
thăm đầu này đầu nọ, mẹ già hẳn đi. Cuộc sống càng ngày càng khó khăn cho một
gia đình 11 miệng ăn. Đồng lương ít ỏi của tôi không đủ nuôi sống cả gia đình,
mẹ bắt đầu đem đồ đạc trong nhà ra chợ bán. Chú thì thỉnh thoảng vẫn ghé thăm
nhưng thưa thớt hơn nhiều. Có lẽ vì bận rộn nhưng cũng có lẽ sợ không biết phải
trả lời sao với mẹ. Không lẽ đợi anh “học tập tốt, cách mạng khoan hồng”, hay
là chắc mai về khi mà ngày mai của chú có thể là một ngày không bao giờ đến.
Thấm
thoát rồi cũng qua một năm. Mẹ vẫn mỏi mòn chờ đợi trong vô vọng, ba vẫn biền
biệt phương nào. Không một tin tức, không một dấu vết, dù nhỏ nhoi. Những đồ vật
có giá cuối cùng trong nhà cũng đã bán hết. Hai mẹ con ôm nhau khóc. Bỗng nhiên
tôi chợt nhớ đến số tiền bán 2 cây vàng giấu trên gác. Một số tiền khá lớn thời
bấy giờ. Ai ngờ khi mở gói tiền tôi sững sờ nhìn thấy nguyên bó tiền chỉ có hai
tờ đầu là tiền thật, ở giữa toàn là giấy báo. Thì ra lợi dụng việc mua bán chui
lén lút, vừa bán vừa canh chừng công an, khi đưa tiền, người bán đã tráo đổi
gói tiền đang đếm bằng gói tiền gói sẵn. Cho đến khi chết chắc ba cũng không thể
ngờ những đồng tiền cuối cùng ba để dành cho mẹ là con số không to tướng.
Trong
những tháng năm sau đó, cuộc sống càng ngày càng khó khăn. Không còn cách nào
khác, mẹ vẫn mỗi ngày tiếp tục ra bán chui trước chợ Tân Định. Sạp hàng là một
tấm vải ni lông, cột dây bốn góc để dễ túm lại khi có công an đến. Thời đó buôn
bán trên vỉa hè là phạm pháp. Vừa mua bán, vừa láo liên canh chừng công an. Nếu
công an tới thì túm tấm ni lông bỏ chạy vào nhà lồng chợ. Công an đi khỏi, đem
hàng ra bày bán tiếp. Đồ bán khi thì một đôi giày, một chiếc áo cũ hay có khi
chỉ là lớp vải lông thú tách ra từ những chiếc áo lính ngày xưa.
Có
gì bán nấy. Khởi đầu là đồ đạc trong nhà, sau đó là đồ mua lại từ những người
có cùng hoàn cảnh đem bán. Cũng có khi là đồ chôm đồ chỉa, cũng lây lất qua
ngày. Các em còn quá nhỏ, chỉ mình tôi với mẹ, sĩ diện, lòng tự trọng của một kỹ
sư cũng đem chôn chặt trong lòng. Tôi mỗi ngày, sau giờ làm việc cũng ra phụ mẹ,
cũng chạy ra chạy vào, cũng cặp mắt nhìn trước, ngó sau, vừa bán vừa mua, vừa
canh chừng Công an.
Trong
những ngày vô cùng khốn khó đó, thỉnh thoảng chợt nhớ về thời thơ ấu cũ, lòng
thật buồn. Những ngày tươi đẹp ấy đã quá xa. Những lo lắng về cuộc sống và một
tương lai mù mịt, làm tôi trở nên lạnh lùng, chai đá. Dù rằng cũng có đôi khi,
tôi một mình khóc thầm trong đêm.
Như
một định mệnh, trong những ngày cùng cực khốn khó đó, tôi gặp C. vợ tôi bây giờ.
Người ta hay nói, vợ chồng là duyên là nợ. Điều này rất đúng với chúng tôi. Trước
1975 tôi và C. cùng làm chung tại Trung Tâm Bưu Chính Viễn Thông thuộc Bưu Điện
thành phố Sài Gòn. Gặp nhau thường xuyên nhưng ít khi nói chuyện.
Nàng
làm thư ký cho Desai, giám đốc chương trình đào tạo của Liên Hiệp Quốc. Hồi đó
C. là một người đẹp, nhiều người theo đuổi.
Tôi
là Kỹ sư mới ra trường. Tốt nghiệp Bách Khoa Phú Thọ, tôi chọn vào Trung Tâm vì
tại đó có học bổng đi học cao học về viễn thông. Tôi ghét cái kênh kiệu và lạnh
lùng của nàng. Nàng thì ghét cái giọng Huế nặng trịch của tôi. Tôi càng ghét
nàng khi bài thi xếp hạng để đi du học của tôi bị cộng sai điểm. Tôi khiếu nại
không được. Và vì vậy tôi bị sắp đi đợt 2 vào tháng 12 thay vì đợt đầu vào
tháng Giêng năm 1975.
Chuyến
đi du học tháng 12 bị bãi bỏ do biến cố 1975. Tự an ủi xem như chưa có số xuất
ngoại dù trong lòng tôi buồn và tưng tức. Có lẽ, do nợ tôi một món ân tình quá
lớn nên sau này nàng đã phải trả lại tôi gấp nhiều lần hơn. Cùng hoàn cảnh,
cùng thuộc gia đình “ngụy quân ngụy quyền”, cùng ghét Việt Cộng như nhau, chúng
tôi gặp nhau thường xuyên trong những lần đi nghe các buổi nói chuyện về chính
trị, về “chủ nghĩa Mac Lenin”… Chúng tôi thường chọn ngồi dưới hàng ghế cuối
cùng. Để ngáp và để ngủ không bị để ý. Những hàng ghế cuối cùng trở thành nơi
chúng tôi chia sẻ những đắng cay, những mất mát và những yêu thương. Cuối cùng
chúng tôi quyết định nên vợ nên chồng. Dám yêu đứa con cảnh sát chế độ cũ,
tương lai mờ mờ mịt mịt, chắc chắn chỉ có thể nàng đã quá yêu tôi.
Đám
cưới được tổ chức đơn giản. Không rể phụ không dâu phụ, không rước dâu. Lạy cha
mẹ, lạy bàn thờ gia tộc hai bên, đơn giản chỉ như vậy. Chỉ một số ít bạn bè
thân thiết và bà con gần. Không có gì phải phô trương khi ba tôi vẫn mịt mù đâu
đó trong “trại cải tạo”, không biết sống chết ra sao. Em yêu tôi và tôi cũng rất
yêu em. Thế là đủ.
Một
ngày trước đám cưới chúng tôi nhận được giấy báo từ phường, yêu cầu gia đình ra
khỏi nhà trong vòng 48 giờ. Lý do gia đình thuộc diện 28, sĩ quan cảnh sát làm
việc cho “chế độ Mỹ Ngụy”. Giấy báo còn cho biết, phường sẳn sàng “giúp đỡ, tạo
mọi điều kiện để gia đình có thể lập nghiệp trên vùng ‘kinh tế mới’.”
Kết
thúc vội vàng buổi tiệc mừng đám cưới, hai vợ chồng đạp xe lên sân bay Tân Sơn
Nhất xin chú can thiệp giúp đỡ. Chú nói:
–
Theo chú thấy đi kinh tế mới dầu sao cũng tốt cho mẹ và các cháu. Cực khổ lúc
ban đầu nhưng sau này sẽ khá hơn. Hồi chú ở ngoài Bắc cực khổ hơn gấp trăm lần,
có sao đâu. Sau này ba con về còn có chỗ sinh sống.
Trả
lời như chú vậy thì chẳng thà nói với đầu gối sướng hơn. Hai đứa chỉ biết nhìn
nhau, thầm nghĩ với tình thế này chắc cũng phải lên đường đi lập nghiệp trên
vùng đất mới mà thôi. Trong lúc cùng đường, vợ tôi chợt nhớ đến ông sếp cũ từ
thời trước 1975, một kỹ sư tốt nghiệp từ Pháp, cựu giám đốc Bưu Điện, nay là
cán bộ cao cấp làm việc trong “thành ủy”.
Nghe
trình bày hoàn cảnh, nghĩ đến mối giao tình thầy trò ngày xưa, ông nói để ông
xuống phường xem thử. Không hiểu ông can thiệp như thế nào, hai ngày sau, phường
gửi giấy quyết định cho gia đình tạm thời ở lại cho đến khi chồng đi “cải tạo”
trở về. Nói theo ngôn ngữ bóng đá bây giờ, vợ tôi đã cứu gia đình tôi một bàn
thua trông thấy vào phút 90.
Đọc
tiếp kỳ 2: https://baotiengdan.com/2024/04/18/toi-dua-con-nguoi-tu-hoc-tap-cai-tao-ky-2/
*****
Tôi,
đứa con người tù “học tập cải tạo” (Kỳ 2)
Lê Xuân Mỹ
18/04/2024
https://baotiengdan.com/2024/04/18/toi-dua-con-nguoi-tu-hoc-tap-cai-tao-ky-2/
Từ
khi lập gia đình, tuy có thêm đồng lương của vợ tôi, nhưng vẫn không thể nào đủ
cho một gia đình 11 miệng ăn. Bán chợ chạy của mẹ thì vất vả mà thu nhập quá
kém cỏi. Hai đứa bắt đầu làm thêm đủ thứ ngành nghề.
Khởi
đầu là nuôi heo. Nhờ giấy giới thiệu của cơ quan, mỗi tháng vợ tôi được mua một
cặp heo con với giá rẻ. Chiếc cầu tiêu duy nhất tuy nhỏ cũng được ngăn ra dành
chỗ để nuôi 2 con heo mọi mới đẻ. Mỗi ngày đi tiêu đi tiểu trong tiếng kêu ủn ỉn
của chúng, mới đầu rất khó chịu, nhưng rồi nghe riết cũng quen, cũng ghiền.
Nuôi 1-2 tháng, đem ra chợ bán. Lại lên trại mua 2 con khác nuôi tiếp.
Chỉ
nuôi heo không cũng chưa ăn thua. Bắt đầu nuôi thêm gà công nghiệp. Cũng xin giấy
giới thiệu lên trại gà mua vài chục gà con, nuôi vài tháng hơi lớn lớn rồi đem
bán. Được vài tháng suông sẻ, gặp mùa toi dịch, gà heo chết hàng loạt, cụt vốn,
hai vợ chồng nhảy qua làm bánh đậu xanh, khô, ướt. Mẹ ngâm, đãi đậu, tôi cắt giấy,
vợ tôi gói. Mỗi chiều đi làm về, hai vợ chồng đèo nhau trên chiếc xe đạp cũ kỹ
đi giao bánh cho mấy tiệm ăn quanh xóm. Không phải bán đứt, ký gửi thì đúng
hơn. Giao bánh, vài ngày sau quay lại. Bán hết thì lấy tiền, giao bánh mới. Gặp
lúc bán không hết, bị mốc, đem về không biết làm gì cho hết, trộn vô cám cho
heo gà ăn.
Cứ
vậy, những tháng ngày tiếp tục trôi. Vợ chồng ốm tong ốm teo như ma đói, nhưng
cũng phải ráng chịu cực mong đợi ngày ba về.
Đến
một ngày đầu tháng 2 năm 1978, bỗng nhiên chúng tôi nhận được thư ba, lần đầu
tiên. Góc thư tôi còn nhớ rõ địa chỉ: Trại K2 Tân Lập, Vĩnh Phú. Trong thư, ba
hỏi thăm mẹ và các em. Ba kể ba đang học tập cải tạo tốt. Thư ngắn chưa đầy một
trang giấy. Ba nhắc tôi ráng chăm sóc mẹ và các em. Đợi ngày ba về. Miền bắc
lúc đó đối với tôi vô cùng xa lạ… Nếu có biết cũng chỉ biết qua sách vở. Vĩnh
Phú ở đâu, ra sao, xa xôi như thế nào, không quan trọng, ít nhất là ba vẫn còn
sống.
Thế
là đủ. Quá mừng rỡ mẹ biểu tôi viết thư thăm ba và mỗi đứa em viết một câu cho
ba. Mẹ nói tôi kể cho ba về cuộc sống ngoài này. Tôi ầm ừ cho qua chuyện, trong
thư chỉ viết là nhớ ba, mong ba học tập tiến bộ để sớm về với gia đình.
Tôi
không kể về cuộc sống gia đình từ ngày ba đi. Không lẽ cho ba hay rằng căn nhà
đã bị tịch thu, gia đình suýt nữa bị đi “kinh tế mới”, hay lại kể với ba rằng mẹ
mỗi ngày đang bán từng chiếc áo cũ của ba ngoài lề đường. Hoặc kể cho ba chuyện
2 cây vàng.
Thôi
thì cứ để ba vui khi nghĩ rằng vợ và các con của ba dù là con của sĩ quan “chế
độ Mỹ ngụỵ, vẫn được cách mạng Cộng Sản đùm bọc thương yêu”… Thôi thì cứ như vậy
cho ba yên lòng và ít nhất thư cũng đến được với ba. Kể từ hôm đó, khoảng hơn mỗi
tháng một lần gia đình tiếp tục nhận được thư ba. Mỗi lần chỉ hơn một trang giấy,
nhưng cũng mang đến cho chúng tôi một niềm vui và hy vọng. Sẽ có ngày ba trở về.
Cho
đến một ngày, cũng từ K2 trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú. Cũng nội dung “ba đang
học tập tốt, cán bộ đối xử với ba rất tốt”, cũng khuyên “các con cố gắng học tập
trở thành cháu ngoan của ‘Bác’,” nhưng nét chữ run run, nguệch ngoạc, khó đọc
và ngắn hơn rất nhiều so với các thư trước.
Mẹ
và các em vẫn mừng rỡ như mọi lần, nhưng riêng tôi linh cảm một điều gì đó
không hay đang xảy ra. Hai vợ chồng đem thư ba lên phòng đọc đi đọc lại nhiều lần.
Hình như chữ “tốt” (học tập tốt, sức khoẻ ba vẫn rất tốt được viết đậm hơn, to
hơn các chữ khác). Chữ ba viết quá xấu so với bình thường. Rất bất thường.
Không tốt nghĩa là xấu. Không khoẻ nghĩa là bịnh.
Quá
lo lắng, tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện đi thăm ba. Lên phường xin giấy phép đi ra
Bắc, bị từ chối. Phải có giấy phép thăm nuôi từ trại gửi về. Hồi đó muốn đi Hà
Nội và các tỉnh miền Bắc, người dân bình thường như tôi phải làm đơn xin phép,
phải có lý do chính đáng và phải có người bảo lãnh. Thời gian được cấp giấy
phép thường rất lâu, nhất là đối với những gia đình thuộc diện Ngụy quân Ngụy
quyền như chúng tôi. Lên gặp chú nhờ chú can thiệp giúp đỡ, chú nói cũng y hệt
như mấy “ông cán bộ” phường:
–
Khi nào họ cho phép thăm nuôi thì ba con sẽ gửi giấy tờ về.
Chú
trả lời như vậy thì kể như không nói. Thật lo lắng cho ba, nhưng không biết làm
sao, đêm đêm tôi chỉ biết cầu nguyện cho ba sức khoẻ, và mong chờ một phép lạ.
Và phép lạ cuối cùng cũng đã xảy ra…
Ở
hiền gặp lành. Tháng 8, hiệu trưởng loan báo có đợt cho “nhân viên và giáo viên
trường Bưu Điện đi thăm miền Bắc xã hội chủ nghĩa và du ngoạn tại bãi biển Đồ
Sơn 1 tuần”. Tôi và vợ tôi có tên trong danh sách được đi. Lúc đó vợ tôi đang
mang thai đứa con đầu được 5 tháng. Phần làm việc vất vả, phần thể trạng yếu đuối,
khộng dám đi xa, vợ tôi đành ở nhà. Tôi đi ra miền Bắc một mình. Không phải vì
yêu “Hà Nội, xã hội chủ nghĩa” cũng không phải để tắm biển Đồ Sơn, mà trong
lòng tôi đang hình thành một kế hoạch đi tìm ba.
Cả
đoàn đi ra Hà Nội bằng xe lửa. Chuyến đi gồm hai phần. Phần đầu là phần nghe giảng
về “chính trị, về chủ nghĩa Mac Lenin, về miền Bắc, xã hội chủ nghĩa” 4 ngày tại
Hà Nội (phần này bắt buộc không ai được vắng mặt). Phần sau 3 ngày là về nghỉ
ngơi vui chơi tại bãi biển Đồ Sơn. Phần này kỹ luật tương đối lỏng lẻo hơn. Đa
số các “cán bộ” quê miền Bắc nhân thời gian này “tranh thủ” về thăm gia đình,
chỉ có những người miền Nam lần đầu tiên ra Bắc là theo đoàn về Đồ Sơn.
Tôi
thì đã có kế hoạch từ trước, xin trưởng đoàn ở lại Hà Nội với lý do thăm gia
đình ông chú ruột là “trung tá chính ủy” đơn vị Phòng Không Không Quân Cộng sản.
Cũng phải viện một lý do gì đó để đơn xin có “trọng lượng”. Cũng phải cho trưởng
đoàn biết là “con ngụy nhưng cũng có bà con là cán bộ Cộng Sản” dù trong thâm
tâm tôi biết ông chú đi “cách mạng” có cũng như không, khó nhờ vả sơ múi gì đuợc.
Hồn ai người nấy giữ.
Thế
là những ngày đầu tháng 9 năm 1978, tôi bắt đầu chuyến hành trình tìm cha. Chưa
một lần ra miền Bắc. Với tôi tất cả điều xa lạ. Manh mối duy nhất là địa chỉ
trên thư: K2 Trại Cải Tạo Tân Lập Vĩnh Phú. Phương tiện di chuyển: Chiếc xe đạp
Phượng Hoàng mượn của ông chú.
Sáng
mồng 3 tôi bắt đầu ra đi từ nhà chú: Khu Tập thể Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội. Trạm
đầu tiên: Ga xe lửa Hàng Cỏ. Hỏi thăm các người bán hàng rong ở ga. Vĩnh Phú
thì nhiều người biết nhưng trại Tân Lập ở đâu thì không ai hay. Thôi thì cứ lên
tàu đi về hướng Vĩnh Phú trước đã.
Đúng
là tàu chợ, xe lửa thì củ kỹ, hôi hám, trên các toa đông nghịt người, đa số là
người lao động và người bán hàng rong. Vì vướng chiếc xe đạp, chật vật lắm tôi
mới leo được lên toa cuối cùng khi tàu bắt đầu chuyển bánh. Vì lên sau cùng,
tàu đông kịt người, chỗ đứng chỗ ngồi hầu như không còn, tôi ngồi xuống một khoảng
trống sát vách cầu tiêu. Lần đầu tiên tôi cảm thấy nỗi cô đơn giữa một rừng người
cùng tiếng nói, cùng một màu da.
Mỗi
một trạm tàu dừng, tôi đều hỏi thăm những người khách và những em bé bán chè
xanh nhảy lên từ mỗi trạm. Cuối cùng cũng có được một tin tức mơ hồ từ một em
bé:
–
Có lần đi bán nước chè, em có gặp một đoàn người hình như ở trong Nam ra vì
không giống người ngoài này, đi lao động, hình như ở gần ga Ấm Thượng, Vĩnh
Phú. Em bé nói thêm, hình như có trại giam giữ những người miền Nam gần đó…
Tôi
bám tàu đi tiếp. Tàu lắc lư đi về hướng Cao Bằng, Lạng Sơn. Mùi hôi thúi bốc
lên từ cái cầu tiêu công cộng cộng hòa quyện vào cái mùi mô hôi của hàng trăm
người đứng ngồi lóc nhóc không làm tôi bận tâm. Tôi mãi suy nghĩ khi nào thì đến
ga Ấm Thượng? Vì không nhìn được qua cửa sổ, tôi đành nhờ một bà lão ngồi sát cửa
sổ nhắc giùm khi đến ga.
Xuống
được ga Ấm Thượng thì cũng đã giữa trưa. Phải nói là trạm thì đúng hơn. Nhà ga
là một căn nhà nhỏ, vách lá, trống huơ trống hoác. Vùng đất thật hoang vu, dân
di lại thưa thớt. Ra khỏi ga là một con đường đất đỏ duy nhất về một làng nào
đó ở xa xa. Tôi vừa đi, vừa hỏi đường. Hỏi xem có ai biết về trại Tân Lập
không? Không ai biết. Phải đến lần thứ 9 hay thứ 10 gì đó, khi tôi đã vào sâu
khoảng 5-7 cây số, mới có được câu trả lời tương đối rõ ràng:
–
Phải đi thêm 20 đến 25 Km về phía dãy núi, bên này là Trại Tân lập, bên kia là
biên giới Trung Quốc.
Đoạn
đường đi xa diệu vợi, chân tay rã rời, đôi khi tôi kiệt sức muốn bỏ cuộc quay về.
Nhưng nghĩ đến ba, tôi gắng gượng tiếp tục lên đường. Con đường càng vào sâu
càng lúc càng khó đi. Khi thì ngoằn ngoèo, khi thì lồi lõm. Có những đoạn không
đạp xe được vì mưa trơn trợt, tôi xuống xe dắt bộ. Nhà cửa càng lúc càng thưa
thớt, càng ít người qua lại. Tôi vừa mệt, vừa sợ, vừa đi vừa nhìn chung quanh,
dáo da, dáo dác. Nói thật, lúc đó có ai nhảy ra, phang cho mình một gậy, cướp
xe đạp, vất xác xuống ven đường, chắc cũng không ai hay.
Từ
cha sinh mẹ đẻ đến nay có bao giờ tôi đi đâu một mình như thế này đâu. Hồi nhỏ
thì có cha có mẹ, vào trường thì có bạn có bè. Đi đâu cũng đi với người này hay
người khác. Ngay cả khi đi trồng cây si, cũng rủ thêm Trường Thọ hay Quốc Chính
(đã mất) cùng đi. Đi đâu cũng xe đạp hay xe Jeep của Ba. Đi bộ thì nhiều nhất
là một cây số. Chạy thì nhiều nhất một vòng sân trường là thở dốc. Vừa mệt vừa
sợ cướp, vừa sợ ma, tôi vừa đạp xe vừa lẩm bẩm cầu nguyện, nhiều lúc nản quá muốn
quay về. Rồi lại nhớ đến ba, nhớ đến khuôn mặt buồn thê thảm của ba trước cổng
trường Chu Văn An ngày nào, tôi lại lê lết lên đường đi tiếp.
Đúng
là lê là lết. Đường càng lúc càng khó đi. Mưa phùn, đường hẹp, đất bùn quyện nước
mưa nhão nhoẹt bám vào bánh xe càng làm nặng nề. Tôi bắt đầu cảm thấy lạnh. Một
cái lạnh cắt da cắt thịt. Nhưng nỗi khổ chưa dừng ở đó. Trên con đường độc đạo
duy nhất về trại “cải tạo” Tân Lập, tôi phải vượt qua hai con sông.
Quen
với cái hiền hòa của dòng sông Hương thuở nhỏ, chưa bao giờ tôi thấy con sông
nước chảy dữ dằn như vậy. Dòng nước đục ngầu và đỏ như máu chảy cuồn cuộn. Đứng
bên này nhìn thấy bờ bên kia nhưng không biết cách nào qua. Không cầu không cống.
Không một bóng người. Men theo bờ sông, tôi đi về hướng ánh đèn leo lét xa xa.
Hỏi thăm, thì ra muốn qua sông thì đi một đoạn nơi có bờ đá dô ra ở mé sông, chụm
hai tay gọi lớn sang bên bờ bên kia “Đò ơi… ơi” Thế là từ bên kia bờ, chênh chếch
phía trên có một thuyền nhỏ một người chèo qua.
Nói
thì rất dễ dàng nhưng để băng qua được bên này không dễ chút nào. Khoảng cách
hai bên bờ không lớn lắm, nhưng do nước chảy xiết, từ bên kia muốn qua bên này,
người lái đò phải khéo léo dựa theo dòng nước chảy, từ trên xa trôi xuống, tắp
đúng vào kè đá nơi tôi đứng. Điều khiển không khéo thì thuyền lật như chơi, còn
nếu không thì thuyền tắp xuống quá kè đá, không đúng chỗ đón khách.
Bác
lái đò giúp tôi đưa xe đạp và tôi xuống thuyền. Nhìn người lái đò, nhìn dòng nước
sông đục ngầu cuồn cuộn chảy, tôi nhớ các đoạn văn của Nhất Linh, của Khái Hưng
thời Tự Lực Văn Đoàn, kể về các tỉnh miền Bắc xa xôi này. Hình như nơi đây,
bánh xe thời gian đã ngừng lại. Giống y chang như trong các bài văn ngày nào. Vẫn
như xưa, nếu không nói là cũ kỹ hơn, nghèo khổ hơn. Và có lẽ vì vậy người dân ở
miền đất sát biên giới Việt – Trung này hiền lành và chơn chất gấp vạn lần những
con người tôi gặp ở Hà Nội. Vì vậy, may mắn tôi vẫn còn cái mạng quay về.
Đi
thêm một đoạn dài, vượt qua thêm một nhánh sông tương tự thì trời đã tối đen.
Lúc này tôi không còn đạp xe được nữa… Tôi dắt xe, vừa đi vừa run cầm cập. Dân
thành thị như tôi, lần đầu tiên mới cảm thấy nỗi sợ hãi cùng cực khi một mình
giữa đồng không mông quạnh, âm thanh là tiếng côn trùng ếch nhái, thỉnh thoảng
là những ánh đom đóm lập loè. Lại thêm cái lạnh cắt da của ban đêm và mưa phùn
miền Bắc.
Khổ
không thể cực khổ hơn. Sợ không thể nào sợ hơn. Nếu không vì ba tôi đã bỏ cuộc
từ lâu. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng gặp được một căn chòi trống ven đường. Đây
có thể là nơi tạm trú của những nông dân hay của những em bé chăn trâu nào đó.
Căn
nhà (cái chòi thì đúng hơn) nhỏ xíu, trống không, có một cửa bằng tre nhỏ xíu.
Đặt chiếc xe đạp sát vách, tôi ngồi xuống tựa lưng nghỉ mệt. Có thể nói trong đời
đây là căn nhà ấm áp nhất mà tôi từng ở dù rằng những giọt mưa vẫn từ các khe hở
nhỏ xuống lạnh buốt. Bây giờ mới cảm thấy đói. Bữa ăn tối đầu tiên trên miền đất
tận cùng biên giới của người con đi tìm cha đang “học tập cải tạo” là một cái
bánh bao không nhân mua vội trên tàu.
Cái
gọi là bánh bao thật ra chỉ là một cục bột hôi mốc nhờ mưa ẩm ướt làm mềm đi nếu
không chắc sẽ cứng như đá. Nhưng không sao, khi đói thì đất cát vẫn thấy ngon
như thường. Vừa ăn tôi vừa cố nuốt đi những giọt nước mắt. Cùng với cơn lạnh
ban đêm, dù trải qua một ngày không ngủ, mệt lã, tôi vẫn không tài nào chợp mắt
được. Tôi ngồi bó gối co ro ở một góc nhà. Lần đầu tiên tôi thấy cái vô tận của
đêm dài.
Trời
vừa hơi sáng là tôi lên đường ngay. Đi thêm một chặng đường đất khá dài, khoảng
hơn 2 tiếng đồng hồ, cuối cùng tôi cũng đến được trại Tân Lập. Thật ra cái tôi
gặp đầu tiên ở giữa cái đồng không cô quạnh này là một ngôi nhà tranh, tương đối
lớn, phía trước có treo một tấm bảng nhỏ “K10 Tân Lập”. Bên trong là một cái
bàn dài có hai dãy ghế bằng tre. Không thấy có ai canh gác. Tôi nghĩ đây là nhà
khách. Đợi một lúc quả nhiên tôi thấy một công an đi ra. Tôi trình giấy tờ, ghi
rõ là “cán bộ Bưu Điện” ra Hà Nội công tác, luôn tiện thăm cha đang học tập tại
K2 Tân Lập.
Mừng
hụt. Trại “cải tạo” Tân Lập thì đúng rồi nhưng đây là nhà khách thuộc K10. Toàn
trại gồm có 10 khu vực. Nếu tính từ ngoài vào trong thì bắt đầu từ khu K10, K9…
cuối cùng sát biên giới là khu K1. K10 là khu vực đầu tiên của trại Tân Lập. Từ
đây sẽ không có nhà dân mà chỉ có những trại giam, “cán bộ” và tù nhân. Sau này
tôi mới biết khu trại Tân Lập không chỉ giam giữ các tù nhân từ trong Nam mà
còn là nơi giam giữ các thành phần bất hảo, ăn cắp, ăn trộm ngoài Bắc. Thành phần
này được giam ở các khu K10, K9 gần phía nhà dân.
Các
tù nhân sĩ quan từ miền Nam được phân loại và giam giữ theo thứ tự, chức vụ
càng cao, càng “ác ôn” thì được đưa về các khu số nhỏ K1, K2, sát núi gần biên
giới, khí hậu khắc nghiệt và rất khó trốn thoát. Nếu có vượt thoát được công an
ở các khu vực K1, K2, K3… thì chắc không qua được các thành phần bất hảo của
K9, K10. Ai nói Việt Cộng ngu. Có đào thoát khỏi trại, mặc áo tù đi lang thang
30 km, ra khỏi đây không bị bắt trở lại mới lạ.
Lại
tiếp tục lên đường. Hai bên đường là nhũng cánh đồng khoai mì, những cánh đồng
trà cằn cỗi. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp từng toán người mặc áo tù đang cuốc đất.
Từng nhóm làm việc lặng lẽ. Lúc này đường đất tương đối dễ đi hơn. Tôi cúi thấp
người cố gắng đạp thật nhanh. Đi riết rồi cũng đi qua hết khu K3 và bắt đầu vào
địa phận K2.
Có
lẽ khoảng 10 giờ sáng, mưa phùn vẫn còn rơi. Tính ra từ sáng tới giờ tôi đã đi
một lèo gần 4 tiếng đồng hồ. Không ăn uống gì nhưng tôi vẫn không cảm thấy đói.
Tôi đang náo nức với cái cảm giác sắp được gặp lại ba. Vừa đi, tôi vừa suy nghĩ
những chuyện sẽ hỏi ba, chuyện gì sẽ kể cho ba. Tự nhủ phải thật bình tĩnh, phải
không được xúc động, phải không được khóc. Nghĩ tới lúc sắp gặp ba, quên cả mệt
nhọc, tôi ráng sức đạp thật nhanh.
Qua
khỏi khúc quanh cuối K3 để vào K2, tôi thấy cách đường đất đỏ khoảng 5 đến 10
mét một nhóm khoảng mươi người áo quần lam lũ, người đang cuốc đất, người đang
vác những bó củi khô, cạnh đó mấy tay mặc áo vàng, đội mũ cối, cầm súng đi qua
đi lại.
Tôi
biết chắc chắn đó là những tù nhân đang lao động cải tạo. Như một phản xạ tự
nhiên, tôi đạp xe chậm lại, đưa mắt nhìn quanh. Cùng lúc, một tù nhân đang đội
nón lá lui cui gần vệ đường ngước mắt nhìn về phía tôi. Dù đã bao năm qua không
gặp, dù bây giờ đã quá khác xưa, gầy gò, mặt mày đen thui, râu tóc dài bạc phơ,
nhưng tôi vẫn nhận ra đó là Ba.
Nhảy
ra khỏi xe, tôi thảng thốt kêu lên một tiếng Ba thật to. Tiếng kêu làm nhiều
người quay lại hướng về phía tôi trong đó có mấy tên công an cầm súng đứng ven
đường. Trong khoảnh khắc, tôi bắt gặp đôi mắt hoảng hốt của ba, cặp mắt ngây dại
và đầy vẻ lo sợ, ba vừa chớp mắt vừa lấy tay xua lia lịa như muốn tôi đứng lại
và chỉ về phía căn nhà xa xa.
Tôi
khựng lại, tôi biết tôi không được quyền đứng lại hay trò chuyện với ba. Nuốt
giọt nước mắt đang chực chờ chảy, tôi lên xe phóng nhanh về căn nhà khách,
không quên nhìn lại ba. Vẫn kịp thấy ba đang cúi xuống, tấm lưng gầy gò yếu đuối,
run run ngã quỵ bên đường!
No comments:
Post a Comment