22/04/2022
https://vietbao.com/p301409a311895/tro-lai-chien-truong-xua
Bên lề lịch sử
Tướng Marcel Bigard
Tướng Ngô Quang Trưởng.
Hai vị dũng tướng, Marcel Bigeard của quân đội Viễn
Chinh Pháp và tướng Ngô Quang Trưởng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cùng bại
trận trong hai cuộc chiến mà lần nào cũng làm thay đổi vận mệnh của Việt Nam.
Hai ông cùng có ý nguyện cuối cùng là sau khi qua đời, tro của mình sẽ được đem
về rải tại chiến trường xưa.
Tướng Marcel
“Bruno” Bigeard (1916-2010) là một sĩ quan Pháp đã
tham dự ba cuộc chiến tranh: Thế chiến Thứ Hai, Chiến tranh Đông Dương, trong
đó có trận Điện Biên Phủ và trận chiến Algeria. Ông xuất thân từ lính động viên
binh nhì, 30 năm sau qua các chiến trận, hoàn thành binh nghiệp ở cấp tướng.
Ông đã được chỉ định làm Tổng trưởng Quốc phòng một thời gian, sau đó giải ngũ
và ông được bầu là dân biểu trong Quốc hội Pháp. Ông có 16 tác phẩm liên quan đến
chiến tranh, đặc biệt nhất là chống du kích.
Năm 1945, lần đầu ông được phái đến Đông
Dương, trong đó có nhiệm vụ huấn luyện dân quân Thái tại biên giới Lào chống lại
sự xâm nhập của Việt Minh. Ba năm sau ông trở lại Việt Nam lần thứ hai để chỉ
huy tiểu đoàn Thái, sau đó là tiểu đoàn Đông Dương vùng cao nguyên. Ông đã tham
dự nhiều trận đánh tại Bắc Việt.
Tháng 11 năm 1953, ông chỉ huy Tiểu đoàn Nhẩy
Dù tham dự trận mở màn Điện Biên Phủ. Tháng 3 năm 1954, Tiểu đoàn Dù của ông trở
lại, để tăng cường cho các căn cứ đang bị bao vây. Lòng quả cảm, tài mưu lược của
ông đã giúp chặn lại nhiều cuộc tấn công vũ bão của đối phương. Ông được thăng
Trung tá tại mặt trận. Nhưng cuối cùng ngày 7 tháng 5 năm 1954 Điện Biên thất
thủ, ông đã cùng mười ngàn đồng đội bị bắt cầm tù. Ba tháng sau ông được hồi
hương.
Ông mất ngày 18 tháng 6 năm 2010, và là một
trong những người được tặng huân chương nhiều nhất. Ý nguyện cuối cùng là tro của
ông sẽ được rải xuống Điện Biên Phủ, nơi ông thất trận bỏ lại những đồng đội đã
ngã gục nằm ở đó trong bao lâu nay.
Theo tài liệu của Wikipedia là một trong những
tài liệu có thể tin cậy, những con số liên quan đến trận Điện Biên Phủ về phía
Pháp gần như chính xác, còn con số về phía Việt Minh không được tiết lộ và chỉ
là ước lượng. Trong trận này Pháp vận dụng gần 16,000 quân, tử trận và mất tích
khoảng trên 4,000, bị bắt làm tù binh 10,998, trong số này có 4,436 là thương
binh. Những tù binh này đã phải lội bộ 400 km mới đến được trại giam,và trong
thời gian bị giam cầm, khoảng hơn 5,000 tù binh đã chết. Số tù binh Pháp và
lính thuộc địa hồi hương chỉ còn lại 3,290. Số tù binh lính địa phương Việt Nam
và Thái là 3,013 người, không biết số phận họ ra sao. Về phía Việt Minh, theo
nhiều nguồn tin, nhưng chắc chắn là con số gấp nhiều lần hơn của Pháp, Việt
Minh đã vận dụng khoảng 50,000 quân chính quy và 50,000 dân công trong việc tiếp
vận cho chiến trường. Tổng số binh sĩ tử trận và dân công chết vì bệnh tật lên
tới trên 30,000. Con số thương binh không được tính, thường gấp nhiều lần. Rất
nhiều binh sĩ hai bên đã mất tích vì bị bùn lầy vùi lấp trong các chiến hào đã
không được tìm kiếm. Hiện nay có 4 nghĩa địa tại Điện Biên an táng 4,000 lính
Việt Minh. Về phía Pháp chỉ có hai tượng đài nhỏ do các cựu chiến binh Pháp xây
để tưởng niệm các đồng đội của họ. Chiến tranh chấm dứt, Việt Nam chia đôi. Gần
một triệu người di cư từ Bắc vào Nam đi tìm tự do.
Buổi sáng hôm đó, trời trong xanh, đúng vào
ngày Điện Biên Phủ thất thủ, ngày 7 tháng 5, một máy bay nhỏ giống như máy bay
thám thính T28 hồi đó xuất hiện, bay nhiều vòng trên thung lũng lòng chảo Điện
Biên, và từ từ xuống thấp. Sau đó, có những đám bụi từ phi cơ được tung xuống.
Bỗng nhiên có những âm vang, nghe như hòa lẫn của những hồi kèn thúc quân với lời
ngân của bài ca Hồn Tử Sĩ. Rồi một cơn lốc xoáy từ đâu bốc lên đỡ những
đám bụi đó cuốn đi và chạy vòng trong thung lũng qua các cứ điểm quân sự ngày
xưa: Anne Marie, Isabelle, Gabrielle, Beatrice, Dominique, Hugette, Claudine,
Elaine… Chiếc máy bay lượn quanh thêm một vài vòng nữa, sau đó khuất dần về
phía chân trời. Thung lũng yên lặng trở lại. Tưởng như trong giây phút đó,
trong những nghĩa trang bao la với những dãy mộ sơn trắng, những chiến binh Việt
Minh chợt tỉnh từ giấc ngủ ngàn thu, cùng trở dậy chào mừng những vong hồn tử
sĩ phía bên kia đã một thời tranh sự sống chết với mình, nay có một chủ tướng
đã xuống nằm cùng với đồng đội.
Đoạn rải tro trên chỉ là một sự tưởng tượng, ý
nguyện cuối cùng của tướng Bigeard đã bị từ chối cùng thời gian Tổng trưởng Quốc
phòng Pháp sang thăm Việt Nam năm 2010. Nhà cầm quyền Hà Nội không muốn đó
là một tiền lệ không hay cho họ.
*
Vị tướng thứ
hai là Trung tướng Ngô Quang Trưởng (1927-2007). Sinh tại Kiến Hòa, ông xuất thân là một sĩ quan tốt nghiệp Khóa 4 Thủ
Đức năm 1954. Ngay sau khi ra trường, ông gia nhập binh chủng Nhẩy Dù cho
đến năm 1966, từ cấp Đại đội trưởng, Tiểu đoàn trưởng rồi Tham mưu trưởng
của Sư đoàn Dù. Sau đó binh nghiệp của ông đã gắn liền với miền Trung, vùng địa
đầu giới tuyến cho đến khi triệt thoái, qua các chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ
Binh, Quân Đoàn 1, Quân khu 1. Những lần được thăng cấp của ông đều dựa vào
công trận. Ông có 3 tác phẩm ghi lại các kinh nghiệm trong chiến tranh Việt Nam
được tàng trữ trong Trung Tâm Quân Sử Quân Lực Hoa Kỳ (U.S. Army Center of
Military History).
Ông đã được gọi là Người Hùng Quảng Trị, một vị tướng thanh liêm. Sau 1975, ông
đến Hoa Kỳ, sống lặng lẽ tại tiểu bang Virginia cho tới khi qua đời. Ý nguyện
cuối cùng là tro của ông sẽ được đem về rải trên đỉnh đèo Hải Vân, và gia đình
ông đã làm tròn ý nguyện đó.
Hãy tưởng tượng một lần nữa, buổi sáng hôm đó,
một chiếc xe van chạy từ phía Đà Nẵng leo lên đèo Hải Vân. Lúc lên tới đỉnh, đến
một chỗ đậu sát bên đường, gần chỗ tháp canh cổ được xây từ thời vua Minh Mạng.
Phía dưới là rừng xanh, xa là biển rộng. Cả gia đình gồm một bà mẹ và mấy người
con xuống xe. Trên áo họ còn đeo một mảnh vải đen, dấu hiệu của tang chế. Một
người con, có lẽ là con cả, hai tay ôm một chiếc bình gốm. Họ đi đến một mỏm
đất cao, nhìn ra biển Thái Bình bao la. Một người con khác thắp hương, đưa cho
mỗi người một nén. Họ bắt đầu đọc kinh, Kinh Bát Nhã. Tiếng kinh của họ thoảng
bay trong gió. Bài kinh được đọc xong. Người con cả đưa hũ tro đến cho mẹ và
các em. Mỗi người bốc một nắm nhỏ, ngần ngừ như lưu luyến, rồi họ tung ra phía
biển. Tiếng kinh lại thầm thì vang lên quyện vào với khói hương trầm như những
tiếng gọi vong hồn tử sĩ. Một cơn lốc từ đâu thổi đến, mang theo những âm
vang từ lòng đất, cơn lốc đã cuốn khói hương và tro của tướng Ngô Quang Trưởng
bay về phía giới tuyến, nơi mà ông đã nhiều lần hành quân, lội bộ, ngồi quân xa
hay trên trực thăng cùng các chiến hữu trong những trận chiến khốc liệt mà bao
nhiêu đồng đội của ông gục ngã. Hôm đó ông đã trở về với họ.
Cũng theo Wikipedia, tổn hại trong chiến tranh Việt nam của ba phía là: Hoa Kỳ
lính chết 58,272, bi thương 153,000, mất tích nay còn là 1,687, và 866 tù binh
hồi hương. Nguồn tin từ chính phủ miền Bắc cho biết, tử trận 1.1 triệu lính,
trong đó có 849,000 lính Bắc Việt và 251,000 lính Việt Cộng miền Nam, 300,000
binh sĩ mất tích, số bị thương không được biết. Phía Việt Nam Cộng Hòa, 266,000
tử trận, các con số khác không có nguồn tin. Về phía dân chúng khoảng trên 2
triệu người chết.
Nếu có dịp đi xe lửa xuyên Việt Bắc Nam, người
ta sẽ thấy có rất nhiều nghĩa trang lính Cộng sản nằm dọc hai bên đường sắt, với
những hàng mộ trắng thẳng tắp và kỳ đài tưởng niệm được chăm lo chu đáo. Trong
khi đó không còn thấy đâu nghĩa trang của những người lính Cộng Hòa Miền Nam. Bức
tượng người lính an nghỉ Tiếc Thương và cả nghĩa trang Biên Hòa cũng bị phá
nát. Quốc hội Mỹ đã thu hồi 1 triệu đô la trợ giúp kỹ thuật giúp tìm các binh
sĩ hai bên mất tích trong trận chiến tranh vừa qua, vì nhà cầm quyền Việt
Nam đã từ chối không chịu tìm những binh sĩ miền Nam.
Nhìn lại thế giới, các cuộc nội chiến như Bắc-Nam
của Mỹ, Đông và Tây Đức sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, họ giải quyết khá
nhanh, không gây những di hại hận thù dai dẳng. Ngay như giữa Mỹ và Nhật trong
Thế Chiến Thứ Hai, cả hai cùng đập nhau những đòn chí tử, nhưng chẳng bao lâu kẻ
thua người thắng sát lại với nhau, khiến cho Nhật Bản trở lại vai trò cường quốc.
Như cái tinh thần thượng võ của hai võ sĩ quyền Anh, cùng ra sức giáng những cú
đấm thôi sơn lên mặt nhau, dù rằng mắt mũi sưng vù, nhưng sau trận đấu họ thường
lại đến ôm lấy nhau. Chắc đó hẳn là cái văn hóa chiến tranh của phương Tây.
Việt Nam đến nay, đã gần 50 năm rồi, thù hận
giữa thắng và bại vẫn chưa xong. Bắc Hàn, Nam Hàn không biết đến bao giờ,
Cam-Bốt đã giải quyết gần xong. Có thể đó là do ảnh hưởng độc hại của “Văn Hóa
Cầm Quyền” Trung Hoa. Luôn luôn nuôi thù hận giữa các triều đại, bằng cách tru
di tam tộc, nhổ cỏ nhổ tận gốc, phân chia giai cấp, bần cố nông đấu tố địa chủ,
v.v... Cái bóng ma Trung Quốc vẫn còn phủ trùm lên các chư hầu Á Châu, không những
họ đã không thoát ra được, mà các chư hầu này còn đi xa hơn cái văn hóa thâm độc
đó, bằng những từ ngụy quân ngụy quyền, cải tạo, diệt tư sản, đẩy người ra biển
để trục lợi. Cam Bốt lại còn đi quá xa bằng cách diệt chủng, hai triệu người vô
tội đã chết một cách dã man…
Cuộc chiến tranh triền miên vừa qua là một cuộc
nội chiến tàn hại nhất trong lịch sử Việt Nam. Bao nhiêu người đã chết, hận thù
vẫn chưa tiêu. Hai bên đều bị hai thế lực bên ngoài trực tiếp hay gián tiếp
thúc đẩy để tương tàn, sát hại lẫn nhau. Chiến thắng Điện Biên Phủ tưởng sẽ đem
lại cho miền Bắc hạnh phúc ấm no, trái lại người dân vẫn bị trầm luân trong cảnh
đói khổ bao cấp suốt hơn hai mươi năm trời kế tiếp. Rồi đến, Đại Thắng Mùa
Xuân, đất nước thống nhất, đói khổ trầm luân vẫn tiếp tục và biết bao nhiêu thảm
cảnh mới lại tiếp tục xẩy ra, hàng trăm ngàn sĩ quan miền Nam bị đưa đi tù đầy
cải tạo, gia đình ly tán. Triệu người vượt biển đi tìm tự do và hàng trăm ngàn
mạng người đã vùi thân dưới biển sâu. Phải đợi đến hai mươi năm sau khi lệnh cấm
vận được bãi bỏ, đất nước mới có cơ hội thay đổi và phát triển, nhưng đồng thời
lại gây nên bao tệ trạng xã hội trầm trọng, không thuốc chữa và vẫn không thoát
khỏi nguy cơ Bắc thuộc, mất đất mất biển.
*
Tướng Ngô Quang Trưởng đã trở về cùng với các
đồng đội của ông. Tro tàn của ông hẳn đã bay đến bên các nấm mộ của các binh
sĩ, các dũng tướng anh hùng đã tuẫn tiết trong giây phút cuối cùng. Tro của ông
chắc cũng đã bay đến bên những nấm mộ của các sĩ quan tàn lụi trong các trại cải
tạo. Cùng nhau họ đã viết một thiên bi hùng ca cho những người lính thất trận
miền Nam.
– Nguyễn Công Khanh
* Theo bài viết “Trải Tro Theo Gió” của
nhà văn Nguyễn Tường Thiết, sự việc về tướng Ngô Quang Trưởng đã được thực hiện
vào mùa hè 2008.
No comments:
Post a Comment