BBT Tiếng Dân
15/04/2019
LTS: Chúng tôi có nhận được tài liệu bản tiếng Việt “Hồi ký Triệu Tử Dương”,
do TS Nguyễn Quang A dịch và gửi tới. Được biết, Hồi ký Triệu Tử Dương đã được
viết ra từ hàng chục cuộn băng cassette bí mật ghi âm vào khoảng năm 2000,
trong hoàn cảnh người đứng đầu ĐCS Trung Quốc bị quản chế tại gia, luôn bị một
số công an canh giữ từ sáng đến tối.
Sau khi ghi âm xong, Triệu Tử Dương đã đánh số thứ tự
và chuyển cho những người bạn thân tín. Ông còn đề phòng việc bị mất hoặc bị tịch
thu toàn bộ số băng, bằng cách chuyển cho mỗi người thân vài cuộn băng, thay vì
chỉ một người giữ toàn bộ số băng. Sau khi ông qua đời, những người biết về sự
tồn tại của các cuộn băng, đã bí mật tập hợp chúng lại để gỡ băng và xuất bản.
TS Nguyễn Quang A viết: “Đây là cuốn hồi ký
của Triệu Tử Dương, được xuất bản 10 năm trước, năm 2009, nhân dịp kỷ niệm 20
năm vụ thảm sát Thiên An Môn. Ngày mai 15-4 là kỷ niệm 30 năm ngày mất của Hồ
Diệu Bang và cái chết của ông đã châm ngòi cho các cuộc biểu tình sinh viên, dẫn
đến Vụ Thảm sát Thiên An Môn ngày 4-6-1989. Mời quý vị đọc, góp ý cho bản dịch
và nhờ càng nhiều người khác xem hộ càng tốt. Xin cảm ơn“.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả
toàn bộ bản dịch Hồi ký Triệu Tử Dương do TS Nguyễn Quang A gửi tới, dày gần
300 trang, gồm các phần sau đây:
Phần 1: Vụ Thảm sát Thiên An Môn
1. Những cuộc Phản kháng Sinh viên Bắt đầu 3
2. Bài Xã luận Khiến Tình hình Tồi đi 7
3. Cuộc Chiến Quyền lực 15
4. Sự Đàn áp Thẳng tay 22
5. Những Lời Tố cáo Tới tấp 31
6. Chiến dịch Chống lại Triệu 35
7. Cuộc Trò chuyện của Triệu với Gorbachev 40
Phần 2: Quản thúc tại gia
1. Triệu Trở thành một Tù nhân 46
Báo cáo Điều tra 55
2. Cuộc Chiến đấu Đơn độc của Triệu 61
Phần 3: Gốc rễ của bộc phát kinh tế Trung Quốc
1. Những Quan điểm Mâu thuẫn ở trên Đỉnh 74
2. Một sự Thoái lui Sớm 77
3. Mở cửa một cách Đau đớn ra Thế giới 82
4. Tìm một Cách tiếp cận Mới 91
5. Triệu và Hồ Đụng độ 94
6. Chơi Xỏ một Đối thủ 98
7. Từng Bước Một 103
8. Nền kinh tế Trở nên Quá Nóng 105
9. Phép Màu của Thương mại Tự do 111
10. Quyền Tự do trên Trang trại 114
11. Các Vùng Duyên hải Cất cánh 120
12. Đối phó với Tham nhũng 128
Phần 4: Chiến tranh trong Bộ Chính trị
1. Hồ Diệu Bang “Từ chức” 132
2. Triệu Đi Dây 150
3. Các Nhà Lý luận 162
4. Chuẩn bị cho Sự kiện Chính 167
Phần 5: Một năm náo động
1. Sau Đại hội 177
2. Hốt hoảng Mua và Rút Tiền ồ ạt khỏi Ngân hàng 178
3. Một Loạt Bước Sai lầm 182
4. Vấn đề với các Giá 185
5. Cải cách bị Trúng Đòn 188
6. Triệu Rút lui 191
7. Chiến dịch để Lật đổ Triệu 194
Phần 6: Trung Quốc phải thay đổi thế nào
1. Quan điểm của Đặng về Cải cách Chính trị 202
2. Quan điểm của Hồ về Cải cách Chính trị 208
3. Quan điểm của Triệu đã Tiến hoá Như thế nào 210
4. Đội Quân Già Phản Công 214
5. Con Đường phía Trước 220
Phần 7: Lời Bạt
Phần 8: Sơ yếu lý lịch của Triệu Tử Dương
Phần 9: Ai là ai
--------------------------------------
Bào
Đồng / Hồ Như Ý dịch
15/04/2019
Cựu Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc,
Thư ký chính trị Ban thường trực Bộ chính trị Trung ương Trung Quốc.
Triệu Tử Dương để lại một bộ băng ghi âm. Đây là di
ngôn của ông ấy.
Triệu Tử Dương. Ảnh: internet
Di ngôn của Triệu Tử Dương thuộc về toàn thể người
dân Trung Quốc. Công khai những di ngôn này với thế giới qua hình thức văn tự
là chủ trương của tôi, sự tình do tôi chủ trì, tôi chịu trách nhiệm chính trị đối
với việc này.
Giá trị về hồi ký ghi âm của Triệu Tử Dương hãy để
cho dư luận đánh giá. Nội dung của nó liên quan đến một giai đoạn lịch sử vẫn
đang tiếp tục gây ảnh hưởng đến vận mệnh của người dân Trung Quốc hiện tại. Chủ
đề của giai đoạn lịch sử này là cải cách. Ở Trung Quốc Đại Lục hiện tại, giai
đoạn lịch sử này bị phong tỏa và bẻ cong. Bàn về bối cảnh của giai đoạn lịch sử
này, có thể hữu ích cho độc giả trẻ tuổi khi đọc cuốn sách này.
Tại
sao Trung Quốc nhất định phải tiến hành cải cách
Từ sau khi cách mạng Tân Hợi[1]diễn ra, mặc dù liên
tiếp gặp phải khó khăn, Trung Quốc vẫn là dần dần tiến lên theo con đường hiện
đại hóa. Sự xâm lược của chủ nghãi quân phiệt Nhật Bản đối với Trung Quốc mặc
dù đã ngăn trở quá trình này, nhưng không cách nào thay đổi được phương hướng.
Sau khi nội chiến Trung Quốc kết thúc năm 1949, quốc
gia này đã có được thời cơ mới.
Vốn là, làm thế nào từng bước xây dựng có trật tự,
làm thế nào thực hiện hiện đại hóa, có cần thiết hay không xây dựng chủ nghĩa
xã hội đều là thuộc về phạm vi có thể thảo luận, có thể tranh luận. Chỉ cần thật
sự làm theo “Cương lĩnh chung” được định ra tại Hội nghị toàn thể lần thứ nhất
Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc ngày 29 tháng 9 năm 1949, thực
sự thực hiện chủ trương “bầu cử phổ thông đầu phiếu” và “người cày có ruộng”,
thì đã tốt rồi. Nếu thực sự đem giải quyết hai vấn đề này rồi, những vấn đề
khác của xã hội Trung Quốc sẽ không khó giải quyết.
Toàn diện đảo ngược phương hướng phát triển của
Trung Quốc, là hai phong trào mang tên “Cải tạo chủ nghĩa xã hội” từ năm
1953-1958 và “Phản hữu phái” năm 1957. Hai phong trào này bổ sung cho nhau hình
thành. Phong trào trước là nhằm vào chế độ sở hữu, mô phỏng theo mô hình của
chương 11, chương 12 trong “Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô”, quyết định thông
qua tập thể hóa, quốc hữu hóa, kế hoạch hóa nhằm đạt tới mục đích tiêu diệt chế
độ tư hữu và kinh tế thị trường. Phong trào sau là Đảng Cộng sản Trung Quốc căn
cứ vào ý chí của Mao Trạch Đông, được chỉ huy bởi Đặng Tiểu Bình, khi đó là Tổ
trưởng Tiểu tổ lãnh đạo chống hữu phái của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Phong trào này lựa chọn từ trong số 5 triệu phần tử trí thức, chọn ra 550 nghìn
người đánh thành “phần tử hữu phái”. Hai phong trào này là bước ngoặt trong lịch
sử cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, mở ra con đường đi ngược lại với dân
chủ và pháp chế.
Bước lên con đường được tự xưng là “chủ nghĩa xã hội”
này, chính là tiêu diệt thị trường, tiêu diệt “người cày có ruộng”, cũng là
tiêu diệt tự do, đồng thời cũng hủy hoại, đoạn tuyệt đi rất nhiều truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Trung Hoa vốn đã được đời đời truyền lại. Đối với xây dựng
xã hội, thứ “chủ nghĩa xã hội” này làm mất đi những điều tốt đẹp, chỉ có thể
đem người dân Trung Quốc duy trì ở một trạng thái “một số ít người chết đói, đại
đa số người đói nhưng không chết”. Ở trong thời đại Mao Trạch Đông, có được hộ
khẩu thành phố, mới có thể được bảo đảm dựa vào thân phận để tiêu dùng, ví dụ
như người dân Bắc Kinh và Thượng Hải, hạn mức phân phối dựa theo đầu người lớn
nhất là mỗi ngày gần 1 cân lương (500gram), khoảng 3 ngày mới có thể ăn được 1
lạng thịt, mỗi năm có thể mua được số vải để làm một bộ quần áo; đối với những
nông dân ở nông thôn vốn chiếm tới 80% dân số, bao gồm cả những thanh niên trí
thức bị ép buộc “tự nguyện” đi về nông thôn, đảng và nhà nước không thể giúp gì
hơn, mọi người chỉ có thể “tự lực cánh sinh”, tự sinh tự diệt.
“Chủ nghĩa xã hội” của thời đại Mao Trạch Đông không
những làm cho người Trung Quốc nghèo đói, hơn nữa còn đi ngược lại với giấc mơ
thực hiện hiện đại hoá trong hơn 100 năm qua của người dân Trung Quốc, càng
ngày càng cách xa.
Đằng sau Mao Trạch Đông, người vốn được ông ta chỉ định
kế thừa chức vụ Chủ tịch đảng là Hoa Quốc Phong đã không thể không thừa nhận một
sự thực ” Nền kinh tế quốc dân Trung Quốc đang đứng bên bờ sụp đổ”. Từ bấy lâu
nay, quốc gia mà không phải là quốc gia, đây chính là bối cảnh để Trung Quốc
không thể không tiến hành cải cách.
Trong
đơn thuốc mà Đảng bốc ra để trị bệnh cứu Trung Quốc lúc đó không có cải cách
Lối thoát ở đâu? Cựu cảnh vệ thiết thân của Mao, Phó
chủ tịch đảng Uông Đông Hưng nói, phàm là những quyết định của Mao chủ tịch, cần
phải được chấp hành vĩnh viễn, trước sau không sót. Chủ tịch đảng Hoa Quố Phong
cũng nói theo giống như thế.
Trong nội bộ đảng cộng sản lúc đo, người có uy tín
cao nhất về chủ quản kinh tế, là Trần Vân. Ông ta gia nhập vào Bộ chính trị từ
những năm 1930, sớm hơn 20 năm so với Đặng Tiểu Bình. Trần Vân bắt đầu công tác
quản lý kinh tế ở Diên An. Trước khi Mao phát động “Đại nhảy vọt”, Trần Vân
chính là Phó thủ tướng thứ nhất Quốc vụ viện, quản lý toàn bộ công tác kinh tế ở
Trung Quốc. Mao chê ông ta quá mức cầu thị, học hỏi, kêu ông ta đứng sang một
bên. Mao tuyên bố đem bản thân là chủ soái, phong cho Đặng Tiểu Bình làm phó
soái, ra sức luyện gang thép, kết quả là gây ra đại họa. Hiện tại Mao chết rồi,
Trần Vân đưa ra đơn thuốc để trị bệnh cho nền kinh tế Trung Quốc là “điều chỉnh”,
sửa sai những thiếu sót mất cân đối.
Đây là kết tinh những kinh nghiệm thực tiễn của Trần
Vân. “Đại nhảy vọt” đã làm chết đói hàng mấy chục triệu nông dân, năm 1962
chính là dựa vào chính sách “điều chỉnh” chỉ tiêu sản xuất lương thực, luyện
thép của Trần Vân thì mới có thể vãn hồi được một phần tàn cục. Trần Vân phản đối
mệnh lệnh chỉ huy bừa bãi của đảng, nhưng ông ta không hề phản đối sự lãnh đạo
của đảng. Từ việc độc tài độc đảng lãnh đạo về chính trị, đến kinh tế kế hoạch
hóa toàn bộ về kinh tế, mọi thứ từ dầu gạo bông đi từ sản xuất đến tiêu thụ đều
theo phương án kế hoạch thống nhất, Trần Vân không những không phản đối, hơn nữa
còn vất vả suy tư để xây dựng thành một chế độ. Nếu sửa đổi toàn bộ những di sản
của Mao, chính là thay đổi đi công lao bản thân của Trần Vân.
Phân tích về Trần Vân không thể làm đơn giản hóa. Ông
ta bảo vệ chế độ sở hữu nhà nước, nhưng không bảo vệ công xã nhân dân; ông ta
thích kinh tế kế hoạch, nhưng không thích những chỉ tiêu không thiết thực; ông
ta chủ trương lấy chính phủ làm chủ, nhưng cho phép để trị trường làm phục trợ
(“tập thể lớn, tự do nhỏ”); ông ta cho rằng tự do kinh tế cần phải giống như “một
con chim” được nhốt trong lồng, nhưng phản đối bắt con chim đó giữ trong tay;
ông ta tin tưởng đối với lão đại ca Liên Xô, không tin tưởng đối với chủ nghĩa
đế quốc Phương Tây; trong thời đại “tự lực cánh sinh”, “không ăn lương thực nhập
khẩu” đó, ông ta dám đứng ra làm bảo lãnh, dùng một câu nói “tôi nghe Mao chủ tịch
nói qua, lương thực là có thể nhập khẩu”, đem “lương thực nhập khẩu” sửa đổi
tính chất chủ nghĩa xét lại, lấy lại tính hợp lý của tư tưởng Mao Trạch Đông
cho phù hợp với nhu cầu; Ông ta bảo vệ sự lãnh đạo nhất nguyên hóa của đảng cộng
sản, nhưng lại không thích thú với việc phá hỏng điều lệ đảng của Mao Trạch
Đông. Những điều này, trong hồi ký của Triệu Tử Dương đều có nhắ đến, trả lại một
công đạo cho lịch sử.
Một vị nguyên lão hết sức có uy tín danh vọng khác,
đó là Đặng Tiểu Bình. Đặng là người thân tín bên cạnh Mao. Bởi vì Mao chỉ định
Lưu Thiếu Kỳ là người kế nhiệm duy nhất, do đó Đặng mới trở thành trợ thủ cho
Lưu trong thời kỳ trước Cách mạng văn hóa. Vào thời kỳ đầu Cách mạng văn hóa,
quần chúng không hiểu rõ thế cục đã đem Đặng và Lưu xem là cùng một phe nhóm,
nhưng trong thâm tâm thì Mao biết rõ, do vậy đã không hạ tử thủ với Đặng giống
như xuống tay đối với Lưu. Trong những năm cuối đời Mao có ý đồ thanh toán Chu
Ân Lai, Đặng lại đi cùng một chỗ với Chu, lần này thì mới mất đi sự tin tưởng của
Mao đối với bản thân. Trong Cách mạng văn hóa Đặng lại một lần nữa bị thất sủng,
“càng bị đánh càng nổi bật” không phải phải là để châm biếm mà là nâng cao hình
ảnh của ông ta trong lòng mọi người. Cũng có thể, Đặng Tiểu Bình đủ sức trở
thành nhân vật lãnh đạo dẫn đầu cải cách trong thể chế Mao Trạch Đông.
Nhưng mà với phương thuốc mà Đặng Tiểu Bình bốc ra
lúc đó, cũng không phải là cải cách, mà là “chỉnh đốn”. Chỉnh đốn, chính là chỉnh
đón xí nghiệp, chính đốn đội ngũ lãnh đạo, rút bỏ những cán bộ không phục tùng
lãnh đạo, dùng bàn tay sắt để áp đặt các quy định của đảng và kỷ luật tổ chức,
hoàn thành và vượt mức các kế hoạch quốc gia với chủ trương bàn tay sắt. Nói một
cách đơn giản, không phải là xóa bỏ mà là tăng cường hóa thể chế kiểu Mao. Chỉnh
đốn là thế mạnh của Đặng Tiểu Bình. Trong thời kỳ sau của Cách mạng văn hóa,
Mao chủ tịch kêu “Tứ nhân bang” nắm bắt cách mạng, kêu Đặng Tiểu Bình nắm bắt sản
xuất, Đặng lúc đó tuy không hiểu về kinh tế, nhưng ông ta dùng thủ đoạn “chỉnh
đốn”, mạnh mẽ đem sản xuất kéo trở lên.
Sở trường của Đặng là khôn ranh, tháo vát. Ông ta
không hồ đồ, không viển vông. Trong thâm tâm ông ta sớm hiểu rõ, kinh tế kế hoạch
của chủ nghĩa xã hội có thể không cách nào cứu vãn được sự sụp đổ của nền kinh
tế, cũng có thể cần phải chuyển hướng sang kinh tế thị trường thì mới được cứu.
Nhưng bản thân ông ta không thể mạo hiểm đội chiếc mũ “làm loạn kinh tế”, càng
không thể đội chiếc mũ “phản chủ nghĩa xã hội” được. Dù sao, kinh tế không phải
là sở trường của ông ta, ông ta là người làm chính trị, cần phải đứng vững chân
về mặt chính trị. Tháng 3 năm 1979, ông ta có một bài phát biểu về sau được ghi
vào sử sách “Kiên định bốn nguyên tắc cơ bản”: Kiên định con đường xã hội chủ
nghĩa, chuyên chính giai cấp vô sản, đảng cộng sản lãnh đạo, tư tưởng Mao Mác
Lê. Đây là đường lối chính trị của ông ta. Một năm sau, ông ta với khí phách của
lãnh tụ toàn đảng, phát biểu một cương lĩnh chính trị bao trùm cả thập niên
1980 mang tên “Tình thế và nhiệm vụ trước mắt”. Đặng chỉ điểm giang sơn, nói về
tình hình quốc tế, nói về Đài Loan, trọng điểm là nói về xây dựng hiện đại hóa.
Hiện đại hóa như thế nào? Đọc một chút bài viết thao thao bất tuyệt dài 34
trang trong tập hai của “Tuyển tập bài viết Đặng Tiểu Bình” thì nhìn thấy rõ rồi.
Bài thuốc của Đặng bốc gồm 4 vị sau: thứ nhất là nhanh nhiều tốt và tiết kiệm;
thứ hai là an định đoàn kết; thứ ba là gian khổ phấn đấu; thứ tư là vừa hồng vừa
chuyên. Đối mặt với một bãi đổ nát được Mao Trạch Đông để lại sau khi chết, Đặng
Tiểu Bình cố hết sức mình, ông ta tăng cường sức lãnh đạo, cổ vũ sĩ khí mọi người,
nhưng cho đến táng 1 năm 1980, trong cương lĩnh về thập niên 1980 của ông ta
không hề có cải cách thể chế.
Về sau lịch sử đã chứng minh, cải cách chính là sửa
đổi đi thể chế của Mao Trạch Đông. Không cải cách thì chỉ có thể lăn lộn đánh đấu
ở bên trong thể chế của Mao, không cải cách thì chỉ có một con đường chết.
Nhưng vào thời điểm đó thì những lãnh đạo của đảng, từ Hoa Quốc Phong, Uông
Đông Hưng cho đến Trần Vân, Đặng Tiểu Bình thì trong đơn thuốc mà họ đưa ra,
không hề có cải cách.
Tứ
Xuyên tìm kiếm con đường cải cách
Tìm kiếm con đường cải cách thể chế, cải cách như thế
nào là điều rất quan trọng. Càng quan trọng hơn là, cải cách cái gì.
Nhưng vào thời điểm đó, bao gồm cả Đặng Tiểu Bình và
Trần Vân, cũng không ai có thể nói được cái gì gọi là “cải cách thể chế”. Trước
khi Tứ Xuyên bắt đầu thí điểm cải cách thể chế kinh tế, trong số các lãnh đạo
Trung ương không có người nào có thể nói rõ ràng (hoặc là không nguyện ý nói rõ
ràng) “cải cách thể chế” cần phải cải cách những gì, nói đi nói lại, không có
gì ngoài “tập trung hay là phân tán”, “phân tán hay là tập trung”. Ở đây có vấn
đề về sự mạo hiểm.
Nhưng mà, Tứ Xuyên đã nghĩ rõ ràng rồi. Không những
đã nói, hơn nữa còn bắt tay vào làm, bắt đầu làm một cách ổn định, vững chắc.
Năm 1976, Tứ Xuyên bắt đầu chính sách nới lỏng. Bắt đầu từ năm 1978, bắt đầu từ
lĩnh vực chính sách đã mở rộng sang lĩnh vực thể chế, tiến hành thí điểm cải
cách thể chế kinh tế thành thị nông thôn. Nội dung cải cách thể chế kinh tế
nông thôn, là mở rộng quyền tự chủ của nông dân; Nội dung cải cách thể chế kinh
tế thành thị, là mở rộng quyền tự chủ của xí nghiệp. “Quyền tự chủ”, không gây
chú ý mạnh mẽ như “quyền lãnh đạo”, “quyền sở hữu”, “quyền ra kế hoạch”, nhưng
cũng không hề yếu đuối trừu tượng như là “tính tích cực”. Anh muốn có “tính
tích cực”, đưa cho anh mấy đồng tiền thưởng, thì có thể đem anh sai phái được rồi.
Anh nói “quyền sở hữu”, “quyền định ra kế hoạch” thì những người nhà nghề sẽ
nói rằng anh là kẻ đi ngược lại với thế giới mất. Lẽ nào anh không hiểu được rằng
“quyền sở hữu” chỉ mang họ “công/ công hữu”, “quyền ra kế hoạch” chỉ mang họ
“quốc/ quốc gia”, “quyền lãnh đạo” chỉ mang họ “đảng” thôi ư? Nhưng mà “quyền tự
chủ” thì lại không cứng không mềm, rõ ràng, ổn định, nếu bắt tay từ chỗ này, có
thể giải phẫu càng thêm sâu, cũng có thể phòng thủ được vững vàng. Đặt ra “quyền
tự chủ của nông dân” và”quyền tự chủ của xí nghiệp”, có một tiền đề hiển nhiên,
đó là đem “nông dân” và “xí nghiệp” (mà không còn là “đảng” và “nhà nước”) xem
là chủ thể của kinh tế nông thôn và thành thị. Đây cũng chính là tiền đề của
kinh tế thị trường. Mở rộng quyền tự chủ của “nông dân” và “xí nghiệp”, cùng với
thu hẹp quyền can dự của “đảng” và “chính phủ”, đều là đồng nghĩa trăm phần
trăm với nhau.
Năm 1978, tỉnh ủy Tứ Xuyên dưới sự chủ trì của Bí
thư thứ nhất Triệu Tử Dương, đưa ra quyết sách tiến hành thí điểm cải cách với nội
dung mở rộng quyền tự chủ. Đây là bước tiến mang tính thực chất đầu tiên đưa cải
cách vào trong đời sống kinh tế, cũng là điểm khởi đầu đưa Triệu Tử Dương bước
lên con đường cải cách. Bản thân là nhà cải cách, sự mệnh của Triệu chính là
thúc đẩy sự nhượng bộ của đảng và nhà nước trước nông dân và xí nghiệp, nói một
cách thẳng thắn hơn, chính là thúc đẩy sự nhượng bộ của “các nhân tố hành chính
mang tính cưỡng ép nằm ngoài lĩnh vực kinh tế” trước “chủ thể kinh tế”. Ở thời
điểm đó, Hồ Diệu Bang trong thực tiễn xét lại các vụ án oan đã sáng tạo ra một
loạt các cụm từ như “án oan sai, án giả, thì Triệu Tử Dương với thực tiễn nhượng
bộ ở trên cũng tạo ra một loạt các cụm từ “cởi trói, phân cấp quyền lực, nhượng
bộ lợi ích, làm sống lại”…đây đều là những khái niệm mang tính lịch sử làm cho
người ta suy ngẫm, hồi tưởng.
Tứ Xuyên là tỉnh có nhân khẩu lớn nấht Trung Quốc,
Xuyên Bắc, Xuyên Nam, Xuyên Đông, Xuyên Tây, bao gồm cả thành phố trực thuộc
Trung ương hiện nay là Trùng Khánh, bao gồm cả toàn bộ tỉnh Tây Khang[2]thời
Trung Hoa Dân Quốc[3], dân số toàn quốc lúc đó là hơn 1 tỉ người, Tứ Xuyên có
khoảng 100 triệu dân. Tứ Xuyên với lịch sử hơn hai nghìn năm, sớm đã được mệnh
danh là vùng đất giàu cơm cá. Vào thập niên 1960, sau khi Mao Trạch Đông đem
nơi đây xem là trung tâm xây dựng của chiến lược phòng tuyến thứ ba, biến Tứ
Xuyên trở thành địa phương với một loạt nghành công nghiệp quân sự mũi nhọn.
Trong thời kỳ Đại nhảy vọt, Bí thư thứ nhất tỉnh ủy Tứ Xuyên chính là làm việc
dựa theo ánh mắt của Mao Trạch Đông, không để ý tới sống chết của người dân.
Trong số từ 30-40 triệu người chết đói trong nạn đói lớn trên toàn quốc từ năm
1959-1961, Tứ Xuyên đã chết mất hơn 10 triệu người. Chế độ của Mao đã làm hại cả
Tứ Xuyên. Sau khi mở rộng quyền tự chủ cho nông dân và xí nghiệp thì Tứ Xuyên
thu được cuộc sống mới. Đương nhiên đây không phải là công lao cứu vãn trời đất
của một cá nhân lãnh đạo, nhưng chắc chắn nó ngưng tụ tâm huyết của người lãnh
đạo. Câu dân ca “Muốn có gạo ăn, tìm Tử Dương” đã vượt qua ranh giới của Tứ
Xuyên, truyền đến Bắc Kinh.
Hoạt động cải cách kinh tế ổn định, nổi bật của Bí
thư thứ nhất tỉnh ủy Tứ Xuyên Triệu Tử Dương, cùng với việc Trưởng ban tổ chức
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang tiến hành bình xét án oan sai
trên quy mô lớn, trở thành hai điểm sáng được bàn tán ở khắp mọi ngõ ngách trên
toàn quốc vào thời điểm đó.
Tiến
vào thời kỳ cải cách
Năm 1978 và 1979, Hồ Diệu Bang, Triệu Tử dương lần
lượt được bầu vào Bộ chính trị. Tháng 2 năm 1980, hai người cùng lúc được bầu
vào Ban thường vụ Bộ chính trị, Hồ giữ chức Tổng bí thư, Triêu giữ chức Tổ trưởng
Tiểu tổ Tài chính kinh tế Trung ương, Phó Thủ tướng (thường trực) Quốc vụ viện,
Thủ tướng.
Giai đoạn này chính là bước vào thời kỳ cải cách
trong hồi ký của Triệu Tử Dương. So sánh với những cải cách kinh tế trên quy mô
toàn quốc mà ông ta chủ trì, những cải cách ở Tứ Xuyên chỉ là thử nghiệm nhỏ với
con dao mổ bò mà thôi.
Cải cách thể chế, cải cách như thế nào, ai có thể
nói được rõ ràng? Những người có thể nói một cách rõ ràng vấn đề, từ thập niên
1950 trở đi đã bị mang ra đấu tố sạch rồi. Bởi vì Mao Trạch Đông đã dùng khoảng
thời gian hàng chục năm, dồn hết mọi công sức tâm trí vào những cuộc “đấu tranh
giai cấp” nối tiếp nhau với mục tiêu là phá hủy kinh tế thị trường, bồi dưỡng
lên một lớp lại một lớp cán bộ và học giả đắc lực để thảo phạt thị trường, tiến
hành gieo rắc vào trong tâm trí người dân sự sợ hãi và thù hận đối với kinh tế
thị trường.
Hiện tại sau quãng thời gian 30 năm, cuối cùng người
ta cũng tỉnh ngộ lại: Cải cách ở Trung Quốc, chính là xóa bỏ đi chế độ của Mao
Trạch Đông. Nhưng ở Trung Quốc Đại Lục, lại có một chuyện kì quái, đó là chỉ
cho phép nói về cải cách, không cho phép xóa bỏ Mao. Cải cách cần được ca tụng,
xóa bỏ Mao cần phải bị thảo phạt. Ngày hôm nay sau 30 năm cũng lại như vậy, vào
30 năm trước nếu có người đề xuất cần xóa bỏ thể chế Mao, chắc chắn sẽ gặp phải
vận mệnh y hệt như nữ giáo viên Trương Chí Tân và nữ sinh viên Lâm Chiêu, cải
cách chắc chắn sẽ bị bóp chết từ ngay trong trứng nước.
Con đường phủ định thể chế kinh tế của Mao Trạch
Đông, cũng có nghĩa là về mặt kinh tế cần từng bước từng bước loại bỏ học thuyết
của Mao. Năm 1978 là “quyền tự chủ”. Ba năm sau, tháng 11 năm 1981, Triệu Tử
Dương đưa ra một góc nhìn mới: “hiệu suất kinh tế”. Ông ta lấy ví dụ về thành
tích tăng trưởng kinh tế trong 28 năm từ 1950 đến 1980: tổng sản lượng sản xuất
công nông nghiệp tăng 8.1 lần, thu nhập quốc dân tăng 4.2 lần, tài sản công
nghiệp cố định tăng 26 lần. Vậy thì, mức tiêu thụ bình quân đầu người toàn quốc
thì sao? một lần! Đi suốt 28 năm theo cách làm cũ, hiệu suất kinh tế là như vậy
như vậy, từ nay về sau không đi con đường mới thì có được không? Lại đi qua 3
năm, năm 1984, khái niệm “kinh tế thương phẩm” dưới nỗ lực thúc đẩy vất vả của
Triệu Tử Dương và những người khác, cuối cùng cũng đứng được một cách vững vàng
ở Trung Quốc, cuối cùng cũng trở thành hợp pháp! “kinh tế thương phẩm” là một
khái niệm được cho phép sử dụng hợp pháp dưới tình hình chính trị lúc đó, trên
thực tế là từ thay thế cho “kinh tế thị trường”.
Đây chính là toàn bộ quá trình liên quan đến cải
cách, những vất vả cùng sự tìm tòi ở bên trong nó, sự khác biệt và hợp tác, đều
được trình bày trong cuốn sách này, đây là nguồn sử liệu tôi sâu sắc và đáng
tin cậy nhất mà tôi được xem cho đến ngày nay.
Bất
đồng giữa Triệu và Đặng về việc định vị mối quan hệ giữa đảng và nhân dân
Năm 1989, giữa Đặng Tiểu Bình và Triệu Tử Dương xảy
ra xung đột chính diện.
Cái chết của Hồ Diệu Bang dẫn tới phong trào sinh
viên nổ ra. Đặng chủ trương điều động lực lượng quân đội trấn áp; Triệu chủ
trương tìm kiếm cách giải quyết dựa trên quỹ đạo của dân chủ và pháp chế. Những
vấn đề được người dân quan tâm nhất là vấn đề tham nhũng và vấn đề dân chủ, tiến
hành đi sâu cải cách kinh tế đồng thời khởi động cải cách thể chế chính trị sẽ
thu hút được sự chú ý của toàn xã hội đối với vấn đề cải cách.
Kết cục là mọi người đã nhìn thây: Chủ tịch Quân ủy
Trung ương Đặng Tiểu Bình đưa ra phán quyết rằng Tổng bí thư Triệu Tử Dương phạm
tội “chia rẽ đảng” và “ủng hộ động loạn”; Các nguyên lão quyết định đưa Giang
Trạch Dân thay thế triệu. Sau khi Giang lên cầm quyền, đem Triệu trở thành tù
nhân của quốc gia giam giữ suốt đời, hơn nữa xóa bỏ mọi tin tức liên quan đến
Triệu trên sách, báo chí, tin tức.
Giữa Đặng Tiểu Bình và Triệu Tử Dương không hền tồn
tại cái gì ân oán cá nhân. Tháng 4 năm 1980 Triệu đến Bắc Kinh công tác, cho đến
tháng 4 năm 1989 trước khi phong trào sinh viên nổ ra, Đặng Tiểu Bình vẫn là rất
vừa lòng với công tác của Triệu Tử Dương, không phải là vừa lòng bình thường,
mà là rất rất hài lòng.
Ban đầu thì Đặng Tiểu Bình không bày tỏ thái độ đối
với cải cách kinh tế, bởi vì vào lúc đó không có nắm chắc, sợ sẽ xảy ra rối loạn,
không tốt để thu thập cục diện. Bản thân là một người làm chính trị, đây là điều
rất bình thường. Cho tới sau khi nhìn thấy thành quả thực tế ở Tứ Xuyên, Đặng
Tiểu Bính bắt đầu yên tâm. Nhìn thấy Triệu sau khi tới Trung ương công tác tiếp
tục giữ được ổn định, với đường lối cải cách bình ổn và phát triển để thúc đẩy
hai thành phần kinh tế trong và ngoài kế hoạch tiếp tục tăng trưởng, Đặng càng
yên tâm hơn. Có thể nói, Đặng là người nhất mực ủng hộ những kế hoạch và thực
thi về cải cách kinh tế của Triệu Tử Dương, ủng hộ mạnh mẽ không bảo lưu đối với
Triệu. Đối với sự ủng hộ của Đặng, Triệu cũng hết sức vui mừng. Hai người có được
sự hợp tác rất tốt đẹp.
Vấn đề hoàn toàn phát sinh từ sự khác biệt về phán
đoán tính chất và các quyết sách được đưa ra đối với phong trào sinh viên 1989.
Triệu cho rằng, sinh viên tưởng niệm Hồ Diệu Bang là hợp pháp, bình thường. Đặng
nói, đây là động loạn phản đảng phản chủ nghĩa xã hội. Triệu nói, sinh viên đưa
ra yêu cầu, phản đối tham nhũng, yêu cầu dân chủ, việc này cần thông qua quỹ đạo
dân chủ và pháp chế, thông qua đối thoại hiệp thương giữa các thành phần trong
xã hội, từ đó tìm ra phương án giải quyết, tiến thêm một bước thúc đẩy cải
cách. Đặng nói, không thể nhượng bộ trước sinh viên, cần phải điều động quân đội,
thủ đô cần phải được giới nghiêm. Đây là tranh luận đã nổ ra tại cuộc họp Ban
thường vụ Bộ chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra vào chiều
ngày 17 tháng 5. Ban thường vụ Bộ chính trị có 5 người. Triệu Tử Dương và Hồ Khải
Lập có ý kiến giống nhau; Lý Bằng và Diêu Y Lâm là có ý kiến khác; Kiều Thạch
trung lập. Dưới tình hình như vậy, Đặng Tiểu Bình lại nói, ông ta đồng ý với
quyết định của “đa số trong Ban thường vụ Bộ chính trị – chính là như vậy, Đặng
Tiểu Bình tự mình ra quyết định.
Đại hội 13 thông qua quy định “Quy tắc hội nghị Ban
thường vụ Bộ chính trị”, trong đó nói rằng khi gặp phải chia rẽ về một vấn đề
quan trọng, Ban thường vụ Bộ chính trị cần báo cáo cho Bộ chính trị, để Bộ
chính trị hoặc hội nghị Trung ương đưa ra quyết định. (Vào thời điểm đó Ủy viên
Bộ chính trị có 17 người, 14 người ở Bắc Kinh, tuy có 3 người đang ở bên ngoài,
trong thời gian ngắn cũng có thể đến kịp.) Đặng Tiểu Bình cũng cho rằng, ông ta
không phải là Ủy viên Ban thường vụ Bộ chính trị, không cần phải tuân thủ quy tắc
của Ban thường vụ Bộ chính trị; có thể, ông ta cho rằng, vấn đề này không quá
quan trọng, ông ta có quyền quyết định, sau sự việc sẽ thông báo một tiếng cho
Bộ chính trị xác nhận là được; có thể, trong thâm tâm ông ta, căn bản không có
khái niệm “quy tắc”.
Hiến pháp Trung Quốc quy định, tất cả mọi quyền lực
của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thuộc về người dân. Có thể Đặng Tiểu Bình
cho rằng, không cần thiết đưa yêu cầu lên các cơ cấu thường trực của Ủy ban Thường
vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc tiến hành biểu quyết, loại trình tự này
quá mức rắc rối, vô lý, hiệu suất thấp, không làm được việc. Có thể, ông ta căn
bản cho rằng, Hiến pháp Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa không được đặt ra để áp dụng
cho “người lãnh đạo hạt nhật của Đảng Cộng sản Trung Quốc”.
Hiến pháp quy định Quốc vụ viện có quyền quyết định
giới nhiêm, nhưng trong 3 ngày từ 17 tháng 5 khi Ban thường vụ Bộ chính trị quyết
định giới nghiêm đến ngày 19 tháng 5 thực hiện lệnh giới nghiêm, Quốc vụ viện
có hay không mở cuộc họp toàn thể hoặc cuộc họp Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu
Nhân dân Toàn quốc? Kiểm tra thì sẽ biết ngay thôi. Tôi đã kiểm tra qua, không
có.
Chính là như vậy, đã diễn ra sự việc hàng trăm nghìn
binh lính tiến vào thủ đô Bắc Kinh, dùng xe tăng và súng trường tiến công chĩa
vào người dân và sinh viên tiến hành thảm sát “Lục Tứ”. Những binh lính quốc
phòng được dùng để đối phó với những người dân thường đưa đơn thỉnh nguyện hòa
bình lên đảng và chính phủ. Bi kịch khủng khiếp đã xảy ra, tiếp đó là một cuộc
bức hại thanh lọc trên quy mô toàn quốc đối với toàn đảng toàn quân toàn dân. Ổn
định nghiền ép tất cả, nó nghiền ép cải cách, nghiền ép pháp luật, nghiền ép
lương tâm, nghiền ép người chủ quốc gia, nghiền ép không biết bao nhiêu người
dân đã nhà tan người chết.
Bản thân là một công dân, Triệu Tử Dương đã bị giam
giữ trái phép bởi Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong suốt 15 năm, cho đến
khi ông qua đời ở tuổi 85, thì nhà cải cách này mới thoát khỏi bị giam cầm, “tự
do” rồi.
Có người nói, Tổng bí thư muốn chia rẽ đảng, trong
khi đó Chủ tịch Quân ủy Trung ương lại muón cứu đảng. Căn cứ vào quan sát của
tôi, hai người bọn họ đều là những người trung thành với Đảng Cộng sản, đều đem
vận mệnh của bản thân gắn liền với đảng, đều muốn đem đảng này xây dựng tốt
lên. Khác biệt nằm ở chỗ, Tổng bí thư cho rằng, đảng cần phải thuận theo dân ý,
cần phải phục tùng ý muốn của người dân; Chủ tịch Quân ủy Trung ương cho rằng,
đảng không bao giờ được thể hiện sự yếu đuối trước người dân, ý muốn của người
dân cần phải chịu sự lãnh đạo của đảng. Xuất hiện ý kiến khác nhau, đối với những
chính đảng khác đều là chuyện bình thường, nhưng đối với một chính đảng như Đảng
Cộng sản vốn dựa vào nòng súng để đi lên, nó luôn là dựa vào mệnh lệnh của tổng
chỉ huy để loại trừ mọi ý kiến khác biệt. Do vậy, trong lịch sử của Đảng Cộng sản
Trung Quốc, đối với nhân dân, đối với đồng chí, thì những cuộc tranh đấu tàn khốc,
trấn áp vô tình đã trở thành chuyện cơm bữa.
“Lục
Tứ” mở ra một cục diện mới khi toàn dân bị khóa mõm
Tôi không biết rõ số lượng bao nhiêu đồng bào đã ngã
xuống dưới xe tăng và họng súng trường tấn công. Trung Quốc mỗi năm đều tổ chức
thảo luận về số lượng người Trung Quốc bị giết khi Nhật Bản xâm lược Trung Quốc,
nhưng chưa bao giờ thảo luận qua về số lượng người Trung Quốc bị giết bởi chính
quân đội của đất nước mình. Chính quyền đã từng công bố tin tức “ở quảng trường
Thiên An Môn không hề có một người chết”, điều này rất cơ trí, nhưng rất không
thành thật. Gia đình tôi khi đó ở trong khu gọi là “tòa nhà dành cho các bộ trưởng”,
chính là đã có người ở trong nhà bị đầu đạn từ bên ngoài bay vào nhà gây ra chết
người. Nghe nói rằng toàn thế giới đều xem được tường thuật trực tiếp cảnh quân
đội tiến hành thảm sát đồ thành ở Kinh. Ở thời điểm đó tôi đã ở trong nhà gian,
không nhìn thấy được, nhưng mà tôi tin rằng, những cảnh quay đó, là tác phẩm của
bản thân Đặng Tiểu Bình, không thể là có người nước ngoài nào đó “yêu ma hóa
Trung Quốc”.
Sau khi xảy ra sự kiện đẫm máu Lục Tứ, chính quyền lại
phát động cuộc thanh trừng, bố ráp trên quy mô toàn quốc, tôi không biết rõ
ràng kết quả của cuộc thanh trừng, tìm kiếm này. Số lượng những người bởi vì đồng
tình với phong trào sinh viên, do đó phản đối sử dụng quân đội trấn áp người
dân mà bị trừng phạt, căn cứ vào kinh nghiệm trước đây, có lẽ phải vượt qua nhiều
so với số lượng thương vong trực tiếp. Nhưng đến cung là có bao nhiêu người,
thì đây là bí mật quốc gia, không được phép hỏi thăm, không được phép “phát
tán”.
Có bao nhiêu người không còn nhà để về, hoặc là có
bao nhiêu người tan nát gia đình? Bao nhiêu người bị khai trừ công việc, vĩnh
viễn không được tuyển dụng lại, không kế sinh nhai? Có bao nhiêu người mất
tích? bao nhiêu người bị đi lao động cải tạo, bị xét xử? Ai biết được con số
này?
Trung ương Đảng đã đặt ra tiền lệ dùng vũ lực trấn
áp công dân. Hai mươi năm qua, các thế hệ lãnh đạo tiếp tục lên nắm quyền, đều
làm theo như là tuyên thệ, đưa ra những lời tán thưởng dành cho hành động trấn
áp. Ở trên làm thì ở dưới học theo, từ cấp tỉnh, thành phố, huyện, hương, thôn
đều tạo ra không biết bao nhiêu sự kiện tiểu Thiên An Môn trấn áp người dân? Có
người nói, một năm có 365 ngày thì gần như mỗi ngày đều có. Có thể lắm chứ.
Trong số vô vàn những cuộc đàn áp quy mô nhỏ hơn Thiên An Môn đó, có bao nhiêu
người bị hại? Lại có bao nhiêu được xếp là “bí mật quốc gia”? Chính quyền không
nói, cũng không cho phép truyền thông Trung Quốc lên tiếng nói cho người dân
Trung Quốc được biết.
Có người nói, bạo lực trấn áp đã tạo ra phồn vinh.
Tôi chỉ biết, là cải cách kinh tế đưa tới phồn vinh. Là nhân dân, dùng kinh tế
thị trường phá vỡ dây xích của Mao Trachj Đông trói buộc họ, từ đó tạo nên phồn
vinh. Bây giờ có người tổng kết, nói rằng phồn vinh là sản vật của trấn áp. Đối
mặt với khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tôi không biết được bọn họ có hay không
đã chuẩn bị giới thiệu kinh nghiệm trấn áp, nhằm cứu rỗi kinh tế thế giới.
Có người vui mừng khi Trung Quốc đã có bước nhảy vọt
âm thầm trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ. Tôi tin tưởng rằng
điều này là thật sự. Dưới vó ngựa của Hốt Tất Liệt[4]thì Trung Quốc đã sớm là
thiên đường của sự phồn hoa dưới cái nhìn của Marco Polo[5]. Trong những năm 20
của thế kỷ 20 dưới sự thống trị của chính phủ quân phiệt Bắc Dương[6], căn cứ
vào tư liệu của phóng viên thời đó là Trâu Thao Phấn[7]tiên sinh cung cấp,
Trung Quốc vốn là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, luôn lớn hơn cả Nhật Bản và
Đức, chỉ đứng sau Hoa Kỳ và Anh Quốc. Bởi vì vào lúc đó Anh Quốc có rất nhiều
thuộc địa trên khắp thế giới, nếu như tính theo diện tích lãnh thổ mà nói, rất
có khả năng, Trung Quốc dưới thời chính phủ Bắc Dương có khả năng xếp hạng kinh
tế không thua kém so với chính quyền Trung Quốc hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, chí ít cũng chưa bị đánh cướp bởi thuyết nhất nguyên.
Lục Tứ đã mở ra một cực diện mới với việc toàn dân bị
khóa mõm. Sau chuyến tuần du phương Nam của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc lại âm
thầm đề xuất lại cải cách kinh tế, một lần nữa phân phối tài phú. Ai là kẻ hưởng
lợi nhiều nhất trong thời đại im lặng này? Tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng,
toàn bộ những người dân bị ép buộc phải im lặng, bị khóa mõm đều là những nạn
nhân bị bức hại của trận thảm sát, đồ thành Lục Tứ. Ngay cả những người vào thời
điểm đó chưa được sinh ra, thì sau khi sinh ra họ vẫn tiếp tục phải im lặng,
hơn nữa trong tình trạng bất giác, phải cung cung kính kính, lễ bái quyền lực,
đương nhiên càng là những nạn nhân oan ức ô tội.
[1] Cách mạng Tân Hợi ( từ ngày 10 tháng 10 năm 1911
đến 12 tháng 2 năm 1912) là cuộc cách mạng dân chủ tư sản, do những trí thức cấp
tiến lãnh đạo, đã lật đổ triều đại Mãn Thanh, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên
chế tồn tại lâu đời ở Trung Quốc, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, có ảnh
hưởng nhất định đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước Châu Á.
[2] Tây Khang 西康省 là một tỉnh không còn tồn tại của Trung Hoa Dân Quốc.
Tỉnh bao gồm hầu hết khu vực Kham của Tây Tạng. Khu vực này cũng là nơi cư trú
của một thiểu số nhỏ những người thuộc sắc tộc Mông Cổ. Tây Khang, trước đó được
gọi là Xuyên Biên (川邊), là một “Đặc khu hành chính” của Trung Hoa Dân Quốc cho đến trước năm
1939, khi nó chính thức trở thành một tỉnh. Tỉnh lị của Tây Khang là Khang Định
từ năm 1939 đến 1951, và Nhã An từ 1951 đến 1955. (biên tập)
[3] Trung Hoa Dân Quốc là nhà nước thống trị Trung
Quốc từ năm 1912 đến năm 1949. Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi bùng phát khiến triều
Mãn Thanh sụp đổ. Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Tôn Trung Sơn thành lập Chính phủ
lâm thời tại Nam Kinh, tuyên bố kiến lập Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1949, Chính phủ
Trung Hoa Dân Quốc dưới quyền Trung Quốc Quốc Dân Đảng bị lực lượng vũ trang của
Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh bại trong nội chiến, do đó để mất sự thống trị với
Trung Quốc đại lục. Ngày 1 tháng 10 cùng năm, Đảng Cộng sản Trung Quốc kiến lập
Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh, chính thức nắm giữ quyền
thống trị đối với Trung Quốc đại lục, đến tháng 12 cùng năm thì Chính phủ Trung
Hoa Dân Quốc dời đến Đài Bắc, tiếp tục duy trì thống trị đối với khu vực Đài
Loan.
[4] Hốt Tất Liệt (1215 – 1294), là Đại khả hãn thứ
năm của Đế quốc Mông Cổ, đồng thời là người sáng lập ra triều đại nhà Nguyên
trong lịch sử Trung Quốc.Năm 1260, Hốt Tất Liệt đã trở thành Đại hãn của đế quốc
Mông Cổ sau khi anh trai ông là Đại hãn Mông Kha chết năm trước đó, mặc dù em
trai ông là A Lý Bất Ca (Ariq Böke) cũng tự xưng là đại hãn tại kinh đô của đế
quốc Mông Cổ vào thời điểm đó là Karakorum. Năm 1271, Hốt Tất Liệt thành lập
nhà Nguyên, vào thời gian đó kiểm soát các khu vực ngày nay thuộc Mông Cổ, Hoa
Bắc, phần lớn miền tây Trung Quốc và các khu vực cận kề, và ông có địa vị của một
Hoàng đế Trung Hoa. Năm 1279, quân đội nhà Nguyên cuối cùng đã đánh bại Nam Tống
và như thế Hốt Tất Liệt đã trở thành hoàng đế Trung Hoa một cách đầy đủ. Miếu
hiệu của ông là Nguyên Thế Tổ (元世祖).Dưới sự lãnh đạo của ông, đế quốc Mông Cổ đã đạt đỉnh điểm của sự hưng
thịnh. Ông đã dời đô từ Hoa Lâm về Đại Đô tức Bắc Kinh ngày nay.
[5] Marco Polo (1254 – 1324) là một thương gia và
nhà thám hiểm gốc Venice. Trong số các nhà thám hiểm, ông, cùng cha (Niccolò)
và chú (Maffeo), là những người châu Âu đầu tiên đến Trung Quốc bằng Con đường
tơ lụa cũng như đến thăm vị khả hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt. Những cuộc du hành của
ông đã được ghi lại trong Marco Polo du ký)
[6] Chính phủ Bắc Kinh Trung Hoa Dân Quốc北洋政府: Là chỉ chính phủ trung ương đặt
thủ đô tại Bắc Kinh trong thời kỳ đầu kiến quốc Trung Hoa Dân Quốc, do nhân sĩ
Bắc Dương phái nắm quyền nên được gọi là Chính phủ Bắc Dương. Sau Cách mạng Tân
Hợi bùng phát năm 1911, Chính phủ Bắc Dương là chính quyền đầu tiên được quốc tế
thừa nhận kế thừa pháp thống Trung Quốc, đánh dấu Trung Hoa Dân Quốc chính thức
xuất hiện. Ngày 6 tháng 10 năm 1913, Viên Thế Khải qua bầu cử trở thành đại tổng
thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc, đánh dấu Chính phủ Bắc Dương chính thức
thành lập, tiếp nối Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc.Chính phủ Bắc Dương
là một chính phủ khá dân chủ trong lịch sử Trung Quốc, cũng có cống hiến quan
trọng cho duy trì chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Dưới quyền chính phủ
Bắc Dương, vào năm 1917 Trung Quốc gia nhập phe Hiệp Ước trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất, đồng thời trong năm 1919 lấy thân phận “nước chiến thắng” tham dự
Hội nghị hòa bình Paris, song do Phong trào Ngũ Tứ kháng nghị nên không ký vào
Hòa ước Versailles. Năm 1928, sau khi Chiến tranh Bắc phạt kết thúc, Chính phủ
Bắc Dương chính thức bị Chính phủ Quốc dân thay thế.
[7] Trâu Thao Phấn (1895-1944): Quê ở Vĩnh An tỉnh
Phúc Kiến. Là một nhà báo, nhà hoạt động xuất bản. Người sáng lập Tam Liên Thư
Điếm.
No comments:
Post a Comment