19/01/2018
Ngày
nay trái đất đã thu hẹp lại, đó là nhờ phương tiện di chuyển và phương tiện
thông tin. Người ở bên này trái đất có thể rất gần gũi với người ở bên kia trái
đất, giống như hai người kề cận nói chuyện với nhau, như cùng một nhà hay hàng
xóm láng giềng. Cho nên quan niệm xa-gần chỉ là tương đối. Ngày xưa mẹ tiễn
con, em tiễn chị lấy chồng ở bên kia sông (sang ngang) coi như “nghìn
trùng xa cách” với những câu ca dao nghe đứt ruột:
Chiều
chiều ra đứng ngõ sau.
Trông
về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Ngày
nay câu ca dao “gả chồng xa” được các màn hài kịch/chọc cười sửa lại rất vui và
rất thấm thía như sau:
Mẹ
ơi đừng gả con xa.
Gả
con đi Mỹ,
Con
gửi đô-la mẹ xài.
Xin
nhớ Việt Nam cách Mỹ 19 giờ bay của máy bay phản lực, chứ không phải là chuyến
đò qua bên kia sông. Như vậy tiền bạc và tình cảm đã làm cho xa thành gần và gần
thành xa mà Phật Giáo cho rằng mọi chuyện trên cõi đời nay do Tâm mình tạo ra
“Nhất thiết duy tâm tạo”. Cho nên mặc dù ở xa vạn dặm, chưa một lần
gặp mặt, Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng thuộc Tu Viện Quảng Đức, Úc Châu có gửi tặng
tôi ba cuốn sách thì đó là chuyện rất thường của duyên văn nghệ và duyên Phật
pháp. Ba cuốn sách đó là:
Bìa sách “Đức Đạt Lai Lạt
Ma: Con Trai Của Tôi (Dalai
Lama, My Son)”
1) Đức
Đạt Lai Lạt Ma: Con Trai Của Tôi (Dalai Lama, My Son) xuất
bản năm 2015 (PL 2559) tại Úc Châu.
2) Kỷ
Yếu “Hai Mươi Năm (1990-2010) Thành Lập Tu Viện Quảng Đức”. Đây là cuốn
sách bằng hình, bìa cứng, khổ lớn ấn loát rất đẹp ghi lại hình ảnh ngày lễ kỷ
niệm với sự tham dự của Đức Dalai Lama, rất nhiều viên chức cao cấp của chính
phủ Úc, bài viết, sinh hoạt của Tu Viện Quảng Đức, sinh hoạt của Gia Đình Phật
Tử trong 20 năm. Tu Viện này do Thầy Tâm Phương kiến tạo năm 1990 lấy tên
Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để tranh đấu cho quyền bình đẳng tôn giáo
năm 1963. Thượng Tọa Thích Tâm Phương sinh năm 1955 tại Vĩnh Thái, Nha Trang, cựu
huynh trưởng Gia Đình Phật Tử, xuất gia với Hòa Thượng Thích Như Ý, tu học tại
Chùa Pháp Vân Gia Định. Năm 1986 thày vượt biển tới Đảo Pulau Bidong của Mã Lai
rồi định cư vào Úc (Tôi cũng vượt biển tới đảo này năm 1984). Dù không
phải là một kiến trúc sư, theo tôi, kiến trúc của Tu Viện Quảng Đức là một sự
pha trộn giữa kiến trúc có chiều cao, đầy màu sắc của Tây Tạng phối hợp với kiến
trúc cổ của Việt Nam khiến cho tu viện trở nên tráng lệ, phù hợp với cảm quan của
người Úc. Có lẽ không gì quý hơn là trình bày ở đây Lời Giới Thiệu được in trên
sách về Tu Viện Quảng Đức,”Khi tới Thành Phố Moreland, tây bắc Tiểu Bang
Victoria, khách hành hương sẽ nhìn thấy một quần thể kiến trúc nổi bật trên
thành phố. Đó là Bảo Tháp Tứ Ân và Cổ Lầu, chánh điện của Tu Viện Quảng Đức, tọa
lạc tại 105 Lynch Road, vùng Fawkner, tu viện Phật Giáo duy nhất của thành phố,
do TT. Thích Tâm Phương khai sơn năm 1990 trên xứ sở Nam Bán Cầu này.”
3) Chết
và Tái Sinh (Death and Rebirth) sách xuất bản nhân Mùa Vu
Lan báo hiếu năm 2007.
Đối với các nhà khoa học, các bác sĩ và người thường thì chết bắt đầu từ giai
đoạn người ta tắt thở và sẽ không còn gì nữa. Thế nhưng theo Phật Giáo sau khi
người ta tắt thở nhưng sự chết chưa chấm dứt mà người chết còn trải qua giai đoạn
gọi là “Trung Ấm” kéo dài một tuần lễ. Trong thời kỳ này, thần thức của
người chết vẫn còn luyến nhớ xác thân và luẩn quẩn ở đó trước khi đi đầu thai.
Sự sống và sự chết là hai vấn đề lớn nhất của con người, nhất là ”Sau cái chết
con người đi về đâu?” Để giải quyết vấn đề này tác giả đã sưu tầm những
tài liệu bằng Anh Ngữ, phiên dịch rồi biên soạn thành sách. Tác giả đã căn cứ
vào tài liệu của Thượng Tọa Pende Hawter- Sáng Lập Dưỡng Đường Tiếp Dẫn Karuna
(Từ Bi) để chăm sóc người sắp lâm chung ở Thành Phố Bisbane, Tiểu Bang
Queenland. TT. Pende Hawter đã phỏng vấn các bậc đại sư Tây Tạng như: Dalai
Lama, Dilgo Khyentse Rinpoche, Kirti Tsen-shab Rinpoche, Garje Khamtul
Rinpoche, và Geshe Lamrimpa, về tiến trình hấp hối, chết và tái sinh của con
ngườị. Cuộc phỏng vấn được thực hiện vào tháng 5 năm 1995 tại tỉnh Dharamsala,
miền Bắc Ấn Độ.
Quý
vị muốn biết thân Trung Ấm như thế nào, cách chăm sóc người sắp lâm chung, sự
tái sinh, sự tái sinh ở Tây Phương, xin tìm đọc sách.
Tôi đặc biệt chú ý tới cuốn Đức Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Của Tôi (Dalai
Lama, My Son). Đây là cuốn tự truyện (Biography) của cụ bà Diki
Tsering - thân mẫu của Đức Đạt Lai Lạt Ma, do Khedroob Thondup (cháu nội cụ
bà) viết bằng tiếng Anh và được tác giả Thích Nguyên Tạng dịch ra Việt Ngữ.
Sách được Ananda Viet Foundation ấn tống và phát hành nhân dịp kỷ niệm sinh nhật
năm thứ 80 của Đức Đạt Lai Lạt Ma tổ chức tại Irvine, California Tháng 7, 2015.
Sách được Hòa Thượng Thích Như Điển- Viện Chủ Chùa Viên Giác, Đức Quốc giới thiệu.
Sách kèm rất nhiều hình ảnh của Đức Đạt Lai Lạt Ma từ lúc tấm bé còn bồng trên
tay, hình ảnh của phụ thân, mẫu thân ngài, sinh hoạt của ngài, hình ảnh chùa
chiền, đời sống của dân Tây Tạng v.v..
Chúng
ta hãy xem Phần Mở Đầu của dịch giả Thích Nguyên Tạng:
“Đức Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Của Tôi” là một
tập tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một tập sách hấp dẫn
do Cụ bà Diki Tsering (mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma) kể lại những chi tiết sinh động
trong cuộc đời của mình, từ một phụ nữ nông thôn bình thường, bỗng chốc đã trở
thành một người đàn bà có địa vị cao nhất trong xã hội, làm Mẹ của Đức Đạt Lai
Lạt Ma, người lãnh đạo quốc gia Tây Tạng.
Trong cuốn sách này, cụ bà Diki Tsering đã kể lại những sự kiện
quan trọng trong cuộc đời của mình, từ những năm đầu khiêm tốn của bà ở làng
quê Amdo xa xôi ở miền đông Tây Tạng, những phong tục, những lễ nghi của người
Tây Tạng, cho đến mười sáu người con mà bà đã sinh hạ (chỉ có bảy người con
còn sống). Lời kể của bà thật cảm động về những vị khách đã đến ngôi làng
Amdo của bà để tìm hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13; về hành trình di
chuyển gian khổ của gia đình bà đến thủ đô Lhasa trước khi Trung Quốc xâm chiếm
và kể lại cuộc trốn chạy và cuộc sống tỵ nạn lưu vong của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Ấn
Độ. Đây là những lời kể của một người đàn bà Tây Tạng với những chi tiết về lịch
sử, văn hóa, hình ảnh, những kỷ niệm, những sự kiện mà không có ai khác ngoài
người Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, chính thức bày tỏ cho thế giới bên ngoài biết
được những gì đã và đang xảy ra cho quê hương và dân tộc của bà.
Danh hiệu "Đạt Lai Lạt Ma" có nghĩa là "Đạo sư
trí huệ như biển cả". Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đạt Lai Lạt Ma
là hiện thân lòng từ của chư Phật và Bồ Tát, người chọn con đường tái sinh trở
lại kiếp người để cứu giúp chúng sanh. Danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được hiểu
là "Hộ Tín" có nghĩa là Người bảo vệ đức tin, "Huệ Hải" là
Biển lớn của trí tuệ, "Pháp vương" là Vua của Chánh Pháp, "Như ý
châu" là Viên bảo châu như ý...
Danh hiệu "Đạt Lai Lạt Ma" được vua Mông Cổ Altan Khan
tấn phong cho Ngài phương trượng của Tông Phái Hoàng Mạo Giáo (Gelugpa, phái
Mũ Vàng) vào năm 1578. Từ năm 1617 đến nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 đã trở
thành người lãnh đạo chính trị và tôn giáo của dân tộc Tây Tạng. Và kể từ đó,
người Tây Tạng xem Đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm và Đức
Ban Thiền Lạt Ma (hóa thân Phật A Di Đà) là người giữ chức cao thứ hai
sau Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đức Ban Thiền Lạt Ma giữ nhiệm vụ đi tìm hóa thân mới của
Đạt Lai Lạt Ma và ngược lại.
Việc đi tìm hóa thân của Ban Thiền Lạt Ma, hay nói chung là việc
tìm bất cứ hóa thân nào, luôn luôn là một nghi lễ tôn giáo thiêng liêng và Đức
Đạt Lai Lạt Ma là người quyết định cuối cùng của sự lựa chọn. Mỗi một vị Đạt
Lai Lạt Ma được xem là tái sinh của vị trước đó. Có lần Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
14 được báo chí Phương Tây hỏi Ngài bao nhiêu tuổi. Ngài trả lời rằng mình hiện
đã năm trăm tuổi. Câu trả lời này hàm ý nói rằng dòng truyền thừa Đạt Lai Lạt
Ma qua con đường tái sinh đã hơn 500 năm không hề gián đoạn.
Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện nay là vị thứ 14, tuy nhiên, theo các
nhà phân tích, sự xuất hiện của Ngài như là một định mệnh, đã thừa kế tước vị Đức
Đạt Lai Lạt Ma ở trong một giai đoạn bấp bênh nhất trong toàn bộ lịch sử của
danh hiệu cao quý này. Vì đất nước của Ngài đã rơi vào tình trạng khủng hoảng
tranh chấp quyền lực trong thời gian Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 viên tịch và bản
thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 còn quá nhỏ để đảm nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc
gia, trong khi các vị nhiếp chính thiếu tu, không có tài đức lãnh đạo, yêu nước
thương dân, cuối cùng đã đưa đất nước Tây Tạng đi đến hố thẳm diệt vong của ngoại
bang. Đến khi ngài đủ tuổi lên nắm quyền thì mọi việc đã quá trễ. Năm 1959,
ngài đến tỵ nạn và thành lập chính phủ lưu vong tại Dharamsala, miền bắc Ấn Độ.
Từ đó, ngài đã ủng hộ triệt để cho chính sách bất bạo động. Chính vì thế mà năm
1989, ngài được trao giải thưởng Nobel về hòa bình và hiện nay, cũng trong thận
phận người tỵ nạn, ngài thường xuyên đi đến nhiều miền đất trên thế giới để kêu
gọi hòa bình, và khi có thể ngài nói lên tiếng nói tự do giải phóng cho dân tộc
Tây Tạng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã vượt qua những ngăn cách của địa lý, tôn
giáo và chính trị bằng đạo phong oai nghiêm, giản dị, sâu sắc và giàu lòng từ
bi của mình. Trong những bài giảng và những lần đi vòng quanh thế giới, mọi người
đều cảm mến và kính phục. Ngài được xem là người đại diện Phật giáo xuất sắc nhất
trên thế giới hiện nay.
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của
Phật Giáo trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học
được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất. “
Sách
gồm 32 Chương nhưng tôi chỉ liệt kê một số chương tiểu biểu và thích thú:
-Con
gái nông thôn
Trong chương này cụ Diki Tsering kể rằng tên thật của cụ là Sonam Tsomo và
“ Từ khi sống ở Lhasa, tôi cố gắng trở thành Diki Tsering với tất cả ý
nghĩa của cái tên này. Vì bổn phận trong địa vị mới của mình, tôi dần dần thôi
là Sonam Tsomo, một cô gái đơn sơ với đời sống đơn sơ và ước vọng đơn sơ, làm một
người vợ và một người mẹ tốt. Tôi cảm thấy nhớ cô gái mà tôi đã tự bắt mình phải
quên… Và tôi cũng không biết mình sinh năm nào. Bởi vì khi hỏi
thế sẽ bị bà nội hay bà ngoại mắng dữ dội vì tội bất kính.”
-Những
năm đầu đời
Cô gái Sonam Tsomo
(có nghĩa là Phồn Thịnh và Nữ Thần Trường Thọ) nhớ lại đời mình như
sau: “Tôi không bao giờ quên những ngày thơ ngây và tự do của mình ở Amdo (một
trong hai tỉnh miền đông Tây Tạng). Tôi lớn lên với bảy em gái và ba anh em trai
trong tình thương nồng ấm. Cha mẹ tôi là những nông dân hiền lành và giàu có. Tầm
mắt và ý thức của tôi bắt đầu và chấm dứt với đời sống của ông cha tôi, những
người làm nghề canh tác ruộng đất. Đất là phương tiện sống của chúng tôi. Khi số
mạng thay đổi đời sống của tôi một cách bất ngờ và mau chóng như vậy, tôi chỉ
là cô gái nông thôn.”
-Tuổi
thơ
Chương này mô tả những
chi tiết lạ của xã hội Tây Tạng, “Đa số các gia đình Tây Tạng cho một
con trai đi tu, trừ những gia đình có ít con trai, phải ở nhà để làm công việc
đồng áng. Những gia đình nghèo thường cho con trai nhỏ tới sống ở chùa vì nuôi
con trai ở nhà cho đến khi trưởng thành rất tốn kém. Ở Tsongkha người ta không
nghe nói có ai cho con gái đi tu, mà cũng không có chùa nào trong vùng dành cho
người nữ. Ở Lhasa, nhiều nhà cho con gái đi tu, một số vì lý do kinh tế, khi
cha mẹ thấy việc nuôi con gái rồi gả chồng là nặng nhọc.”
-Xã
hội ở Amdo
“Những gia đình giàu
thì có nông trại lớn và nhiều người giúp việc, nhưng thành quả kinh tế được phân
chia tương đối đồng đều cho mọi người, và không có ai thực sự nghèo đói. Chúng
tôi không có hạng nông nô, mà phải mướn người hầu hay tá điền. Làng chúng tôi
có khoảng một trăm gia đình, mỗi gia đình có một miếng đất riêng, chúng tôi phải
trả một món tiền thuế cho chính phủ Trung Hoa, và viên quan cai trị địa phương
người Trung Hoa tên là Ma Pu Fang.” Nếu như thế này thì Tây Tạng đúng là một
thứ Chủ Nghĩa Xã Hội Bắc Âu theo tinh thần “Lợi hòa đồng quân” của Phật
Giáo.
-Những
món ăn trong nhà
“Bánh
mì là một loại thực phẩm quan trọng của chúng tôi. Chúng tôi cũng làm bánh mì mặn
nhân thịt "timomo'' trong sáu cái xửng hấp đặt chồng lên nhau. Một loại
bánh mì khác là "kansho", được nướng trong lò. Chúng tôi cho cát trắng
khô vô lò lửa rồi đặt củi lên trên cát. Khi cát và củi đã cháy đỏ, chúng tôi
cho bánh mì vào trong lửa. Bánh mì nướng kiểu này thì ngon và không bao giờ
cháy và luôn luôn có màu nâu vàng. Một loại bánh mì nữa là "kuki", được
nướng trong nồi đất. Loại bánh mì này có màu đỏ, vì được cho thêm bột nghệ, mật
mía và hạt walnut (quả hạch).”
-Lấy
chồng
Qua
chương này chúng ta thấy phong tục tập quán của Tây Tạng cũng giống như xã hội
cổ kính Việt Nam những thế kỷ trước. “Những đứa con gái như chúng tôi đã được
dạy rằng tương lai và hy vọng độc nhất của mình là lấy chồng và một đời làm việc
cực nhọc. Thật vậy, chúng tôi đã sống một cuộc đời nặng nhọc, có thể rất nghèo
nàn, không có một sự giải trí hay giúp vui nào. Ngay cả thú vui xem người ta diễn
tuồng chúng tôi cũng không được tham dự trừ khi có cha mẹ đi cùng. Chúng tôi
không bao giờ được đi ra ngoài một mình. Ở những quán trọ bên đường, chúng tôi
không được đụng vào những món ăn, vì tất cả đầu bếp đều là người Hoa, cha tôi
nghĩ rằng thịt ở những nơi đó là thịt lừa. Khi đến tuổi trưởng thành, nếu có
khách tới nhà, chúng tôi phải ở yên trong phòng làm công việc của mình, không
được giao tiếp với những người khách, dù chúng tôi tò mò muốn biết về họ. Nhìn
ngó khách tới nhà bị xem là vô lễ.”
-Bổn
phận làm vợ
Đây
là hình ảnh của bà mẹ chồng Tây Tạng và cái khổ của nàng dâu, “Mẹ chồng tôi
không bao giờ đụng tay làm một việc gì. Bà là người phô trương uy quyền và
không sợ một ai cả. Bà sống theo cảm xúc và ý tưởng bất chợt của mình, bà thích
ăn ngon, mặc đẹp và sống sang trọng. Bà rất sạch sẽ, dù nếu chỉ có một cọng cỏ ở
trong nhà, bà cũng lượm nó liệng đi. Bà cũng nóng tính và đôi khi bạo động….
Trong mấy năm đầu lập gia đình, tôi chỉ được ngủ ba giờ hay bốn giờ mỗi đêm. Mỗi
lần đi xay lúa từ tám đến mười ngày, chúng tôi không ngủ gì được cả. Chúng tôi
sàng bột từ một giờ sáng đến lúc mặt trời mọc, và đó là lúc bắt đầu công việc
trong ngày của chúng tôi. Tôi thường cảm thấy mệt không thể chịu đựng nổi, có
nhiều khi đi lấy phân cho lò sưởi, tôi phải ngồi tạm xuống đâu đó ở bên đường để
tìm một giấc ngủ ngắn. Thỉnh thoảng, quá mệt nhọc, tôi đi tìm một chỗ vắng vẻ để
nhỏ vài giọt nước mắt tủi thân, vì bản thân tôi có tính kiêu hãnh, không bao giờ
khóc trước mặt mọi người. Trong những năm cực khổ đó, tôi không bao giờ kể lể với
bất cứ ai, ngay cả chồng tôi, là mình đang chịu đau khổ.”
-Những
cái tang
Chương
này cho biết lễ nghi, tang chế của xã hội Tây Tạng cũng chẳng khác gì tang chế
Thọ Mai Gia Lễ thời Việt Nam cổ xưa, “Trong gia đình của người quá cố, các
bà các cô không được trang điểm mái tóc với những dải lụa nhiều màu thông thường,
cũng không được gội đầu trong một tuần sau khi người thân qua đời, tóc của
chúng tôi chỉ được cột sơ sài bằng một sợi len trắng. Chúng tôi chỉ được mặc y
phục cũ, và không được đeo một món trang sức nào. Khi cha chồng tôi chết, tấm ở
lưng được bỏ ra, tấm "hari" được đeo như vậy trong suốt thời kỳ để
tang. Khi chồng chết, tấm nhung ở cả hai bên được lấy ra trong ba năm để tang.”
-Sinh
con
Cũng giống như phong tục tập quán theo luân lý Khổng Mạnh, người Tây Tạng trọng
nam, khinh nữ, “Mẹ chồng cho tôi nghỉ làm việc một tuần sau khi sinh đứa con
đầu lòng. Khi tôi sinh mấy đứa con nữa thì bà qua đời, không có ai làm việc
nhà, vì vậy tôi chỉ có thể nghỉ một hay hai ngày rồi cõng con trên lưng để làm
công việc. Bà mẹ chồng nổi giận vì tôi đã sinh con gái chứ không
sinh con trai, và cơn giận của bà đổ xuống đầu chồng tôi. Ông ta an ủi mẹ của
mình bằng cách nói với bà rằng sinh con gái hay con trai đó là số mạng, không
phải muốn là được, nhưng bà vẫn bất mãn. Anh trai của bà, Đại Sư Taktsen
Rinpoche đã qua đời, bà rất muốn tôi sinh con trai để đứa bé có thể là hóa thân
của vị này.”
-Một
vị Tuku ra đời
Trong chương này cụ bà Diki Tsering cho biết trong trường hợp nào con trai của
cụ được công nhận là Lạt Ma tái sinh, “Khi ông anh chổng tôi đến gần
Tsongkha, các tăng sĩ ở tu viện Kumbum đến tiếp đón ông và ông hỏi họ về vị hóa
thân mới. Họ nói rằng đứa trẻ đó đã chết rồi. Lúc bấy giờ ông mới thấy sự minh
triết của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Rồi ông hỏi đứa con của tôi đã ra đời chưa và ông
vui mừng khi họ cho biết là tôi đã sinh con trai. Ông nghĩ rằng chắc chắn con
trai tôi là hóa thân của Taktsa Rinpoche. Năm đó tôi được 21 tuổi khi sinh con
trai Norbu vào năm con chó (Nhâm Tuất 1922). Một vị lạt ma đặt tên cho con trai
tôi là Tashi Tsering, nhưng sau đó được đặt tên theo tên của một vị tu sĩ là
Thubten Norbu, nên được gọi là Thubten Jigme Norbu.
Năm
sau đoàn đại biểu trở lại Lhasa để yết kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma một lần nữa,
ngài đưa cho họ một bức thư được niêm phong và bảo họ chuyển bức thư của ngài
cho tôi, nói rằng con trai của tôi, Tashi Tsering được chọn là Taktsen Rinpoche
kế tiếp. Đã có 16 ứng viên cho vị trí này, tất cả đều sinh cùng năm con chó. Những
đứa trẻ này là con của những gia đình mà tôi quen biết, một số là họ hàng, một
số là bạn bè. Tất cả những gia đình của các ứng viên đều được mời đến nhà chúng
tôi để nghe lời phán quyết chính thức.”
-Biển
Trí Tuệ
Chúng ta không hiểu tại
sao khi một bậc vĩ nhân ra đời các bà mẹ thường có những giấc mộng lạ, chẳng hạn
như Hoàng Hậu Ma Gia nằm mơ thấy con voi trắng sáu ngà đâm vào hông và bà thụ
thai, sinh Thái Tử Tất Đạt Đa. Ở đây cụ bà Tashi Tsering cũng có giấc mơ lạ trước
khi sinh ra Đức Đạt Lai Lạt Ma. Cụ kể rằng, “Một hôm ngài (Dalai Lama) nói với
chúng tôi rằng ngài là người từ trên trời xuống. Lúc đó tôi nhớ đã có một điềm
báo kỳ lạ, đó là một tháng trước khi sinh ngài, tôi nằm mộng thấy có hai con sư
tử tuyết màu lục và một con rồng màu xanh bay ở trên không, chúng cười với tôi
và chào tôi theo kiểu Tây Tạng truyền thống: hai bàn tay đưa lên trán. Về sau
tôi được biết rằng con rồng là Đức Đạt Lai Lạt Ma và hai con sư tử tuyết là vị
tiên tri Nechung (vị tiên tri của quốc gia Tây Tạng) hướng dẫn Đức Đạt Lai Lạt
Ma về nơi tái sinh. Qua giấc mộng này, tôi biết rằng đứa con của mình sẽ là hóa
thân của một vị lạt ma cao cấp nào đó, nhưng tôi đã không dám mơ tưởng rằng con
của mình sẽ là Đức Đạt Lai Lạt Ma.” Và đây là thiên tư của cậu bé Dalai
Lama lúc còn nhỏ, “Ngay từ lúc đầu đứa con này đã khác với những đứa con của
tôi. Ngài là một đứa trẻ trầm tư, thích ở một mình trong nhà, ngài luôn gói
ghém quần áo và những vật dụng nhỏ của mình, khi tôi hỏi ngài đang làm gì vậy,
ngài nói rằng đang chuẩn bị để đi Lhasa và sẽ đưa tất cả chúng tôi đi cùng. Khi
chúng tôi đi thăm họ hàng hay bạn bè, ngài không bao giờ uống trà trong một cái
chén nào khác ngoài cái chén trà của tôi, ngài không bao giờ để cho ai ngoài
tôi đụng vào những cái mền của mình, và ngài không bao giờ để chúng ở một nơi
nào khác mà chỉ để ở cạnh mền của tôi. Nếu gặp một người gây sự, ngài sẽ lượm một
cái que và đánh người đó. Nếu có người khách nào của chúng tôi châm thuốc lá,
ngài sẽ nổi giận. Bạn bè nói với chúng tôi rằng vì một lý do nào đó không rõ, họ
sợ ngài dù ngài còn nhỏ tuổi. Tất cả những điều này diễn ra lúc ngài mới hơn một
tuổi và chưa biết nói nhiều.”
-Mẹ
Từ Bi- một chuyến đi
Chuyến đi tới Lhasa kéo dài mấy tháng trời, vượt qua những vùng trộm cướp, đồng
có độc tới nỗi ngựa ăn sẽ ngã bệnh chết. Và đây là nghi thức tiếp đón một vị Lạt
Ma, “Đức Đạt Lai Lạt Ma đi cùng với anh Lobsang Samten, sáu tuổi, trong một
chiếc kiệu do ngựa kéo. Tôi ngồi ở một cái kiệu riêng được bốn con la kéo. Những
chiếc kiệu được thêu rất đẹp, với những cửa sổ nhỏ có lưới sắt tréo nhau. Kiệu
của Đức Đạt Lai Lạt Ma được làm bằng gấm vàng, còn kiệu của tôi làm bằng vải
bông màu lục. Lúc đó Gyalo Thondup được mười một tuổi. Dù tôi hết sức bảo cậu
đi kiệu với tôi, cậu ta vẫn cưỡi ngựa. Cậu ta thừa hưởng tính thích cưỡi ngựa từ
cha của cậu. Không nói cho tôi biết, cậu ta đã đi cùng với mấy người giữ lều từ
sáng sớm.”
-Đến
Lhasa
Nghi thức tiếp đón một Lạt Ma còn cung kính và trang nghiêm hơn đón một ông
vua, “Tôi đã để lại cái kiệu của mình ở Reting, và bây giờ tôi cưỡi ngựa. Đức
Đạt Lai Lạt Ma được cung thỉnh đi trên một cái kiệu mạ vàng cầu kỳ hơn cái kiệu
trước, và được tám người khiêng trên vai. Khi chúng tôi tiến vào Lhasa, những
đám đông tràn ngập khắp đường phố chào đón chúng tôi. Có nhiều người đến nỗi
chúng tôi khó mà tiến đến phía trước. Nhưng mọi người hoàn toàn im lặng, chắp
tay và cúi đầu tôn kính Đức Đạt Lai Lạt Ma của mình. Nhiều người khóc vì vui mừng.
Tôi cũng gần rơi nước mắt. Tôi, một người đàn bà nông thôn, bây giờ được đưa
lên địa vị cao nhất trong xã hội mà một người mẹ có thể đạt tới.”
-Một
đời sống mới bắt đầu
Trong chương này cụ
bà mô tả về cung điện Potala, “Năm tháng sau khi chúng tôi đến Lhasa,
Đức Đạt Lai Lạt Ma chuyển tới cung điện Potala. Đây là một kiến trúc trông thật
to lớn, nhất là vì cung điện này được xây dựng trên một quả đồi. Lúc đầu tôi đã
sững sờ khi nhìn thấy Potala. Tôi mất hai mươi phút để đi lên những bậc đá tới
tầng trên cùng của mười ba tầng. Dường như có vô số những món trang trí bằng
vàng, bạc và những bức tranh "thangka" treo đầy trên tường những căn
phòng. Đây là một viện bảo tàng mà sự vĩ đại của nó tôi sẽ không bao giờ được
nhìn thấy lại.” Và Dalai Lama cũng phải trải qua những cuộc thi sát hạch về
giáo lý, “Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma được mười một hay mười hai tuổi, ngài dự những
kỳ thi về giáo lý Phật học đầu tiên của mình ở Drepung. Tôi đã ở đó mười ngày với
ngài. Vì phụ nữ không được ở trong những tòa nhà chính của tu viện, nên tôi ngụ
ở một nhà khách trong khuôn viên gia đình tôi. Mấy ngàn người chứng kiến cuộc
thi của ngài. Những kỳ thi tương tự cũng được các học giả của Sera và rồi
Ganden tổ chức. Là một người mẹ, tôi chỉ lo Đức Đạt Lai Lạt Ma không làm tốt
khi trả lời những câu hỏi của các vị học giả hàng đầu, nhưng nỗi lo của tôi dường
như vô ích, vì ngài luôn luôn làm tốt như được mong đợi.”
-Những
tục lệ lạ
Dù là một dân tộc thấm nhuần giáo lý của Đức Phật đến tận xương tủy, nhưng ở Thủ
Đô Lhasa vẫn hiện diện một giai cấp quý tộc, sống đời kiểu cách, khinh rẻ kẻ bần
hàn, phấn son lòe loẹt, ăn bận diêm dúa. Điều này dạy chúng ta rằng, dù một đất
nước 100% là Phật Giáo cũng cần có những bài học về đạo đức, công dân giáo dục
và xây dựng một tinh thần bình đẳng xã hội. “Lhasa là một xã hội kiểu cách,
và chắc chắn tôi có vẻ hơi lạc hậu đối với họ. Các bà vợ của các nhà quý tộc và
các viên chức có đầu óc thời trang, và có vẻ cố gắng ăn mặc sang trọng hơn người
khác. Hồi mới tới đây, tôi đã sững sờ khi thấy họ mặc quá đẹp với những món
trang sức rực rỡ. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là sự trang điểm của họ.
Trước đó tôi chưa bao giờ thấy đàn bà tô son đánh phấn. Tôi đã tưởng là mấy cô
đào hát tuồng, và tôi rất ngạc nhiên khi được biết họ không phải là đào hát gì
cả. Họ trông giống như búp bê. Tôi nghĩ trang điểm như vậy là giả tạo.”
-Lễ
hội Tết ở Lhasa
Đây là Tết của Tây Tạng, “Buổi lễ (Tết Losar) bắt đầu với mọi người hiện diện
ở đó đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma, theo thứ tự đẳng cấp: viên chức chính phủ,
nhân viên tòa Công Sứ Anh Quốc, các đại biểu Hồi Giáo và Trung Hoa. Mỗi người
dâng lên Đức Đạt Lai Lạt Ma một cái khăn lễ, và ngài ban lời chúc phúc, tất cả
kéo dài từ hai tới ba tiếng đồng hồ. Trong cuộc lễ chúng tôi được tiếp đủ loại
món ăn, lần lượt từng món một: trà Tây Tạng, bột "tsampa" với thịt,
bánh "domadesi" với sữa chua. "Tsampa" mềm và ngon, trà được
làm bằng lá trà tươi và loại bơ ngon nhất.”
-Một
cuộc biến động chính trị
Trong
Xứ Phật không phải không có tranh chấp quyền lực. Lãnh đạo một đất nước Phật
Giáo vẫn phải có nghệ thuật cai trị chứ không phải chỉ là ăn chay, tụng kinh,
niệm Phật. Cụ bà mô tả biến động chính trị đó như sau, “Trong khoảng thời
gian này, ngoài sự thanh toán đẫm máu để tranh quyền Nhiếp Chính, có lời đồn Đức
Đạt Lai Lạt Ma không phải là vị Đạt Lai Lạt Ma thật, và đã có sự lầm lẫn trong
việc chọn vị Đạt Lai Lạt Ma. Người ta nói rằng Ditru Rinpoche mới là vị Đạt Lai
Lạt Ma thật. Ditru Rinpoche là con của một thân nhân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
mười ba. Cuối cùng mọi người quyết định để hai cái tên vào trong một cái bình,
rồi đặt ở trước hình Tổ Sư Tống Khách Ba (Je Tsongkhapa, 1357-1419, là vị
Tổ sư của phái Hoàng Mạo và định lập chế độ chuyển thế tái sanh của Đạt Lai Lạt
Ma), rồi lắc cái bình cho một cái tên rơi ra ngoài ba lần, và thế là nhiếp
chính Taktra và Hội Đồng Kashag không thể nói gì cho mình được nữa. Lúc đó Đức
Đạt Lai Lạt Ma mới mười bốn tuổi.”
-Chính
quyền Trung Quốc xâm chiếm
Người
Trung Hoa cai trị Tây Tạng giống như Pháp cai trị Việt Nam bằng viên Toàn Quyền
ở đây gọi là Tổng Trấn. Thế nhưng chính quyền Hoa Lục luôn luôn tìm cách tiêu diệt
dân tộc nhỏ bé này. “Người Trung Hoa lấn chiếm tỉnh Tsongkha vào năm
1950. Dân Lhasa hốt hoảng với những tin đồn quân lính Trung Hoa đang chuẩn bị tấn
công chúng tôi qua Chamdo, là nơi sắp rơi vào tay họ. Đức Đạt Lai Lạt Ma rời
Lhasa và dựng trại ở Dromo (còn gọi là Yatung). Trước khi chúng tôi đi Dromo,
các đại biểu của Cộng Sản Trung Hoa đã tới đóng ở Lhasa với máy truyền tin vô
tuyến điện của họ. Đức Đạt Lai Lạt Ma, các viên chức, các nhà quý tộc và gia
đình tôi rời đi Dromo cùng với nhau. Đầu năm 1951, Hội Đồng Bộ Trưởng Kashag
khuyến cáo rằng vì sự an toàn của ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma hãy thành lập chính
phủ lâm thời ở Dromo, một thị trấn nhỏ ở cách biên giới Ấn Độ và Sikkim khoảng
bốn mươi cây số. Ở ngay bên kia biên giới là những khu định cư của người Tây Tạng
ở Kalingpong và Darjeeling, Ấn Độ. Tám tháng sau, Đức Đạt Lai Lạt Ma quyết định
trở về Lhasa, vì ngài không muốn ở xa những người dân của mình quá lâu. Đầu năm
1951, Hội Đồng Bộ Trưởng Kashag khuyến cáo rằng vì sự an toàn của ngài, Đức Đạt
Lai Lạt Ma hãy thành lập chính phủ lâm thời ở Dromo, một thị trấn nhỏ ở cách
biên giới Ấn Độ và Sikkim khoảng bốn mươi cây số. Ở ngay bên kia biên giới là
những khu định cư của người Tây Tạng ở Kalingpong và Darjeeling, Ấn Độ. Trước
khi ngài chỉ định hai thủ tướng ở Lhasa, dành cho họ trọn quyền điều hành chính
phủ và bảo họ chỉ hỏi ý kiến của ngài về "những vấn đề quan trọng nhất".
Ngài dự định trở về Lhasa ngay khi đạt được thỏa thuận với người Trung Hoa.”
-Đi
thăm Trung Quốc
Cuộc hành trình này do chính quyền Trung Hoa đài thọ. “Khi Đức Đạt Lai Lạt
Ma và Đức Ban Thiền Lạt Ma có cuộc gặp đầu tiên với Mao Trạch Đông (Mao Tse
Tung) thì tôi cũng tham dự. Mao Trạch Đông có một ngôi nhà giữa cái hồ. Tôi thấy
ông ta không gây được ấn tượng gì cả. Hình như cổ họng ông ta có vấn đề gì đó,
vì cứ nói được vài câu ông ta lại phải thông cổ họng. Tôi ngạc nhiên vì ngôi
nhà của ông giống một cái nhà Nga hơn là nhà Trung Hoa. Tất cả những món trang
trí và đồ đạc đều có nguồn gốc Nga. Chu Ân Lai thì lại có vẻ là một chính khách
hơn Mao, ăn nói khôn khéo và là một nhà ngoại giao tinh tế. Bà Tống, vợ của bộ
trưởng ngoại giao Trung Quốc, gây ấn tượng nhiều cho tôi. Bà ta đã sáu mươi tuổi
nhưng trên mặt không có một nếp nhăn nào. Tôi cũng gặp bí thư Khrushcher của Liên
Xô trong khoảng thời gian này.”
Và
đây là cảnh nghèo đói dưới thời Mao Trạch Đông, “Cảnh nghèo ở nông thôn
Trung Quốc làm cho tôi phải chú ý. Không bao giờ chúng tôi được đưa đi thăm những
vùng nghèo nàn, nhưng có khi điều này không thể tránh được. Người dân sống
trong những nhà tranh nhỏ, không có đồ đạc gì cả. Có những lần, khi chúng tôi
ra khỏi chiếc xe hơi, những người dân quê này chìa tay ra xin tiền. Tôi cũng
kín đáo đặt vào tay họ một chút tiền, và họ lặng lẽ xin tôi đừng nói một tiếng
nào, nếu không họ sẽ bị phạt nặng. Một nông dân nói với tôi rằng, nếu chính quyền
biết người đó xin tiền, người đó sẽ bị giết ngay chúng tôi thấy những quan tài
trống rỗng nằm rải rác dọc đường, những người nghèo đã đào trộm mộ của những
cái quan tài này. Vì nông dân không có trâu bò hay ngựa nên họ phải tự kéo cày.”
-Phật
Lịch 2500
Sau
chuyến công du Ấn Độ, gặp gỡ Thủ Tướng Nehru, cụ bà trở về và tình hình Tây Tạng
lúc đó như sau, “Khi chúng tôi trở về Tây Tạng thì người Trung Quốc đã trở
nên rất mạnh. Họ đã ra lệnh đưa các con trai của tôi về. Tôi lo lắng đến mức
không ăn ngủ được. Con rể và con gái của tôi phải tham dự những cuộc họp tuyên
truyền của chính quyền Trung Quốc, khuân vác đá để làm đường và cày ruộng. Người
Trung Quốc lấy của chúng tôi bất cứ cái gì họ muốn, và họ còn bắt đầu đốn cây của
chúng tôi. Tất cả các nhà quý tộc phải lao động chân tay, kể cả bà Ragashar. Bà
thường nói với tôi rằng bà sẽ không chịu đi lao động, dù có phải trả giá bằng
cái chết. Nhưng sau đó bà bị cưỡng bách lao động như một phần công việc của hội
phụ nữ.”
-Đào
thoát
“Chúng
tôi vượt qua sông Tsangpo bằng những chiếc xuồng làm bằng da thú và đợi chờ
đoàn của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở bên kia. Ngựa của chúng tôi đã có sẵn ở đó. Chúng
tôi có tất cả một trăm người, và tiếng vó ngựa chạy trên sạn nghe như tiếng sấm.
Tôi cầu nguyện và bảo mọi người gây tiếng động càng ít càng tốt. Thật là một
phép lạ khi người Trung Quốc không nghe thấy những con ngựa chạy trên đường.
Sau
khi đi xa khỏi sông Tsangpo, chúng tôi sợ người Trung Quốc đã biết về cuộc chạy
trốn nên chúng tôi cho ngựa chạy nhanh. Nhưng cho tới ngày hai mươi ba người
Trung Quốc mới biết, tức là ba ngày sau khi chúng tôi trốn khỏi cung điện
Norbulingka. Họ đã pháo kích vào Norbulingka trong ngày hôm đó, và chỉ khi họ
tiến vào tòa nhà, nhìn quanh họ mới biết là Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đi rồi. Họ đi
tìm ngài ở Chensaslinka, rồi ở Chomolungo và Drepung. Máu đã đổ nhiều ở Lhasa
sau khi chúng tôi chạy trốn. Một trong những người giúp việc cho chúng tôi đã
trốn đi sau chúng tôi, nói với tôi rằng khi rời khỏi Lhasa ông ta thấy như mình
đang đi trên một cánh đồng có những trái đậu khô. Đó là những vỏ đạn nằm rải
rác suốt mấy dặm đường.”
-Tị
nạn ở Ấn Độ
Nếu không có Ấn Độ chắc chắn dân tộc Tây Tạng đã bị hủy diệt mà không có đường
trốn chạy. “Có một cuộc đón rước long trọng ở Tawang, ngay bên kia biên giới
Tây Tạng và Ấn Độ, nơi các viên chức Ấn Độ đến gặp chúng tôi. Không có người
nào ở Ấn Độ biết là chúng tôi đã trốn khỏi Lhasa, trừ con trai tôi, Gyalo
Thondup, vì cậu ta đã liên lạc với các chiến sĩ Khampa. Ở Tawang, một viên chức
Ấn Độ biết nói một chút tiếng Hoa cứ nói "hang hao" (rất tốt) mỗi lần
tôi cho ông ta bánh mì mà tôi đã nướng. Sau ba ngày ở Tawang, chúng tôi đi
Bomdila, rồi đi Tezpur, nơi chúng tôi được Gyalo Thondup và các viên chức chính
phủ chào đón, kể cả Thủ Tướng Nehru. Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết pháp ở đó. Rồi
chúng tôi đi Siliguri, nơi nhiều người Tây Tạng chào đón chúng tôi. Khi gặp con
gái Jetsun Pema và các cháu, tôi không thể nói được gì cả, mà chỉ rơi nước mắt.”
-Lời
cuối sách
Đây
là lời của tác giả và cũng là cháu nội bà cụ, “Khi mẹ của ngài mãn phần, Đức
Đạt Lai Lạt Ma đã báo tin này cho hội chúng đang tham dự tu học ở Bồ Đề Đạo
Tràng. Ngài nói về cuộc đời đức hạnh của bà, và số lần niệm chuỗi thần chú
"Om Mami Pademe Hum" (Án Ma Ni Bát Di Hồng) của bà trong những năm cuối
đời. Ngài nói là ngài không buồn, vì tin rằng bà sẽ có một sự tái sinh hoàn hảo.
Tôi biết chắc là bà đã trở lại với chúng ta lúc này, mang lại niềm vui cho mọi
người xung quanh với tinh thần bất khuất của bà.”
Kết
Luận:
Đây là một cuốn sách cảm động, có giá trị mà chúng ta cần có, không phải chỉ biết
về thời tấm bé của Đức Đạt Lai Lạt Ma - mà còn về văn hóa, đời sống của dân Tây
Tạng - một dân tộc hiền lành - có thể nhất hành tinh này, nhưng chưa biết tới
ngày nào mới có được một nền tự trị để được sống hiền hòa trong giáo lý của Đức
Phật. Xin cám ơn Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng.
Quý
vị nào muốn có sách xin liên lạc:
Tu Viện Quảng Đức
105 Lynch Road,
Fawkner
Vic. 3060 Australia
Địa chỉ gửi điện
thư: quangduc@quangduc.com
Đào
Văn Bình
(California
ngày 19/1/2018)
No comments:
Post a Comment