Nhân Trần
29/10/2018
Thông tin Giáo sư Chu Hảo bị kỷ luật đang gây xôn
xao trong cộng đồng trí thức Việt Nam. Tại sao GS. Chu Hảo bị kỷ luật? Việc kỷ
luật này nói lên thực trạng gì về nhận thức, tri thức và lý luận của nhà cầm
quyền? Kéo theo đó là một cuộc tranh luận về thế nào là trí thức? Trí thức kiểu
Nguyễn Phú Trọng hay trí thức kiểu Chu Hảo?
Ngày 23/10/2018, Nguyễn Phú Trọng – đương kim Tổng
Bí thư đảng cộng sản Việt Nam lên nắm quyền Chủ tịch nước thay thế Trần Đại
Quang vừa mới qua đời (Lưu ý: cả hai vị Chủ tịch nước này đều mang học hàm, học
vị Giáo sư-Tiến sĩ). Chỉ hai hôm sau khi lên ngôi, thông tin về việc kỷ luật
GS. Chu Hảo – nguyên thứ trưởng bộ Khoa học công nghệ, giám đốc nhà xuất bản
Tri Thức được Ban kiểm tra trung ương đưa ra, làm chấn động cộng đồng mạng Việt
Nam.
Trước
hết, tôi muốn nói đến việc tại sao GS. Chu Hảo bị
đề nghị kỷ luật?
Đọc miết các trang báo được coi là chính thống tại
Việt Nam, tôi chỉ thấy có báo Dân Trí (ngày 25/10) trích đoạn nguyên văn câu của
Ủy ban kiểm tra TƯ “kết tội” giáo sư Chu Hảo: “Ông Chu Hảo đã suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vi phạm,
khuyết điểm của ông Chu Hảo là rất nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ
chức đảng, tác động xấu tới tư tưởng xã hội, đến mức phải xem xét, thi hành kỷ
luật”.
Như vậy, GS. Chu Hảo có thể bị kỷ luật vì những
nguyên nhân sau: 1) Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; 2) “Tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Và hệ quả là: 1) Làm ảnh hưởng đến tổ chức đảng
và; 2) tác động xấu tới tư tưởng xã hội.
Thế nào là “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống”? Trên trang mạng của UBKTTW có dẫn “Từ việc chạy chức, chạy
quyền, bổ nhiệm thần tốc, cả nhà làm quan; bao che, dung túng cho sai phạm,
khuyết điểm, dẫn đến hệ lụy lợi ích nhóm, tham ô, tham nhũng, cán bộ lạm quyền,
trình độ năng lực kém, vi phạm các quy định, quy chế làm việc; thậm chí là vi
phạm pháp luật. Nhiều vụ việc diễn ra trong thời gian qua ở các tỉnh, thành, cơ
quan, đơn vị đã thể hiện điều này và là một trong những biểu hiện điển hình của
sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống”. Như thế đã rõ, tôi
không thấy GS.Chu Hảo mắc phải một lỗi nào trong các lỗi kể trên của UBKTTW.
Thay vào đó trong đầu tôi chỉ nghĩ đến: Triệu Tài Vinh, Nguyễn Nhân Chiến, Trịnh
Văn Chiến, Lê Thanh Hải, Tất Thành Cang, Phạm Sĩ Quý…
Còn về “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”? Trên
Tạp chí Cộng sản cũng có nêu “chúng ta có thể hiểu “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” về tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là quá trình tự thay đổi
tư duy, nhận thức của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, từ đúng
thành sai, từ tin tưởng đến hoài nghi, phủ định tính khoa học, tính đúng đắn của
chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước để chuyển sang sùng bái, tin theo các luận điểm tư sản,
sai trái, phản động”.
Như vậy, họ tự khẳng định chủ nghĩa Mác – Lê nin là
đúng đắn, là khoa học trong khi cả nhân loại đã xếp xó, bài trừ gần ba chục năm
trước. Bên cạnh đó họ còn bắt các đảng viên phải “sùng bái” tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của đảng. Ai đi ngược lại, họ cho là
sai trái, phản động. Tôi có thể chắc nịch rằng đến ngay cả ông (nguyên) trưởng
ban lý luận Trung ương chưa chắc đã đọc hết Mác – Lê nin chứ đừng nói bắt đảng
viên của ông tin theo. Những câu nói vừa rồi hoàn toàn mang tính chất cảnh cáo,
đe dọa chứ không có ý nghĩa gì về mặt lý luận.
Thứ
hai, việc kỷ luật này nói lên thực trạng gì về nhận thức, tri thức và lý luận của
nhà cầm quyền?
Từ hai trích dẫn của UBKTTW và TCCS bên trên chúng
ta có thể hiểu cơ bản về tri thức và lý luận của nhà cầm quyền như sau:
1) Họ đã nhận thức được một bộ phận không nhỏ cán bộ
đảng viên của họ có biểu hiện tham nhũng, sai phạm, phạm pháp, lạm quyền, năng
lực kém, suy thoái về đạo đức, lối sống. Đó là vấn đề nan giải mà họ chưa giải
quyết được. Tuy nhiên, thực tế họ cố tình bao che, dung dưỡng cho những cán bộ
lãnh đạo vi phạm bởi họ còn có thể sử dụng được hoặc các vị đó nằm trong những
phe nhóm chưa thể “nhổ cỏ” được.
2) Các câu từ lý luận diễn đạt (đoạn 2) phần lớn
chung chung, hình thức, chủ yếu liệt kê các nhóm từ thiếu ý nghĩa: “tự thay
đổi tư duy, nhận thức”, “từ đúng thành sai, từ tin tưởng đến hoài
nghi, phủ định tính khoa học…”. Chỉ cần đặt ngược lại một câu hỏi: thế
nào là tự thay đổi tư duy, nhận thức? Thế nào là đúng, thế nào là sai? Thế nào
là tin tưởng, hoài nghi? Thế nào là tính khoa học? Thế nào là phản động?
Nếu đi đến tận cùng lý luận chúng ta sẽ thấy rõ một
mớ khái niệm không có nội hàm và ngoại diên. Những khái niệm này phần lớn được
đưa vào trong các khẩu hiệu phê bình, từ ngữ có ý nghĩa phán xét, quy chụp, đe
dọa chứ ít khi được giải thích tường tận. Thậm chí người viết chúng còn không
hiểu nội dung của nó là gì ngoài một ám thị nhất quán: ĐẢNG LUÔN LUÔN
ĐÚNG. (Điều 1: Đảng luôn luôn đúng. Điều 2: Nếu hoài nghi, hãy xem lại điều
1).
*
*
Nhân Trần
30-10-2018
Thứ
ba, từ việc GS.Chu Hảo bị kỷ luật, chúng ta hãy xem thế nào là người trí
thức?
Cuộc tranh luận “thế nào là người trí thức?” diễn ra cách nay hơn 6
năm, với sự vào cuộc của hàng loạt các học giả có tên tuổi xung quanh một đề
tài “người trí thức và trách nhiệm xã hội của người trí thức”. Mở đầu cuộc
tranh luận là quan điểm của giáo sư Ngô Bảo Châu:
“Tôi không đồng ý với việc coi phản biện xã hội
như chỉ tiêu để được phong hàm ‘trí thức’. Đến bao giờ chúng ta mới thôi thi
đua để được phong hàm “trí thức”? Đối với tôi, trí thức là người
lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá
trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của
trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai
trò phản biện xã hội. Mặt khác, cần trân trọng những người trí thức,
hoặc không trí thức, tham gia công tác phản biện xã hội. Không có phản biện, xã
hội đã chết lâm sàng…”. (Báo Thanh Niên, ngày 27-1-2012)
Trên báo Dân Trí đưa ra một loạt quan điểm khác nhau của những học giả nổi tiếng, tôi xin được trích dẫn tại đây:
“Theo Từ điển Tiếng Việt của GS Nguyễn Lân, “trí thức” là
người lao động trí óc (trí là hiểu biết, thức là biết). GS Nguyễn Huệ
Chi cho rằng “Đã là trí thức thì phải là người có tầm, có trách nhiệm và
nghĩa vụ xã hội”. Theo TS Giản Tư Trung: “Trí thức là những người có sự
hiểu biết và biết thức tỉnh xã hội”. GS Cao Huy Thuần cũng có ý kiến tương
tự: “Người trí thức là người không để cho xã hội ngủ”. GS Nguyễn Văn Tuấn
thì cho rằng trí thức thật là những người “Đau đáu với vận mệnh đất nước quê
hương và sẵn sàng dấn thân…” (Dân Trí, ngày 6-2-2012)
Theo cựu Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình thì, “trí
thức phải là người luôn giữ được phẩm tiết”. Nhà báo Phan Quang cũng cho rằng
“trí thức đích thực thì không bao giờ hèn”. Nhà báo Hữu Thọ cụ thể hơn
khi ông cho rằng là trí thức thì phải có ba đặc điểm: “Một là có học vấn cao
(học vấn chứ không phải bằng cấp). Hai, nhân cách phải tiêu biểu, nêu gương tốt
cho xã hội. Ba là khí tiết bảo vệ chân lý, lẽ phải. Nếu thiếu một trong ba đặc
điểm đó thì dù thế nào chăng nữa cũng không thể gọi là trí thức”.
Cố GS Phạm Song khá quyết liệt: “Không có khí tiết,
không là trí thức. Không dám nói lên sự thật, không phải là trí thức. Không
trung thực, không phải là trí thức. Không dám bảo vệ chân lý, không phải là trí
thức”. TS. Chu Hảo cho rằng “Người được coi (hay tự coi) mình là trí thức,
ngoài yêu cầu phải đạt tới một trình độ tri thức nhất định, người đó còn phải
là người quan tâm đến những vấn đề chính trị xã hội nóng bỏng và phải có chính
kiến trước các vấn đề đó. Đặc biệt, trí thức phải là người có năng lực phê phán
và hướng dẫn dư luận”.
Tác giả Paul Alexandre Baran một nhà kinh tế
học người Mỹ theo chủ nghĩa Marx. Trong tiểu luận The Commitment
of the Intellectual (Sự Dấn thân của Người Trí thức), đăng
trên nguyệt san Monthly Rewiew tháng 5 năm 1961. Ông khẳng
định, người trí thức trước hết được tạo ra từ phân công lao động xã hội: “Họ
làm việc với óc não nhiều hơn là bắp thịt, và sinh sống bằng trí tuệ hơn là bàn
tay. Hãy gọi họ là người lao động trí thức. Đó là những nhà kinh
doanh, y sĩ, quản đốc xí nghiệp, người phổ biến ‘văn hoá’, nhân viên chứng khoán
và giáo sư đại học… sự tách rời hoạt động trí óc khỏi hoạt động tay
chân, ‘dân thầy’ khỏi ‘dân thợ’.”
Như thế vẫn chỉ coi họ là người lao động trí thức giống
như cách phát biểu của GS Ngô Bảo Châu chứ chưa thể gọi họ là người trí thức.
Paul Alexandre Baran cho rằng, để biến một người lao động trí thức thành người
trí thức là phải xem xét thái độ của anh ta với những vấn đề đặt ra bởi toàn
bộ quá trình lịch sử: “Sự quan tâm của anh ta đối với toàn bộ quá
trình lịch sử không phải là một thái độ hời hợt ngoài mặt, nó ăn sâu vào tâm
trí anh, và chi phối công việc anh ta làm”. Và ông kết luận rằng: “Sự
phi thiêng hoá các ‘giá trị’, ‘phán đoán đạo đức’ và những thứ tương tự, sự nhận
diện các nguyên nhân xã hội, kinh tế và tâm lý đã khiến chúng xuất hiện, tiến
hoá và biến mất, cũng như sự lột trần loại quyền lợi đặc thù mà chúng phục vụ ở
từng thời kỳ lịch sử nhất định… chính là đóng góp riêng lớn nhất mà người trí
thức có thể mang đến cho sự tiến bộ của loài người”.
Về trách nhiệm của người trí thức với xã hội. Paul
Alexandre Baran đưa ra hai điều kiện: 1) Làm người trí thức phải khao khát nói
lên sự thật. 2) Điều kiện khác nữa là phải can đảm, phải sẵn sàng suy nghĩ đến
cùng, sẵn sàng “phê phán không xót thương tất cả những gì hiện hữu,
không xót thương theo nghĩa là sự phê phán đó sẽ không lùi bước trước những kết
luận của chính nó, và theo nghĩa là nó cũng không sợ đụng chạm với bất cứ thứ
quyền lực đương tồn nào” (trích lời của K. Marx).
“Như vậy, người trí thức tự bản chất là kẻ phê
phán xã hội, người mà ưu tư là nhận diện, phân tích sự vật, và bằng cách đó,
góp phần vượt qua mọi trở ngại ngăn cản sự vươn tới một trật tự xã hội tốt đẹp,
nhân đạo và hợp lý hơn. Do đó, anh ta trở thành lương tri của xã hội và là phát
ngôn nhân của những lực lượng tiến bộ mà trong bất kỳ thời kỳ lịch sử nào xã hội
cũng có. Tất nhiên là anh ta sẽ bị giai cấp lãnh đạo, luôn luôn tìm cách duy
trì hiện trạng, xem như phần tử gây rối, phá hoại, và anh ta cũng sẽ bị ngay
chính những người lao động trí thức làm thuê cho họ cáo buộc như kẻ không tưởng,
hoặc – trong trường hợp tử tế nhất – nhà siêu hình học, và – trong trường hợp tồi
tệ nhất – tên phiến loạn...
Người ta nói rằng, đối với tôi, làm trí thức đồng
nghĩa với làm anh hùng. Người ta cũng có thể cho rằng nhân danh tiến bộ của
nhân loại để đòi hỏi con người phải chịu đựng tất cả mọi áp lực của bao kẻ cố
bám víu lấy quyền lợi đã chiếm hữu được, phải đương đầu với mọi hiểm nguy đang
đe dọa hạnh phúc cá nhân của mình là điều không hợp lý. Tôi nhìn nhận rằng yêu
sách điều đó quả là quá đáng. Cho nên tôi sẽ không làm thế. Nhưng lịch sử
cho chúng ta thấy rằng, ngay trong các thời kỳ đen tối nhất và trong những điều
kiện gian nan, thử thách nhất, nhiều cá nhân đã biết vượt lên trên quyền lợi
riêng tư ích kỷ của mình để đặt chúng dưới quyền lợi của toàn thể xã hội. Ðiều
đó luôn luôn đòi hỏi rất nhiều can đảm, trong sạch và năng lực. Tất cả những gì
chúng ta có thể hy vọng hiện nay là đất nước chúng ta cũng sẽ sản xuất được đủ
số người, nam cũng như nữ, biết bảo vệ danh dự của người trí thức, chống lại sự
cuồng nộ của những quyền lợi hiện đang ở vào địa vị thống trị, và những cuộc tấn
công dồn dập của chủ nghĩa bất khả tri, chủ nghĩa ngu dân và tính phi nhân”. (Paul Alexandre Baran)
Như
vậy, các học giả khả kính của chúng ta đều cho rằng những phẩm chất của người
trí thức cần phải có đó là:
–
Là người lao động trí thức
–
Khao khát tìm kiếm tri thức
–
Dám nói lên thực trạng xã hội
–
Dấn thân, làm thức tỉnh xã hội
Lý luận của các Giáo sư Chu Hảo, Nguyên Ngọc, Mạc
Văn Trang, Nguyễn Huệ Chi, Cao Huy Thuần, Phạm Song, Nguyễn Văn Tuấn, Giản Tư
Trung… hoàn toàn phù hợp với việc đánh giá một người có phải là trí thức hay
không. Chỉ cần nhìn vào sự dấn thân của họ trong việc phản ánh hiện thực xã hội
là biết đâu là người trí thức, đâu là người lao động trí thức.
*
*
Nhân Trần
31/10/2018
Thứ tư,
Trí thức kiểu Nguyễn Phú Trọng và trí thức kiểu Chu Hảo?
Chu Hảo hơn Nguyễn Phú Trọng 4 tuổi. Cả hai đều thuộc
thế hệ “hạt giống đỏ”, được đào tạo tại Liên Bang Xô viết những năm 60-70. Chu
Hảo học đại học bách khoa Kiev (1960) rồi làm việc tại Viện năng lượng nguyên tử.
Năm 1979, Chu Hảo bảo vệ tiến sĩ tại Pháp sau đó về giảng dạy tại Đại học Bách
Khoa Hà Nội. Nguyễn Phú Trọng học lịch sử tại viện Khoa học xã hội Liên Xô
(1981) bảo vệ tiến sĩ năm 1983 sau đó về làm việc cho tạp chí Cộng sản. Chưa thấy
tài liệu nào ghi Nguyễn Phú Trọng đi dạy khi nào, ở đâu, hướng dẫn luận án cho
ai mà được phong làm Giáo sư?
Cả hai đều ở những cương vị lãnh đạo rất cao trong bộ
máy nhà nước. Cùng thời điểm 1996, Chu Hảo làm Thứ trưởng bộ Khoa học Công nghệ.
Nguyễn Phú Trọng làm Phó Bí thư thành phố Hà Nội. Đến năm 2005, Chu Hảo nghỉ
hưu thì một năm sau Nguyễn Phú Trọng lên làm Chủ tịch Quốc hội. Sau đó là con
đường quan lộ thần tốc của Nguyễn Phú Trọng trong tứ trụ được củng cố trong suốt
12 năm liền. Năm 2018, Nguyễn Phú Trọng đương làm Tổng Bí thư kiêm luôn chức Chủ
tịch nước. Là người nắm quyền lực tuyệt đối trong bộ máy công quyền. Người được
cho là quyền lực ngang ngửa với Hồ Chí Minh hay Lê Duẩn thời kỳ trước 1986.
Công lao lớn nhất của Chu Hảo là cùng với các nhà khoa
học, các nhà lãnh đạo tiến bộ đương thời đưa internet vào Việt Nam. Sau khi nghỉ
hưu, ông thành lập nhà xuất bản Tri Thức và cho xuất bản hàng ngàn cuốn sách
thuộc tủ sách tinh hoa nhân loại, đem đến một không khí học thuật mới cho người
Việt. Ông còn lên tiếng phản biện các vấn đề mang tầm cỡ quốc gia như luật Đặc
khu, luật An ninh mạng, gửi thư kiến nghị về một số vấn đề dân chủ, nhân quyền ở
Việt Nam.
Nguyễn Phú Trọng nổi lên như một bố già sau đại hội
XII. Ông áp dụng chính sách “đả hổ diệt ruồi” của Tập Cận Bình đã tiêu diệt được
nhóm đối thủ không đội trời chung với mình và hàng chục tướng tá trong đội ngũ
công an và quân đội. Nhưng trên hết vẫn là cuộc đấu đá phe nhóm để củng cố quyền
lực cho mình, để chiếc ghế TBT-CTN được vững như bàn thạch.
Vậy, Nguyễn Phú Trọng có phải là một người trí thức
không? Chúng ta cần phải xem ông ấy đã làm gì để phát triển trí thức xã hội thì
mới đánh giá ông ấy là một nhà trí thức hay là không. Trước hết phải nói rằng
Nguyễn Phú Trọng là một người lao động trí óc. Với vóc dáng nhỏ nhắn và cử chỉ
chậm chạp trông Nguyễn Phú Trọng giống một thầy giáo hơn một chính trị gia. Để
leo lên nắm hai chức danh cùng một lúc, nhất định ông phải hoạt động trí óc nhiều
hơn bất kể một người nào khác. Không thể phủ nhận khả năng lao động trí óc phi
thường của ông. Hơn nữa Nguyễn Phú Trọng còn có khả năng về mặt lý luận, bởi thế
ông có một thời gian dài làm chủ tịch Hội đồng lý luận TƯ, một cơ quan đầu não
nắm tư tưởng, lý luận và nhận thức chung của đảng. Các phát ngôn của ông đều biến
hóa một cách khéo léo, khôn lường, không mất lòng ai nhưng cũng đủ để đe dọa
nhiều người. Các khái niệm “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” do
ông nghĩ ra cũng được nâng lên một tầm lý luận ở thời kỳ ông làm Tổng Bí Thư.
Nguyễn Phú Trọng là một người đứng đầu đảng đang nắm
quyền tại Việt Nam nên việc ông ra sức bảo vệ đảng là một điều không khó hiểu.
Nhưng điều mà chúng ta quan tâm ở đây là việc đó có góp phần vào xây dựng dân
trí hay tạo nên một nhận thức tiến bộ trong xã hội không? Không. Với lối lý luận
“chủ nghĩa Mác Lê là duy nhất và luôn luôn đúng” đã thâm căn cố đế trong tư tưởng
của Nguyễn Phú Trọng. Ông không chấp nhận bất kỳ một lý luận nào khác về thế giới,
về xã hội và con người. Mọi thứ nằm ngoài tư tưởng Marxit đều bị ông thẳng thừng
từ chối và coi đó là phản động.
Ông bị dị ứng với hai từ “tư bản”. Trong mọi phát biểu,
mọi bài viết ông đều cố gắng đưa vào đó các cụm từ “chủ nghĩa Mác-Lê
nin”, “tư tưởng Hồ Chí Minh”, “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa cộng sản”,
“chuyên chính vô sản”, “giai cấp công nông lãnh đạo”… Ông luôn luôn đề cao chủ
nghĩa xã hội – cái mà ông nói “có thể đến hết thế kỷ này chúng ta chưa tới
đó được”. Nhưng trước các vấn nạn tham nhũng, lạm quyền, lộng quyền của cán
bộ cộng sản thì ông không có giải pháp nào khả thi để xử lý dứt điểm. Mọi
phương án của ông đưa ra cũng chỉ là tình thế tạm thời như tuyên truyền, răn
đe, cảnh cáo hoặc nặng nhất là kỷ luật khai trừ đảng.
Với những nhóm xã hội dân sự thì ông thẳng tay bắt bớ,
đánh đập, bỏ tù, đàn áp. Đây không phải là cách giải quyết các mâu thuẫn xã hội
mà chính ông đang là người trực tiếp dẫn dắt nó. Ông phải có trách nhiệm cao nhất
trong mọi mâu thuẫn xã hội, mọi tồn tại xã hội: Sự tụt hậu về kinh tế, sự suy
thoái đạo đức trong xã hội, sự bất công, nạn thất nghiệp, tham nhũng… ông phải chịu
trách nhiệm về nó. Nhưng chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy ông nhận trách nhiệm về
việc gì cả. Điều đó có thể khẳng định Nguyễn Phú Trọng không phải là một người
trí thức, mặc dù suốt cuộc đời ông làm công việc lao động trí óc.
Giáo sư Chu Hảo, người đã góp công mang Internet về
Việt Nam. Đây là một chướng ngại rất lớn đối với nền chính trị thời kỳ đầu mở cửa
những năm 1996. Chính điều này đã đưa người dân Việt Nam tiếp cận gần hơn với
văn minh nhân loại. Ông cùng với nhiều học giả, nhà nghiên cứu, các lão thành
cách mạng, các nhà trí thức khác đưa ra những đóng góp để cải thiện chính sách
của Việt Nam trên rất nhiều các lĩnh vực. Một trong những điều họ làm là việc
kêu gọi thay đổi tên đảng, tên nước, trả tự do cho những người bất đồng chính
kiến, chấm dứt ngăn chặn nhân dân thực hiện quyền tự do dân chủ, tôn trọng Hiến
pháp và pháp luật. Sau khi về hưu, Chu Hảo đã thành lập nhà xuất bản Tri thức.
Ông cho dịch in hàng ngàn cuốn sách tinh hoa nhân loại, tạo ra một không khí học
thuật ở Việt Nam sôi nổi hơn bao giờ hết. Điều đó đã khiến ông đi ngược lại với
đường lối chung của đảng nên mới có vụ kỷ luật lùm xùm như vậy. Ông xứng đáng
là một nhà trí thức chân chính. Chúng ta trân trọng những gì ông đóng góp cho
dân tộc.
Từ hai nhân vật quan trọng này chúng ta có thể kết
luận rộng hơn: vậy những người làm việc trí óc, những nhà giáo, nhà khoa học,
công nhân viên chức… họ có phải là trí thức không? Họ cúi mặt để được yên thân.
Họ không dám nói lên điều sai trái. Họ lảng tránh với những bất công xã hội. Họ
dèm pha người khác khi đề cập đến các mâu thuẫn xã hội. Mặc dù cả đời họ làm việc
trí óc. Họ có phải là trí thức không?
Không phải ai lao động trí óc cũng là trí thức. Bởi
trí óc mà không biết nhận thức, không biết phản biện, không biết tư duy thì
không khác gì tay chân cả. Cũng chỉ là một công cụ lao động mà thôi.
No comments:
Post a Comment