Tác
động của chiến tranh không lâu dài, đặc biệt về Việt Nam, Bắc Kinh tuy tuyên bố
rút quân, nhưng trên thực tế chỉ rút quân ra khoải 6 tỉnh thành (Lai Châu, Lào
Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh) phần còn lại biên giới trong
lãnh thổ Việt Nam, quân đội Trung Quốc vẫn còn chiếm đóng.
Việt
Nam trở lại trong quá trình phục hồi từ mọi cơ sở, thôn làng, đường bộ, đường sắt
bị hỏng nặng bởi chiến tranh. Nghiêm trọng nhất, chiến tranh vẫn tiếp tục cả thập
niên 80, trong đó có trận chiến vào năm 1984 để lại cho Việt Nam một biên giới
hoang tàn!...
*
Một
cơn mưa từ xa kéo đến bao phủ vung trời đen, nước đổ xuống dài hột, con đường
phía trước chỉ còn trông thấy lờ mờ cách ôtô 5 mét, Nhất Biến cho ôtô lăn bánh
chầm chậm, chân điều khiển bàn đạp ga để duy trì tốc độ, đôi mắt nhìn đồng hồ,
điều chỉnh bàn đạp ga cho ôtô chạy với tốc độ 10 km giờ. Nếu giữ nguyên bàn đạp
ga, ôtô sẽ chạy lúc nhanh lúc chậm tùy theo sức cản chuyển động của nước mưa
trên mặt đường.
Tú
Hiền sốt ruột hỏi:
-
Thưa anh Nhất Biến, để em lái ôtô một đoạn đường được không?
-
Không được, nhỡ bị quân biên phòng bắt bớ thì phiền lắm.
-
Anh an tâm ra khỏi đám mưa này là thay tay lái.
-
Cũng được, nhờ cô lái ôtô một chặng đường, hai nữa nước dưới đường dốc chảy quá
mạnh, bám vào bánh ôtô hơi trơn, chân tôi kềm hãm bàn đạp tốc độ đã quá lâu
cũng mỏi.
Nhất
Biến không ngờ một cô gái ở núi rừng biết lái xe, tôi ra ghế sau ngồi Nhất Biến
hỏi:
-
Viên Dung có biết lái ôtô không ?
Tú
Hiền đáp hộ:
-
Anh Ba của em không biết lái ôtô, vì mọi việc lớn nhỏ trong nhà, ngoài ngõ đều
do chị Ba trúng thầu trọn gói.
Tú
Hiền cho một lượng ánh sáng đèn pha cực mạnh, xuyên qua sương mù hơn 100 mét,
chân phải, đạp mạnh xuống bàn ga tốc độ, ôtô phóng nhanh 25 km giờ, em Tú Hiền
không ngại rụt rè trước giông tố, mưa nặng hột, dù cho sương mù dài đặt dưới mặt
đường, nước chảy lùa vào bánh ôtô kéo trì lại. Ôtô vô tư vượt qua, bỏ lại sau
lưng 70 km đường u ám, ra khoải vung trời mưa gió, khí hậu xuống thấp lạnh giá,
đôi tay ẩm ướt.
Cả
3 chúng tôi xuống ôtô thở một ít không khí sương mù cho và buồng phổi và đón
chào ánh nắng buổi xế chiều. Nhất Biến tiếp tục lái xe, khởi hành với tốc độ 70
km giờ, tôi không cần biết ai lái ôtô, miễn sao đến nơi an toàn là yên tâm.
Trong đầu tôi chỉ chú ý những việc nhạy cảm nhất về chiến tranh biên giới, và
đem đến cho bạn bè, người thân một ít tin vui và hy vọng tương lai, còn lại những
việc khác hầu như vô tư và bất cần động não thêm.
Tôi
biết Nhất Biến có trí nhớ tuyệt vời, lăn lộn chiến trường cũng dày dặn thấm
sương gối gió, nguyên là một ký giả có bề thế, ít nhất cũng là một chiếu hoa
trong giới báo chí, nhất là người của CPC, chỉ cần một hay vài câu hỏi trọng
tâm là giải đáp một mạch nhiều vấn đề, hỏi:
-
Có khi nào anh bỗng suy tư đến chiến tranh biên giới không? Những con số tổn thất
của cả hai quốc gia trong chiến tranh này có đáp số không? Lương tâm mình có
cho phép quên bẵng cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam-Tung Quốc vào mùa Xuân
1979 không?
Nhất
Biến liền đáp:
-
Vâng, tôi xin trình bày tổng quát cuộc chiến mùa Xuân 1979, trong ba câu hỏi vừa
rồi của Viên Dung là một đề mục lớn nói hoài không hết, cho nên chúng ta cần phải
quan tâm hơn, cuộc chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc đã trở thành lịch sử, chúng
ta cần biết tường tận, chỉ có người mất trí, tuy sống trong thời đại mà lãnh đạm
với Tổ quốc, và tôi xin trả lời tiếp nhé:
-
Hiện nay Trung Quốc vẫn còn đặt Bộ chỉ huy của Tổng Tham Mưu chiến trường, trên
lãnh thổ Bắc-Đông thuộc tỉnh Cao Bằng của Việt Nam.
Bước
đầu tiên trong cuộc chiến Việt Nam-Trung Quốc, theo tôi biết Cao Bằng là chiến
trường chia phân thắng bại. Trung Quốc điều động Lữ đoàn 346 trinh sát, đánh phủ
đầu vào Lạng Sơn, còn được gọi là "Bộ phận lạc hướng". Từ đó Trung Quốc
thao túng mặt trận Bắc-Đông trên đất Việt, then chốt quang trọng của Tổng Tham
Mưu chiến trường tại Cao Bằng và Trí Quận (置郡- Chun Nam), dưới sự
bảo vệ và trách nhiệm của 3 trung đoàn Bộ binh 246, 611, 851. 2 trung đoàn pháo
binh 188, 246 một trong những bộ phận chính qui của các Quân đoàn: 41, 42, 43,
50, 54, 55, còn được gọi là "nhóm làn sóng mới" vừa hình thành tại
biên giới. Ngoài ra có những đơn vị tình báo biệt lập thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, từng
là đảng viên CS Việt Nam, họ được chọn thi hành công tác có tên gọi là
"Trung tâm bảo vệ 9" theo dõi hoạt động quân đội Việt Nam, riêng Sư
Đoàn 3, có một bộ phận tình báo được gọi là "Sao Kim", phía Nam Lạng
Sơn có trung đoàn 68 pháo binh do hai nhóm tình báo 12 và 141 biệt lập điều động,
và liên kết với bộ phận khác đã thành hình trước tháng 6 năm 1976 trong lãnh thổ
Việt Nam, tạo ra sức mạnh quân sự trên bờ đất Việt Nam. Trung Quốc khởi động cuộc
chiến tranh, ngày đầu tiên tấn công chớp nhoáng đã chiếm được 141 khu vực của
Việt Nam, nhờ buổi đầu binh lực thiện chiến được đào tạo tác chiến và kinh nghiệm
thực tế chiến trường. Nói chung trong cuộc chiến này chủ lực chính qui dựa vào
Quân báo, và nhiều cánh quân tình báo (từng là đảng viên CS Việt Nam) làm hoa
tiêu tiến quân.
Mặt
trận Bắc-Đông Việt Nam trong tầm tay Bắc Kinh.
"Goie"
ám hiệu triển khai quân đội, Sư đoàn 11, trải rộng vào mặt trận phía Bắc-Đông,
theo cấu hình hai dây.
Vòng
vây 1 tiến vào tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh và án binh mặt biển vịnh Bắc
Bộ ngoài khơi Thái Bình Dương, Hải quân sẽ làm phòng ngự theo cấp quân số chia
thành năm đơn vị Sư đoàn, Lữ đoàn và Trung đoàn đồng triển khai theo mô hình
Vòng vây 2.
Theo
kế hoạch:
312
Bộ phận tiền lũy tiến vào Thái Nguyên.
431
"Tsz Shan" tiền đồn tiếp viện.
327
Phòng thủ khu vực thủy triều vịnh Bắc Bộ và mạng biển Đông Việt Nam.
329
Khu vực "Hongji" ám hiệu Pháo binh, yểm trợ tiến quân vào biên giới Bắc-Đông.
242
Quân đội đồn trú khu vực đảo Cẩm Phả chờ lệnh chuyển quân tấn công.
196
Khu vực sông "Hiểu biết" ám hiệu cánh quân chi viện đến từ tỉnh Hà Bắc,
nhiệm vụ phục kích.
38
Lữ đoàn án ngữ khu vực phía Đông.
98
Trung đoàn Quân báo hướng dẫn tiến quân.
27
Lữ đoàn truy kích quân Việt Nam.
Quân
khu Nam Ninh chỉ đạo trinh sát.
Trung
Quốc tung ra 13 lực lượng trinh sát, mỗi đơn vị 100 binh sĩ, thẩm quyền chỉ huy
chiến thuật biển người, di động từ 150 binh sĩ thành một làn sóng ào vào bờ.
Ngoài ra còn có chi tiết chiến thuật bí mất đã đưa lên kế hoạch, dự liệu tiến
quân đến Hà Nội.
Bắc
Kinh đã lập kế hoạch, chiến thuật bí mất, dự liệu tiến quân đánh úp
thủ đô Hà Nội của Việt Nam. Nguồn: Nhất Biến.
Trung
Quốc tiến quân vào biên giới Bắc-Đông của Việt Nam:
Ngày
17/2/1979 có cả thảy 14 đường quân Trung Quốc tiến vào lãnh thổ Việt Nam. Khởi
hành Quân đoàn I đưa quân đến hướng Đông-Bắc, tiếp theo Tập-đoàn III (48.000
quân) từ hướng Nam, di chuyển cùng một lúc 4 Quân đoàn thiện chiến tiến qua hướng
Nam-Đông Trung Quốc.
Một
ngày sau đó bước đột phá của Quân đoàn 18 từ hướng Bắc, tiến vào
"Molong" ám hiệu, tiêu diệt một bộ phận hậu phương của quân đội Việt
Nam. Trung Quốc di chuyển về phía trước, thông qua một nông trường biên giới hỗ
trợ lực lượng chiến đấu đang tiến về phía trước đối diện quân dân Việt Nam. Từ
lúc này quân đội Trung Quốc bị bế tắc, tiền tuyến hậu phương đứt liên lạc, đạo
quân Trung Quốc chỉ biết bị sa lầy, nhưng không biết nguyên nhân.
Đến
lúc quân Việt Nam bị vỡ từng lãnh, mới biết đó chỉ là dân quân địa phương biên
giới, quân Trung Quốc bố trí lại biển người, xóa sổ thêm nhiều nút chặn của
quân dân VN. Khai thác tối đa chuyển quân, 143 xe tăng, xe bọc thép Lữ đoàn 3,
đúng giờ (11 giờ) vào trận chiến Đồng Đăng, tăng cường Lữ đoàn 376 hợp nhất được
trung đoàn xe tăng yểm trợ, còn gọi là "hội tụ Đồng Đăng". 3 giờ sau
trung đoàn 44 bộ binh vượt phòng tuyến cho thấy sức mạnh tổng hợp lớn hơn quân
đội bộ binh và xe tăng, phá vỡ một nút chặn dân quân Việt Nam đẩy vào hỗn loạn.
Các trung đoàn lên biểu đồ tiến quân, hướng phải đến là thu giữ những cây cầu
huyết mạch, và dùng một cây cầu làm vật thiêu thân đối phương.
Sông
Kỳ Cùng. Ảnh: HVD.
Một
trong những cây cầu trên sông Kỳ Cùng tại thi xã Lạng Sơn Ảnh: Nhất Biến
Sơ
đồ những con suối lớn tại Đồng Đăng. Nguồn: Nhất Biến
Xen kẽ các
đơn vị chính qui tiếp cận sông Kỳ Cùng và những con suối Đồng Đăng, buổi chiều
ngày 17/2/1979 phía núi Đông có hồ lớn ngập sâu bùn lầy, chiều dọc 800 mét, chiều
rộng 70 mét, bỗng dưng có một đoàn dân quân VN tập kết chống trả mãnh liệt
không rõ quân số, quân đội Trung Quốc trở tay không kịp, cho thấy (phản ánh
tình hình quân sự của Việt Nam không quân số trên thực tế, những vụ tấn công
không chỉ huy, không hình dung lực lượng đang ở phía trước, không biết rõ địa
chỉ trinh sát của đối phương).
Thượng
tướng Nham Dịch Long (Liêu Tích Long-廖锡龙上将 - Liao Xilong). "Chiến tranh Việt
Nam-Trung Quốc vào năm 1979.
Thượng tướng Nham Dịch Long (廖锡龙上将), chỉ huy Phó, Sư đoàn 91. Năm 1984 ông chỉ huy quân đoàn 11 và 31 đánh chiếm vùng núi chiến lược Việt Nam".
Nguồn: Nhất Biến.
Thượng tướng Nham Dịch Long (廖锡龙上将), chỉ huy Phó, Sư đoàn 91. Năm 1984 ông chỉ huy quân đoàn 11 và 31 đánh chiếm vùng núi chiến lược Việt Nam".
Nguồn: Nhất Biến.
Liêu
Tích Long (廖锡龙上将), phân phối lực lượng
thành ba hướng tấn công, và quyết định buộc thay đổi hướng thông qua cây cầu từ
cửa "hàng". Con đường thứ tư cũng được mở ra bắt kịp với các cuộc tấn
công của bộ binh. Nhưng trên thực tế đã không đạt chiến đấu như dự tính ban đầu.
Thượng tướng Liêu Tích Long (廖锡龙上将) có lối đánh phủ đầu
không ngờ phức tạp, trong quân "ổ cắm" (Binh sĩ dao động). Ông ta vội
chuyển binh đơn lẽ vào điểm chính các tuyến đường Đồng Đăng. Sau một giờ Quân
báo kiểm soát được trở lại đường chuyển quân, mặt khác quân chiến đấu trong khu
vực hồ ngập sâu bùn không thể tiếp tục tấn công, tiếp theo Quân báo cho biết đã
đẩy lùi đối thủ.
Tăng
cường Quân Đoàn I năng động hơn, lập tức xe tăng, cối, pháo tấn công vào khu vực
xung quanh Đồng Đăng. Trung đoàn 84 pháo, Tiểu đoàn 1 xe tăng bất chấp đối
phương chiến đấu chiếm giữ hai đầu cầu, chỉ huy mặt trận Bắc-Đông cho thiết lập
một cầu phao.
Tại
thời điểm này trở ngại nhất "sợ nước ngập lớp học" (sợ phục kích trên
sông) đồng lúc lực lượng Trung Quốc bước vào thành phố Cao Bằng, tuy nhiên, những
thay đổi tạm thời trong dây chuyền công kích, bằng mọi vòng xoay thời gian trả
giá không lãng phí, chỉ một ngày và đêm quân Trung Quốc làm chủ tình hình mặt
trận Bắc-Đông Việt Nam.
Một
số cầu bị quân Trung Quốc phá hủy. Sau ngày chiến tranh, các em đi học phải
dùng bè tre qua sông Kỳ Cùng. Nguồn: HVD.
Xe
tăng, bộ binh xen kẽ tiến vào lãnh thổ Việt Nam.
Sư
đoàn IV xe tăng trong cơn bão động cơ, mở đường cao tốc tiến quân, các binh sĩ
phải trả giá tử vong không cần thiết, đặc biệt là các binh sĩ bộ binh trên xe
tăng, máu chảy ướt đẫm, thảm họa, đưa đến xe tăng bỏ lại phía sau 3 đơn vị bộ
binh, ngay cả ba lô cố định trên lưng chiến sĩ cùng xe tăng phơi xác. Lệnh chỉ
huy mở cuộc tấn công biển người xen kẽ, bộ binh chiến đấu không hẹn thời gian,
gần như là một con cá trên vỉ sắt đỏ, rất nhiều binh sĩ đến khi chết còn treo
thân trên xe tăng, quá khủng khiếp.
Binh
sĩ Trung Quốc đã chứng kiến, tự xem đây là một tài liệu nội bộ bi thảm
nhất, xe tăng và các đơn vị xe bọc thép cùng bộ binh đi vào núi rừng sâu trải
qua một trận phục kích của đối phương, chống tăng trong khe núi hẹp, ngay chiếc
xe đầu tiên đã bị phá hủy, và sau đó xe tăng thứ hai cũng chết theo nằm bên đường,
có những xe tăng còn nổ máy nhưng người lính đã chết tự bao giờ, ba lô vẫn còn
gắn chặt trên đôi vai của họ.
Xen
kẽ những lực lượng bộ binh biển người tiến lên để thực hiện đại thắng nhưng khó
thành, biển người tiến lên, lùi lại khác thường, khó khăn lắm mới vượt qua một
nút chặn của dân quân địa phương, có tên gọi là "nút vòng hoa" đã được
chứng minh rất sống động trong cảnh chết bất đắc dĩ, trên thực tế biển người tạo
thành chiến tranh không qui ước, ý chí của binh sĩ xuống thấp và hổ thẹn. Ban đầu
biển người diễn ra hai ngày và đêm bao quanh Cao Bằng tự tin không cần liên hệ
với tổng đài chỉ huy, do đó Phó tướng Thượng tướng Liêu Tích Long (廖锡龙上将); chỉ huy mặt trận mất bình tĩnh, có đôi lời chỉ trích Bộ
chỉ huy chiến trường "Mấy thằng tướng già lẫm cẫm".
Trong
thực tế Tổng Tham Mưu chiến trường thiếu hiểu biết về thực địa, khả tin quá
đáng trên đầu tình báo và Quân báo thiếu nghiên cứu thực địa. Thượng tướng Liêu
Tích Long (廖锡龙上将) còn chỉ trích:
"Tại sao không cẩn thận khảo sát địa hình trước khi chiến tranh, lựa chọn
địa lý bố trận bị đối phương phá vỡ dễ dàng. Tại sao không nghĩ trước khi mở cuộc
chiến tranh, dù hiểu đối phương cũng đề phòng trước có thể thiệt hại trên đường
bộ. Tại sao bảo thủ, tuyệt vọng để "Gongdi" chết yểu, tuy quân mạnh mẽ
nghiêm ngặt đầu vào, nhưng bố trí "off" đường lui quá tồi, không có
đường vòng đai bảo vệ các phố Tây cũ hầu tránh hậu phê phán chiến tranh, tiến
quân không chèn vào phía sau các thông hào kẻ thù, mặc dù giành chiến thắng muộn.
Tuy nhiên phải tránh ít thương vong, không ngờ quân đội đối phương vào sâu
trong các hầm thiên nhiên tử thủ, biến thành hiệu chuẩn hỏa lực mạnh. Lẽ ra hỏa
lực Trung Quốc đánh bại đối phương từ lâu. Tóm lại chiến thắng cần kinh nghiệm,
với các thiết bị vũ khí quá cũ không còn thích hợp hoàn cảnh mới, nhiều tướng
lãnh bị lão hóa, không biết bản thân mình".
Đuổi
xua đối phương tay chân run rẩy.
Ngày
18/02/1979, báo cáo từ mặt trận Bắc-Đông. Lực lượng Lữ đoàn 346, 851 Cối, Pháo,
Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 3 đến 9 và 20 tiểu đoàn khác kết hợp mưa đá "Tên lửa
chống tăng pháo" xả pháo như mưa tháng 9, tuôn xuống 6 tỉnh biên giới Việt
Nam, ngoài ra Bắc Kinh truyền lệnh tập kết tại biên giới Nam Tây Nguyên, Trung
Quốc trên 651.526 binh sĩ, và trên 490.000 binh sĩ trừ bị tại Quảng Tây, nỗ lực
của Trung Quốc quyết chiến không hề thua Việt Nam.
Từ
tuyến đầu quân đội Trung Quốc đẩy biển người vào thế mạnh chẻ tre ra từng mảnh,
vượt qua các lớp chặn, tiêu diệt lực lượng dân quân Việt Nam chỉ một ngày, quả
nhiên tường thành dân quân bị phá vỡ.
Ngày
20/03/1979, hai hướng quân tiếp cận tại phố "Gao" (mật mã), với các
đơn vị cơ bản xen kẽ trong các Sư đoàn bộ binh, gồm tình báo v.v... Tình báo
cung cấp thông tin về Bộ Tư lệnh chiến trường, đã cố gắng khẳng định biển người
xen kẽ vòng xoay có kết quả tại Đồng Đăng, tình báo còn đánh giá cho rằng: Một
bước đột phá đối với cánh quân biển người truyền thống, hướng dẫn hai cánh
"lý trí" (chiến thuật) đã giải quyết chiến thắng quân sự không bị lộ
trước đối phương (Quân đội Việt Nam).
346
ôtô của đơn vị bộ binh phân chia lộ trình tiến quân, nổ súng trước vào một rào
cản tự nhiên để nắm bắt hạnh phúc (tiêu diệt đối phương), mỗi cố gắng không làm
trì hoãn việc tiến quân sâu vào nội địa Việt Nam, biển người xen kẽ pháo binh với
tốc chiến độ nhanh của quân đội Trung Quốc chiếm được nhiều điểm trọng yếu.
Quân
đội Trung Quốc không bị cản trở nào đáng gờm, cho phép tiến quân nhanh chóng buộc
các Trung đoàn xe tăng từ phía Bắc tiến lên, như Tiểu đoàn 1, và Tiểu đoàn 2,
trên xe tăng còn có nhân dân tình báo địa phương hướng dẫn an toàn, khai tử được
các điểm kiểm soát của đối phương, thừa thắng lực và thế của "Mã tấu"
phá vỡ nút chặn thuận lợi. Sau đó các nhóm 6-7 tuổi (2 Lữ đoàn 6-7 bộ binh),
giao tranh nút chặn trên đường phố Lạng Sơn. Những "Chủ nhiệm" (những
Tướng lãnh Trung Quốc vào chiến trường Việt Nam).
Từ
Trái: 1 ‒Trung Tướng Lưu Sương Nghị (刘昌毅), Phó chỉ huy của
Quân khu Quảng Châu. 2 ‒ Trung Tướng Hướng Trọng Hoa (向仲华), Ủy viên chính trị
khu vực quân sự Quảng Châu. 3 ‒ Trung Tướng Lưu Chí Kiên (刘志坚), chính ủy Quân khu
Côn Minh .4 ‒ Đại tướng Hứa Thế Hữu (许世友), Phó Tổng tư lệnh
chiến trường Bắc-Đông. 5 ‒ Thiếu Tướng Trương Hải Đường (张海棠), Phó Tư lệnh quân sự
khu vực Côn Minh. 6 ‒ Thiếu tướng Tiêu Ngọc Sơn (焦玉山), Phó giám đốc pháo
binh Quân khu Quảng Châu. 7 ‒ Thiếu tướng Ngô Trung (吴忠), phó chỉ huy của Tập
đoàn Quảng Châu. 8 ‒ Trung Tướng Trương Vạn Niên (张万年), Phó Chủ tịch 127 bộ
phận chiến trường hướng Dòng Tây, Việt Nam.Nguồn: Nhất Biến.
Tám tướng lãnh Trung Quốc di chuyển bằng ôtô, viếng
thăm thành phố Lạng Sơn, ủy lạo binh sĩ tại chiến trường, kiểm tra quân sự của
các Quân đoàn, Sư đoàn. Đại tướng Hứa Thế Hữu (许世友) triệu tập khẩn cấp ra lệnh
tiêu diệt đối phương nhanh.
Nhưng sau đó lực lượng vũ trang và các hệ thống
thông tin liên lạc kém, thiếu chuyên môn, nhiều binh sĩ tử vong, tự nó co lại
trở thành một tư lệnh quốc phòng tại chỗ, kết quả đã không kịp thời hoàn thành
việc quân đội chiếm đóng một khu vực dao khóa (Lạng Sơn).
Theo tình báo cho biết: Lữ đoàn 852 bị cắt đứt chia
thành nhiều nhóm nhỏ hầu như xóa sổ gần hết, trước ngày xuất quân Trung Quốc có
quá nhiều tham vọng ảo, muốn tìm đến mục tiêu đầu tiên, tiến quân cao tốc phía
nam thông qua các khóa trượt ra khỏi cản trở của dân quân Việt Nam. Tại thời điểm
đó, vị trí "thông minh" (tình báo) cho phép, cánh quân 852 còn lại
tranh thủ thời gian, băng qua những ngọn núi cao, vào trung tâm đối phương lập
phòng ngự cho những Sư đoàn bạn tiến quân, không ngờ bọn dân quân biên giới chặn
đường phá hủy tham vọng. Thời điểm này vòng xoay phía Tây của Cao Bằng nỗ lực
chiến thuật đối phương thất bại nặng.
Tống
Đô đốc Dương Đắc Chí (杨得志–Yang Dezhi), Tổng
tư lệnh chiến trường, điều động cánh quân Tây-Bắc. Nguồn: Nhất Biến.
Tống
Đô đốc Dương Đắc Chí (杨得志), đề cập điều chỉnh chiến trường trước
khi tiến sâu vào Tây-Bắc một bước, và cả Bắc-Đông. Mỗi khi cơ động quân, trải
dài từ phía Tây qua Đông đi vòng để tránh các đối phương và kiểm tra hậu cần,
tránh đối phương không cần thiết tấn công. Chính Dương Đắc Chí và các tướng
lãnh, như Đô đốc Trương Vạn Niên (张万年), Đô đốc Phó Toàn Hữu
(傅全有),
Thiếu tướng Lương Quang Liệt (梁光烈), Thiếu tướng Ngô Thuyên Tự (吴铨叙),
Thiếu tướng Tiễn Thụ Căn (钱树根), Thiếu tướng Vương
Tổ Huấn (王祖训), Thiếu tướng Từ
Vĩnh Thanh (徐永清), Thiếu tướng Lý Tân Lương (李新良), và Thiếu tướng Chu
Khải (朱启-
Zhu Qi).
Viếng
thăm thành phố Cao Bằng, quân Trung Quốc lập các rào "cản nước"
(phòng thủ) thông qua kỹ thuật "thoát nước" (rút lui) và cuối cùng
trong 31 giờ để vượt qua mọi cản trở của dân quân VN, trước khi tiến quân sau
khi chuyển nhượng thành phố Cao Bằng vào tay Đại tướng Hứa Thế Hữu, tình hình
đã trở thành phòng thủ của quân Trung Quốc, hậu cần cung cấp trở lại dòng chảy.
(lương thực, quân nhu v.v...)
Đại
tướng (许世友) Hứa Thế Hữu. Nguồn:
Nhất Biến
Ngày
24/02/1979 Lữ đoàn Long Châu (Longzhou), sẵn sàng bày trận phía nam chia sẻ
phòng thủ nếu đối phương tấn công vào Cao Bằng. Phó Tổng tư lệnh chiến trường Đại
tướng Hứa Thế Hữu, truyền lệnh hiệp nhất quân sự, sau bảy giờ chiến đấu. 0 giờ
25 ngày 25 chiếm đóng toàn bộ điểm cao của tỉnh Cao Bằng, để hủy diệt kẻ thù,
trên thực tế chỉ bao gồm các lực lượng tầm thường của dân quân, thế mà có hơn
346 binh sĩ của ông Đại tướng Hứa Thế Hữu mất tích. Cùng lúc lệnh đàn áp các cuộc
tấn công do tập đoàn Nam đảm nhiệm, bao gồm cánh tay sắt (xe tăng) qua lại để
ngăn chặn tấn công đối phương, nhóm di động F-306 (Lữ đoàn) đề phòng hậu quân,
và lệnh phân chia quân bài (từng tiểu đội trấn thủ).
Ngày
26 tháng 2 đến đầu tháng ba, tình báo cho biết có 456 thương binh tàn dư của đối
phương (dân quân biên giới địa phương Việt Nam) về cơ bản bị xóa sổ, nhưng ước
tính có 1/4 đối phương đã thoát khỏi vòng vây.
Ngày
17-23/2/1979 hướng Đông, chuyển lợi thế hỏa lực pháo binh, quét sạch tất cả các
đối phương, để tạo ra đường hậu cần phía Đông của trận chiến.
Ngày
27 tháng hai, một phần của Tập đoàn Phòng không tăng cường, đến ngoại vi Lạng
Sơn.
Lúc
7:50 phút, tung ra 75.281 bom lửa, đại pháo từ xe tăng, xe bọc thép.
8:00
phút bắt đầu các đơn vị bộ binh. Xóa sổ 29 đơn vi công tư hành chính Việt Nam.
9h30
ngày 01 tháng 3, tập trung 300 súng đạn pháo, 30 phút ra khỏi hàng chục nghìn
quả bom tóc. Tướng chỉ huy Thượng tướng Liêu Tích Long (廖锡龙上将), chơi chiến thuật chó ăn thịt chó, lệnh đã ban hành
"bình minh tấn công bắt đầu, không thể để một ngôi nhà tồn tại trên mặt đất
Lạng Sơn." Thượng tướng Liêu Tích Long cho biết thực tế nhiều hơn so với
chó ăn thịt chó. Nhân dân Lạng Sơn bị đẫm máu, và tuyệt vọng vì các lực lượng của
Trung Quốc, quá tàn nhẫn đối với muôn loài đang sống trên đất nước Việt Nam.
Phó
Tổng tư lệnh chiến trường, Đại tướng Hứa Thế Hữu đem ra thực thi chiến thuật biển
người giành lấy chiến thắng trên xác binh sĩ của mình.
Tìm
kiếm và tiêu trừ đối phương
Ngày
04/03/1979 phía Đông, Cao Bằng giáp ranh Lạng Sơn, đột nhiên xuất hiện quân đội
của đối phương di chuyển chiều dài 40 km, vượt qua sông, đồi trà, ruộng, thông
qua những đồi đá dài, thiết lập phòng ngự tại Trùng Khánh, và những thị trấn
chiến lược khác. Quân Trung Quốc ở phía Tây vượt qua phòng ngự đối phương ở độ
sâu 40 km, bắt vào thành phố thứ hai qua đường đập nước "Rắc Cam", một
tham chiến (tình báo) đến các xưởng cũ (bộ tham mưu), cho biết. Quân đội Việt
Nam đã kiểm soát một thị trấn thuộc Lạng Sơn, xu hướng này đã được hình thành
hóa.
Bắc
Kinh chuẩn bị lực lượng đe dọa Hà Nội, chiến lược hoạt động đã được lên kế họach
trước ngày 5/3/1979, nhưng các Ủy ban quân sự trung ương đã ban hành lệnh thu hồi.
Bao gồm việc luân phiên rút quân, mật lệnh "tất cả những gì trên trái đất
này sẽ bị cháy xém" Trái đất còn được gọi là chiến tranh "thổ".
(Là một chiến lược quân sự bao gồm lúc xuất quân hoặc thu hồi, đánh lạc hướng đối
phương từ một nơi nào đó, đưa đối phương lâm vào bất kỳ thiệt hại nào), một lệnh
khác: Tất cả máy móc thiết bị truyền thông di chuyển đến nơi an toàn, bất quá
phá nổ làm mồi lửa đối phương, để trút sự giận dữ. Quân đội Trung Quốc đang
trên đường rút quân về hướng Tây sẽ phá hủy tất cả các công sự của đối phương,
và cầu kiều xem đây là một sự trừng phạt.
Ngày
16 tháng 3 việc Trung Quốc hạ lệnh rút binh, hạ cờ ra khỏi 6 tỉnh lãnh thổ Việt
Nam, tăng cường lực lượng tình báo, quân báo tự vệ đến 0 giờ kết thúc.
Quân
đội Trung Quốc từ chủ động chiến tranh sang qua phòng thủ rút quân, trên đường
rút quân, tung ra toàn lực khiêu khích nhắm vào người dân Việt tại biên giới,
nhân dân lương thiện tiếp tục làm bia đổ máu xuống mãnh đất quê hương, con người
và mọi loài biến thành bình địa, biên giới bốc lửa ngút trời.
Nhân
dịp Quân đội Trung Quốc rút lui, họ tận dụng mọi trí khôn, ngay cả đường sắt
biên giới cũng không còn một con đinh nhỏ. Trung Quốc đã thành công "phản
công tự vệ chống lại Việt Nam" kết thúc 1 tháng chiến tranh đem về Trung
Quốc 30 nghĩa trang, rừng cờ rũ!
Trong
trận chiến tranh 1979 dân quân Việt Nam chiến đấu quả cảm chưa từng thấy trong
lịch sử Việt Nam, và sức chịu đựng 75.800 đạn pháo trải rộng biên giới thiệt hại
mất trắng, chưa tính đạn pháo rơi trên đầu 6 tỉnh Việt Nam "vô tiền khoán
hậu" và dân quân tiếp tục làm tù binh trong lãnh thổ Trung Quốc. Một Sư
đoàn trưởng Trung Quốc cho biết: Làng, xã, 52 trường học bị lửa pháo sang bằng
phẳng, 30.041 thường dân thiệt mạng và 1531 người bị thương. Người dân biên giới
bỏ nhà cửa của họ sống lây lất, tối tăm trong hang động núi rừng, 23.465 người
dân bị đẩy ra khỏi quê hương xứ sở vào biên giới Trung Quốc. 31.793 mẫu đất hoa
màu, nông sản và hàng trăm mẫu cao su đang mùa thu hoạch, biến thành đất chết.
Hồn
dân Việt chưa tỉnh thì đầu tháng 4/1984. Quân khu Côn Minh và Nam Ninh tung ra
14 Sư đoàn, cùng lúc 2 Sư đoàn đặc nhiệm 11 và 41 phân chia 31 tụ điểm tấn công
chiếm miền núi cao của Việt Nam. Quân dân thương vong 550 binh sĩ, 118 tù binh
chiến tranh, thu giữ hơn 60 khẩu súng cỡ nòng 19 mm, 154 vũ khí khác nhau, một
số lượng đạn dược và quân nhu khá nhiều.
Trung
Quốc tự mở chiến tranh lần thứ 2 không có khẩu hiệu như trước năm 1979 "phản
công tự vệ chống chiến tranh Việt Nam". Tuy nhiên lần chiến tranh này vào
tháng 4/1984 ác liệt hơn 1979 cả trăm lần.
Tháng
10/1984, Trung Quốc chuyển quân theo lịch trình 7 lượt vào chiến trường biên giới
Việt Nam, gồm các Quân khu tham chiến:
-
Quân khu Lan Châu, Sư đoàn 47, ngày 6/10/1984.
-
Quân khu Thẩm Dương, Sư đoàn 16, ngày 7/10/1984.
-
Quân khu Bắc Kinh, Lữ đoàn 27 và 38 (trinh sát đơn vị), ngày 08/10/1984.
-
Quân khu Nam Kinh, Sư đoàn 12, ngày 9/10/1984.
-
Quân khu Quảng Châu, Sư đoàn 41 và 42, ngày 10/10/1984.
-
Quân khu Tế Nam, Sư đoàn 20, 26 và 67, ngày 12/10/1984.
-
Quân khu Thành Đô, Sư đoàn 13 tương ứng chiến tranh, ngày 12/10/1984.
Không
quân và Hải quân sẽ tham chiến theo kế hoạch dự bị.
-
Ngày 12/10/1984. Hải quân đưa những tàu chiến vào vịnh Bắc Bộ của Việt Nam,
Trung Quốc triển khai hải quân gồm tàu chiến 150, 780.
Giới
quân sự Trung Quốc đang ái ngại, cùng lúc Quân Ủy Trung Ương khởi động tuần tra
an ninh, và giám sát các hoạt động của Liên Xô, đề phòng tàu chiến vào Việt
Nam.
-
Không quân Trung Quốc (PLAAF) trong suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam năm 1979,
xem như đứng ngoài lề cuộc chiến. Đầu năm 1984, Không quân chính thức huy động
13 đơn vị, quân trường Không quân, ba nhóm Không quân độc lập, Lữ đoàn 10 Không
quân, Lữ đoàn điện tử, chiến đấu cơ loại J tiêm kích, phi cơ loại Q tấn công mặt
đất, phi cơ loại H ném bom, phi cơ loại JH tiêm kích và ném bom, theo lệnh mật
mã "3131-8500" sẵn sàng chiến đấu, theo lệnh của Đặng Tiểu Bình.
Không quân chuẩn bị mọi hiệu quả, Không quân tình báo Trung Quốc kiểm soát và
trừ khử các mối đe dọa của Không quân Việt Nam, nếu tham chiến.
Tin
tình báo Trung Quốc cho biết, ngày 18/3/1984, những vị trí chiến lược biên giới
của tỉnh Quảng Tây, phát hiện chiến đấu cơ MIG-21P 1 của Quân đội nhân dân Việt
Nam. Ngày 5/4/1987, Trung đoàn 3 tên lửa Không quân Trung Quốc, từ vị trí núi
cũ trong lãnh thổ Việt Nam, khạc ra 97 tên lửa, một chiến đấu cơ của Việt Nam
rơi tại Bằng Tường, Sùng Tả, Quảng Tây, Trung Quốc.
Kết
quả của những tranh chấp biên giới qua chiến tranh
Những
học giả Châu Á và Phương Tây phân tích, cho rằng chiến tranh này khởi động từ
phía Trung Cộng, có thể từ đây các quốc gia Châu Á để tâm về sự cố gắn kết tụ nội
bộ củng cố Quốc phòng và chính trị trong vùng, tránh sức mạnh quân sự, chính trị
đến từ chiến tranh Trung Quốc, tuy nhiên sau cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ
3. Đặng Tiểu Bình trở thành nhà lãnh đạo thế hệ thứ hai, buộc Hoa Quốc Phong từ
chức. Các học giả nói chung, tin rằng chiến tranh có thể được gây ra bởi hai yếu
tố bên ngoài.
Lý
do nội bộ
Vào
thời điểm đó, ngay sau Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc, các lãnh đạo mới lên nắm
quyền lực. Vừa trải qua cuộc Cách mạng Văn hóa phân lại giai cấp cầm quyền, và
gây ra khủng hoảng mất tự tin, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tự cho rằng cần thiết
để tiến hành một cuộc "chiến chống lại kẻ xâm lược" sẽ đem lại đoàn kết
dân tộc, gắn kết quốc gia hơn. Kể từ khi Cách mạng Văn hóa, Đặng Tiểu Bình được
phong cách Quân Ủy Trung Ương Trung Quốc, họ Đặng nỗ lực đưa ra kế hoạch chiến
tranh hầu qui tụ tướng lãnh bất mãn mạnh mẽ sau khi Cách mạng Văn hóa, giới tướng
lãnh Trung Quốc biết rằng sẽ làm suy yếu quân đội trong các trường hợp chiến
tranh vô cảm, cuối cùng cũng xác định cuộc chiến tranh với Việt Nam, mục tiêu của
nó để giết những gì kiêu ngạo của quân đội Việt Nam, và tạo ra một số học thuyết
chiến tranh mới cho Trung Quốc.
Nguyên
nhân bên ngoài
Vào
thời điểm đó, vẫn còn trong chiến tranh lạnh, Liên Xô và Hoa Kỳ có một loạt các
cuộc xung đột toàn cầu đáng quan tâm hơn, trong khi Trung Quốc và Liên Xô với
nhau cũng như chiến lược trong quá khứ của cuộc cách mạng xuất khẩu cộng sản, dẫn
đầu trong khu vực Đông Á trong một tình huống tương đối bị cô lập. Để cạnh
tranh với Liên Xô trong giới lãnh đạo Cộng sản trên thế giới, và hiển thị khả
năng cầm quyền Cộng sản Trung Quốc của Đảng, và khả năng của nhà nước để chỉ
huy các lực lượng vũ trang, mở rộng không gian bên ngoài và giúp đỡ các đồng
minh, như chế độ Khmer Đỏ, để rồi tận dụng lợi thế của các đồng minh Việt Nam.
Liên
Xô tham gia vào cuộc chiến đang chiếm đóng ở Afghanistan (1979), sau chín năm
cuộc chiến này chấm dứt. Nhân dịp này Trung Quốc phát động chiến tranh, một cảm
giác chiến tranh Việt Nam sẽ cho Liên Xô một bài học.
Đặng
Tiểu Bình viếng thăm Hoa Kỳ vào tháng Giêng và tháng Hai trên thứ tự viếng thăm
ngoại giao các điểm chú ý chiến tranh đặc biệt. Đối với Hoa Kỳ, các nước phương
Tây muốn thấy Trung Quốc thực hiện bài học về Việt Nam đồng minh của Liên Xô.
Tháng 12/1979 Hoa Kỳ bắt đầu cải thiện quan hệ với Trung Quốc, Trung-Mỹ đã bước
vào một thời kỳ ngoại giao vàng son.
Sau
chiến tranh
Tác
động của chiến tranh không lâu dài, đặc biệt về Việt Nam, Bắc Kinh tuy tuyên bố
rút quân, nhưng trên thực tế chỉ rút quân ra khoải 6 tỉnh thành (Lai Châu, Lào
Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh) phần còn lại biên giới trong
lãnh thổ Việt Nam, quân đội Trung Quốc vẫn còn chiếm đóng.
Việt
Nam trở lại trong quá trình phục hồi từ mọi cơ sở, thôn làng, đường bộ, đường sắt
bị hỏng nặng bởi chiến tranh. Nghiêm trọng nhất, chiến tranh vẫn tiếp tục cả thập
niên 80, trong đó có trận chiến vào năm 1984 để lại cho Việt Nam một biên giới
hoang tàn!
Chiến
thắng quân sự và tổn thất của Việt Nam-Trung Quốc.
Trung
Quốc phòng thủ phản công chống lại Việt Nam vào năm 1979. Cánh quân thứ thất xuất
phát từ Quảng Tây, đột nhập vào biên giới lãnh thổ theo hướng Cao Bằng Việt Nam
từ 20-40km, bàn đạp đầu tiên xóa sổ 2 cơ sở căn bản của Việt Nam và 9 tiểu
đoàn, hầu hết bị phá hủy, một số dân quân độc lập bị xóa sổ do 14 lữ đoàn thiết
giáp Trung Quốc, tổng cộng 20.671 người tử vong.
Cánh
quân thứ hai tràng qua biên giới Việt Nam, đến từ hướng Vân Nam, đã đột nhập
vào độ sâu lãnh thổ Việt Nam 40 km, tiêu diệt tổng cộng 19.481 dân quân tại khu
vực Gò Đất, trong đó có 13.524 dân quân VN, 2849 thường dân bị thương, và 3.108
bộ đội VN tử vong.
Về
phía Trung Quốc tổng cộng 27.152 binh sĩ tử vong trong cả hai hướng Quảng Tây
và Vân Nam. Ngoài ra một vòng chiến tranh đẫm máu nhất vào những năm 1980-1989,
một phần quân đội Trung Quốc bị xóa sổ hơn 18.570 thương vong trong suốt thời
gian chiến tranh tại Việt Nam, các lực lượng chiến đấu kết quả của hai quốc gia
Việt Nam-Trung Quốc đem người sống đổi xác chết và tù binh trên 45.203 binh sĩ,
con số này có thể cao hơn.
Việt
Nam phản công chống lại Trung Quốc đã sử dụng trên 63.800 tấn đạn dược, về phía
Trung Quốc hực hiện chiến tranh đổ tốc hết đạn pháo, bao gồm đạn cá nhân, tính
từ viên đạn đầu ngày khởi chiến cho đến ngày rút quân cả thảy 75.078.450 viên đạn
bốc lửa trong cuộc chiến, quân đội Trung Quốc với 1268 xe tăng, vết thương chiến
tranh 348 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy, 234 khẩu pháo và súng cối hạng nặng
liên tiếp hóa thành sắc trên chiến trường bởi quân đội Việt Nam. Sơ khởi tổng kết
Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc chi phí khoảng 19.756 binh sĩ tử vong,
bao gồm cả 955 binh sĩ mất tích. Theo báo cáo Vân Nam mất tích 1512 binh sĩ,
1016 tù binh, và Quảng Tây mất tích 1674 binh sĩ, 1204 tù binh.
Tổng
số Quân tham chiến tại Việt Nam trên 68.700 binh sĩ, và trên 68 tướng lãnh. Năm
1984-1989 xem như thời điểm được mùa tướng lãnh nở rộ, trên 125 tướng lãnh tham
chiến vào chiến trường Việt Nam.
Mặt
trận Tây-Bắc Việt Nam, Thống Đô đốc Dương Đắc Chí (杨得志),
Tổng tư lệnh chiến trường, tiếp nhận báo cáo binh sĩ tử vong từng ngày.
Ngày
17/02/1979, Quân đội nhân dân giải phóng Trung Quốc tham chiến. Tứ hai hướng tiến
quân Quảng Tây và Vân Nam, cùng các lực lượng "hỗ trợ trước chi phí"
(thay vì người ta gọi tử vong) 4.954 binh sĩ, bị thương 7.500 binh sĩ.
Ngày
19 tháng hai đến 27/02/1979 Quân báo cho biết tốc độ tử vong giảm xuống chỉ còn
15.000 binh sĩ thiệt mạng.
Ngày
28/02/1979 đến 16/03/1979, có đến 6.500 binh sĩ thiệt mạng.
Trên
chiến trường Việt Nam. Tình báo Trung Quốc liên lạc qua những mật mã:
-
21:00 trên đường tháng 2. (Mặt trận Tây-Bắc Việt Nam)
-
Bộ binh thành công. (Mặt trận Bắc-Đông Việt Nam)
-
Dê đẻ 17 tháng 2. (Tổng tư lệnh chiến trường)
-
Ngựa đẻ trong đêm 17.(Phó Tổng tư lệnh chiến trường)
-
Đến đầu sông. (Hậu cần, tiếp vận)
-
17-7. (Lực lượng tình báo)
-
Xiang Pizhou (Hướng Bi Châu) 7. (Pháo binh)
-
4:00 ngày 17. (xe tăng và xe bọc thép)
-
Người nộm tấn công. (bộ binh biển người)
-
Đi đầu có bạn. (bộ binh)
-
Công trường mở. (Công Binh)
-
Đầu biên giới cuối bờ biển. (Hải quân, Không quân)
Trong
những mật mã trên còn có những ngụ ý khác: Thiết lập cầu phao, quân đội tấn
công biển người, khai thác đối phương, lập phòng thủ tấn công, rút quân, các
khu vực vàng rồng, bao vây đối phương, tiêu diệt đối phương, cứ điểm mạnh, trận
chiến phía trước v.v...
Ngày
tháng trôi qua đã 8 năm chiến tranh, "phản công tự vệ chống chiến tranh Việt
Nam". Kết quả Trung Quốc chỉ gào thét yếu ớt, cho thế giới biết rằng:
"Trung Quốc bảo vệ quê hương bản xứ của các tỉnh phía Nam". Để rồi cả
nước Trung Quốc phải trả một chi phí biển người bằng con số sinh mạnh không bao
giờ đáp số.
Bắc
Kinh tổn thất binh mã, từ ngày 17/02/1979 đến ngày 13/10/1989. Theo danh sách
binh sĩ tử vong lấy xác được:
Lưu
ý: Số lượng các thành phố có nguồn gốc chi phí (tử vong) trong trận chiến tranh
tại biên giới Việt Nam, chưa cập nhật đầy đủ tổng số.
-
Vân Nam 5950 binh sĩ tử vong cho đảng. (người ta gọi cho kêu Thánh Tử Đạo)
-
Quảng Tây, Khu tự trị Choang 5824 binh sĩ tử vong.
-
Quảng Đông, 3970 binh sĩ tử vong.
-
Hồ Nam, 3288 binh sĩ tử vong.
-
Quý Châu, 3057 binh sĩ tử vong.
-
Tứ Xuyên, 1705 binh sĩ tử vong.
-
Hà Nam, 871 binh sĩ tử vong.
-
Hồ Bắc, 747 binh sĩ tử vong.
-
Sơn Đông, 638 binh sĩ tử vong.
-
Giang Tô, 580 binh sĩ tử vong.
-
Trùng Khánh, 519 binh sĩ tử vong.
-
Giang Tây, 486 binh sĩ tử vong.
-
Phúc Kiến, 354 binh sĩ tử vong.
-
An Huy, 247 binh sĩ tử vong.
-
Hà Bắc, 295 binh sĩ tử vong.
-
Chiết Giang, 289 binh sĩ tử vong.
-
Thiểm Tây 97 binh sĩ tử vong.
-
Hải Nam, 171 binh sĩ tử vong.
-
Sơn Tây, 156 binh sĩ tử vong.
-
Thượng Hải, 155 binh sĩ tử vong.
-
Cam Túc, 124 binh sĩ tử vong.
-
Liêu Ninh, 168 binh sĩ tử vong.
-
Bắc Kinh, 167 binh sĩ tử vong.
-
Hắc Long Giang, 151 binh sĩ tử vong.
-
Cát Lâm, 89 binh sĩ tử vong.
-
Thiên Tân, 56 binh sĩ tử vong.
-
Ninh Hạ, Khu tự trị, 46 binh sĩ tử vong.
-
Nội Mông Cổ, Khu tự trị 33 binh sĩ tử vong.
-
Thanh Hải, 23 binh sĩ tử vong.
-
Tân Cương, Khu tự trị 22 binh sĩ tử vong.
Hiện
nay Bắc Kinh lập 30 nghĩa trang liệt sĩ "Phản công tự vệ chống Việt
Nam". Hằng ngày khói hương nghi ngút. Có những mộ bia người chết phản đối
người sống. "我们认为, 人的海洋, 发誓,
没有中国共产党的生活" (Ngã môn nhận vi, nhân đích hải
dương, phát thệ, một hữu Trung Quốc Cộng Sản Đảng đích sinh hoạt). Tạm dịch:
"Ta đã làm ma biển người, nay thề rằng không chung sống cùng đảng cộng sản
Trung Quốc".
Huỳnh Tâm
danlambaovn.blogspot.com
_________________________________
Những phần đã đăng:
danlambaovn.blogspot.com
_________________________________
Những phần đã đăng:
CS
dùng dân tộc VN, đổi vũ khí cướp chính quyền
Anh nằm xuống bên kia chiến lũy
Hãy thấy rõ kẻ địch, người thù
Anh nằm xuống bên kia chiến lũy
Hãy thấy rõ kẻ địch, người thù
Ai
đem bom đạn cày nát đất Tổ
Mùa Xuân khói lửa ngút trời
Biên giới tiếp tục tanh thuốc súng
Chân trời biên giới, gặp lại bạn hay thù
Binh đoàn mồ ma biên giới
Mùa Xuân khói lửa ngút trời
Biên giới tiếp tục tanh thuốc súng
Chân trời biên giới, gặp lại bạn hay thù
Binh đoàn mồ ma biên giới
No comments:
Post a Comment