Thursday, November 3, 2011

BÀN LUẬN VỀ MÔ HÌNH TRUNG HOA : ĐỐI THOẠI GIỮA FUKUYAMA & ZHANG WEIWEI [1/2] (New Perspective Quaterly)



New Perspective Quaterly   Vol 28. Fall 20

Phạm Gia Minh dịch
Posted by basamnews on 04/11/2011

Francis Fukuyama là thành viên cao cấp tại Trung tâm mang tên Olivier Nomellini, thuộc Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế Freeman Spogli, Đại học Stanford, đồng thời là tác giả các cuốn sách nổi tiếng “Sự cáo chung của Lịch sử”; “Con người cuối cùng và cội nguồn của các trật tự chính trị”.
Zhang Weiwei là giáo sư tại Đại học Ngoại giao và quan hệ quốc tế Geneva, thành viên cao cấp tại Viện Chungqiu và giáo sư mời của Đại học Phục Đán, Trung Quốc. Ông cũng là tác giả của cuốn sách “Làn sóng Trung Hoa: sự trỗi dậy của một nhà nước văn hiến”.

------------------------

Francis Fukuyama:

Trong lịch sử thế giới, sự phát triển của nhà nước Trung Hoa có một tầm quan trọng đặc biệt. Ở Phương Tây, người ta quen mô tả sự phát triển của các thể chế theo những chuẩn mực dựa trên thực tiễn Châu Âu, trong khi đó lại quên một sự thật: Trung Hoa là nơi đầu tiên mà nhà nước đã được hình thành, tức là khoảng 1700 – 1800 năm sớm hơn Châu Âu.
Cho tới nay có 3 loại hình thể chế chính trị trên thế giới. Loại thứ nhất là nhà nước – một tổ chức được xây dựng theo cấu trúc thứ bậc có chức năng tập trung, thâu tóm và sử dụng quyền lực nhằm thực thi luật lệ trong một số lĩnh vực cụ thể. Xưa nay, nói đến nhà nước tức là nói đến năng lực buộc người dân phải thực thi luật lệ. Thế còn nhà nước hiện đại thì sao? Ở đây tôi dùng định nghĩa của Max Webber cho rằng nhà nước hiện đại thì không dựa trên quan hệ bạn bè và gia đình. Việc tuyển dụng vào làm việc không được căn cứ vào mối quan hệ riêng với người nắm quyền lực. Thay vào đó, họ cần phải được đối xử khách quan với tư cách là những công dân có những khoảng cách nhất định đối với người cầm quyền. Điều này là đi ngược lại với các nhà nước thời xưa được điều hành bởi các mối quan hệ gia đình hay dòng tộc của kẻ cầm quyền.
Loại hình nhà nước thứ hai là thể chế pháp trị. Đó không phải chỉ đơn thuần là có luật pháp bởi lẽ mọi quốc gia đều có các bộ luật của mình, tuy nhiên ở đây , luật phải phản ánh được sự đồng thuận về mặt đạo đức trong cộng đồng và phải là mục tiêu cao hơn ý chí của bất kỳ cá nhân hay tập thể nào đang điều hành nhà nước. Nói cách khác, nếu như hoàng đế, tổng thống, vua hay thủ tướng mà soạn ra luật theo ý riêng của mình thì đó không phải là nhà nước pháp quyền. Thể chế pháp quyền đòi hỏi chính quyền ở cấp cao nhất cũng phải tuân thủ luật pháp.
Thể chế chính trị cuối được đặc trưng bởi nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm chính trị, nơi mà chính phủ phải luôn có trách nhiệm trước nhân dân. Điều này hoàn toàn đối lập với tình trạng điều hành đất nước nhưng chỉ nhằm phục vụ các mục đích riêng của giới cầm quyền. Có rất nhiều quốc gia trên thế giới nơi mà những kẻ cầm quyền coi đất nước như phương tiện để làm giàu cho bản thân và gia tộc. Hiển nhiên đó không phải là những quốc gia có sự giải trình minh bạch. Ở Hoa kỳ và các nước Phương Tây chúng tôi liên kết tính giải trình và chịu trách nhiệm với các giá trị dân chủ. Tính giải trình và chịu trách nhiệm chính trị luôn có ý nghĩa rộng hơn bầu cử dân chủ.
Hình thức giải trình và chịu trách nhiệm sơ khai đã hình thành ở Anh vào thế kỷ 17 khi mà Quốc vương phải giải trình trước quốc hội đại diện cho vẻn vẹn có 1% dân số Anh. Theo cách hiểu ngày nay thì không thể coi đó một hình thức dân chủ. Thế nhưng tôi tin rằng ở Trung Quốc mọi người đều biết phải có một sự giải trình và chịu trách nhiệm mang tính đạo đức, có nghĩa là chính quyền hoàn toàn không phải giải trình và chịu trách nhiệm thông qua bầu cử nhưng phải thấy được trách nhiệm trước công chúng trên nền tảng của sự giáo dục và tu thân , rèn luyện theo tinh thần của các bậc hoàng đế và vua chúa. Điều này, theo tôi nghĩ mới chính là ý nghĩa bao trùm của sự giải trình và chịu trách nhiệm chính trị ở Trung Quốc – đó là giải trình có nội dung và sắc thái đạo đức.
Nhà nước thì luôn có xu hướng tập trung quyền lực , còn thể chế pháp quyền và giải trình và chịu trách nhiệm chính trị thì lại đặt ra những hạn chế theo phương thức , đó là, cho dù chính quyền có mạnh đến đâu chăng nữa thì nó vẫn phải được kiềm tỏa bởi pháp luật và chịu trách nhiệm giải trình trước nhân dân.
Tôi đã phát biểu rằng nhà nước đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Trung Quốc với một động cơ cũng tương tự như ở Châu Âu – đó là trước áp lực của cạnh tranh quân sự. Cả một giai đoạn dài Xuân – Thu và Chiến quốc trong lịch sử cổ đại Trung Hoa đã có rất nhiều thế lực và thực thể chính trị Trung Hoa đấu nhau quyết liệt suốt hơn 700 năm. Và chính áp lực cạnh tranh về quân sự đã buộc phải hình thành nên các thể chế chính trị hiện nay. Cần phải đánh thuế và tuyển dụng nhân viên thu thuế cũng như cần khen thưởng công trạng. Nếu chỉ tuyển dụng trong số người thân và họ hàng thì chưa chắc đã có được những tướng lĩnh quân đội tài giỏi nhất và như vậy, khó có thể thắng trận.
Ngay từ thời nhà Tần - triều đại đầu tiên đã thống nhất Trung Hoa, thì Trung Quốc đã phát triển một nhà nước có nhiều nét tương đồng với nhà nước hiện đại tới mức đáng ngạc nhiên
Các kỳ thi tuyển người làm quan được định kỳ tổ chức khi cần thiết bên cạnh một hệ thống quan liêu được sắp xếp hợp lý theo tuyến và quân đội tuy được bố trí trên một lãnh thổ rộng lớn nhưng được tổ chức chặt chẽ bởi những quy định chung. Sự ra đời của nhà nước hiện đại nhưng lại diễn ra cách đây tới 2300 năm, tức là trước Công nguyên 231 năm rõ ràng là một thành tựu lịch sử vĩ đại.
Điều mà Trung Quốc đã không phát triển được đó chính là thể chế chính trị pháp quyền và thể chế giải trình và chịu trách nhiệm chính trị công khai. Nguyên nhân vì sao Trung Quốc không có thể chế pháp quyền lại nằm ở một đặc điểm lịch sử quan trọng: ở Trung Quốc không có một tôn giáo nào mang tính áp đảo. Cá nhân tôi vẫn cho rằng ở đa số các quốc gia , thể chế pháp quyền được hình thành bên ngoài tôn giáo bởi lẽ tôn giáo thường đóng vai trò như ngọn nguồn của những quy định đạo đức và được trông nom bởi một trật tự thứ bậc có tính pháp lý riêng biệt – đó là tòa án tôn giáo với các thẩm phán, hội đồng xét xử và linh mục. Điều này là có thực ở Do thái Israel cổ đại, Phương Tây Thiên Chúa giáo, Ấn độ Hồi giáo và Hindu. Trong các xã hội đó mặc nhiên đã hình thành những ràng buộc pháp lý mang dấu ấn tôn giáo đối với các đại diện chính quyền .Tuy nhiên Trung Quốc đã không có được sự hỗ trợ tôn giáo độc lập như vậy và nó cũng vắng mặt trong truyền thống Trung Hoa. Bởi lẽ đó sự giải trình và chịu trách nhiệm một cách dân chủ dân chủ đã không xảy ra nơi đây, dù chỉ là hình thức.
Phương Tây lại phát triển theo cách hoàn toàn khác. Dưới thời phong kiến ở Châu Âu đã bắt đầu có hình thái pháp quyền. Nhà thờ Thiên chúa giáo đã phát minh ra Bộ Luật vào thế kỷ 11, tức là trước cả khi ra đời nhà nước Châu Âu kiểu cận đại. Các vị vua, chúa ở Âu châu cũng giống như vua chúa ở Trung Hoa đã khởi đầu một quá trình hình thành nên những nhà nước tập trung, quan liêu hùng mạnh vào thế kỷ 16 và 17. Tuy nhiên họ đã làm những điều đi ngược với nền tảng được tạo nên bởi các ràng buộc pháp luật (mang dấu ấn tôn giáo – ND) từng hạn chế khả năng tập trung quyền lực của họ.
Cội nguồn của dân chủ Phương Tây là sản phẩm của những ngẫu nhiên lịch sử. Tất cả các quốc gia Âu châu phong kiến thời trung cổ đều có hình thức định chế có tên gọi là nghị viện, quốc hội hay tòa án tối cao. Đó là những cơ quan mà Vua chúa phải cần đến khi họ muốn tăng thuế. Ở Anh quốc, nghị viện trên thực tế đã tỏ ra hữu hiệu , mạnh mẽ và đã tuyên chiến với Vua. Vua James II đã bị lật đổ năm 1688 và sau đó nghị viện đã chọn ra một vua khác để thay thế. Bởi vậy, ý tưởng về một sự giải trình và chịu trách nhiệm trước một nghị viện được bầu ra thực chất đã có từ thời cuộc cách mạng vẻ vang năm 1688. Xét theo nhiều góc độ, sự ra đời của dân chủ ở Âu châu là kết quả của những diễn biến tại Anh. Ở một mức độ nhất định, điều này rất đáng được ghi nhận bởi lẽ thể chế pháp quyền và sự giải trình đã đặt nền móng vững chắc cho chế độ bảo vệ tác quyền ở Anh , sự phát triển kinh tế mạnh mẽ và sự trỗi đậy của chủ nghĩa tư bản và cách mạng công nghiệp.
Ở Phương Tây ngày nay chúng ta có thể nhận thức được một số cơ sở của thể chế quản trị xã hội. Hiển nhiên có rất nhiều sự khác biệt giữa Phương Tây và Trung Quốc. Trung Quốc ngày nay là do ĐCS lãnh đạo dựa trên học thuyết Marxism mà không phải là tư tưởng Khổng giáo. Nhưng ở nhiều khía cạnh khác , cơ cấu quản trị xã hội ở Trung Quốc ngày nay lại rất giống với những gì đã từng tồn tại dưới triều đại Tần Thủy Hoàng. Đó là một chính phủ quan liêu tập trung có chất lượng cao được xây dựng trên sự tuyển chọn khách quan và các luật lệ mang tính hình thức. Bối cảnh lịch sử là như vậy.
Bây giờ cho phép tôi được trình bày về mô hình Trung Quốc. Vậy mô hình này đã được hình thành như thế nào? điểm mạnh và yếu của nó ra sao? và hệ thống Trung Hoa thuộc vào loại hệ thống kiểu gì?
Đặc điểm đầu tiên đó là một chính phủ tập trung, quan liêu và toàn trị. Di sản đó được truyền lại từ thời xa xưa trong lịch sử Trung Hoa khi mà chính quyền đã đạt được mức độ thể chế hóa cao trong nội bộ cũng như đối với bộ máy quan liêu rất phức tạp có chức năng cai quản cả một xã hội rộng lớn. Ngày nay trong chính phủ Trung Quốc tính giải trình và chịu trách nhiệm chủ yếu được thực hiện theo chiều từ cấp dưới lên cấp trên trong hệ thống do ĐCS lãnh đạo, thay vì Hoàng đế hay vua như trước kia. Đó là cách thể hiện tính giải trình và chịu trách nhiệm của hệ thống này.
Nếu anh là một quan chức và chính phủ muốn trừng phạt anh thì họ có thể bắt anh phải giải trình và chịu trách nhiệm. Tuy nhiên lại không có sự giải trình theo chiều từ trên xuống dưới để cho thấy cấp trên sẽ chịu trách nhiệm ra sao đối với những người bị lãnh đạo ở cấp dưới. Tình trạng này đối lập với tính giải trình và chịu trách nhiệm thực hiện theo quy trình thông qua bầu cử dân chủ. Đó là tính giải trình và chịu trách nhiệm dân chủ hiện nay.
Tính giải trình và chịu trách nhiệm của Trung Quốc mang nội dung đạo đức nhiều hơn là thủ tục. Tính chịu trách nhiệm về đạo đức có nghĩa là người lãnh đạo phải biết cảm nhận về trách nhiệm đạo đức của mình trước người dân . Nếu các bạn quan sát trên thế giới các chế độ toàn trị hiện đại khá thành công thì sẽ thấy chúng đều tập trung ở Đông Á, chẳng hạn như Hàn quốc, Đài loan dưới thời Quốc dân đảng, Singapore dưới thời Lý quang Diệu, Nhật bản trong giai đoạn đầu của sự phát triển tư bản , khi chưa có dân chủ, và tất nhiên cả nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nữa.
Nói cách khác, kiểu giải trình và chịu trách nhiệm này hoặc ít hoặc nhiều là một nội hàm của văn hóa Trung Hoa, bởi lẽ theo Khổng giáo thì chịu trách nhiệm về đạo đức là một truyền thống. Cũng có nhiều chính quyền toàn trị nơi mà kẻ cầm quyền cho rằng làm chính trị có nghĩa là lấy của cải từ người khác về cho gia đình mình hoặc bạn bè. Thế nhưng Trung Quốc không có truyền thống đó.
Yếu tố thứ hai trong mô hình Trung Hoa đó là kinh tế. Ở đây tôi không cho rằng Trung Quốc khác các quốc gia tăng trưởng nhanh ở Đông Á nhiều . Cũng như họ, mô hình Trung Quốc dựa trên định hướng xuất khẩu và vai trò tích cực của các chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa.Tuy vậy, cũng có một số khác biệt trong chính sách của Hàn quốc và Nhật bản. Đối với trường hợp Trung Quốc thì chính sách công nghiệp không đặt ra các mục tiêu một cách rõ ràng lắm, ví dụ như chỉ tiêu cho các ngành bán dẫn, thép hay đóng tàu. Nói chung, chính phủ Trung Quốc chú trọng nhiều hơn tới các phương tiện hạ tầng cơ sở , tài chính, đồng thời áp dụng một chế độ tỷ giá giúp cho xuất khẩu của Trung Quốc cạnh tranh, hơn là lựa chọn những người chiến thắng trong thi đua kinh tế. Tuy nhiên, Trung Quốc không nghiêng về xu hướng dựa hoàn toàn vào kinh tế thị trường trong quá trình phát triển của mình. (tức là vẫn dựa chủ yếu vào khu vực doanh nghiệp nhà nước – ND )
Yếu tố tiếp theo trong mô hình Trung Quốc đó là một hệ thống an sinh xã hội khá khiêm tốn nếu như so sánh với các nước phát triển, cụ thể là Tây Âu và Scandinavia (là các nước theo xu hướng Xã hội Dân chủ kiểu Bắc Âu có một số điểm gần với CNXH – ND). Trung Quốc cố gắng đạt mức đảm bảo việc làm cao với khởi điểm ban đầu khá thấp. Vẫn còn nhiều việc phải làm để giúp những người nghèo và giảm bớt sự cách biệt về của cải cho dù về danh nghĩa Trung Quốc vẫn là một xã hội Marxist. Một trong những kết quả phát triển của Trung Quốc đó là hệ số Gini mà các nhà kinh tế dùng để đo độ bất bình đẳng đang có xu hướng tăng nhanh trong mấy thế hệ gần đây. Rõ ràng là chính phủ Trung Quốc thừa nhận đó là một vấn đề. Sự chênh lệch về mức sống giữa thành thị , chẳng hạn như Thượng hải và các vùng nội địa quả là rất lớn. Các nước Bắc Âu , ví dụ như Đan mạch, Nauy là những quốc gia có chế độ an sinh phát triển đã hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp trong khi đó Trung Quốc làm được rất ít trong lĩnh vực này.
Bây giờ hãy thử so sánh hai thể chế vừa nêu để thấy những ưu và nhược điểm của chúng. Một bên là mô hình Trung Quốc, còn bên kia là mô hình dân chủ tự do được hiện thân bởi các quốc gia dân chủ như Anh, Mỹ, Pháp,Italy và một số các nước đang phát triển , ví dụ như Ấn độ.
Mô hình Trung Quốc có những ưu điểm cơ bản , một trong số đó là quá trình ra quyết định . Đứng về góc độ này thì sự khác biệt giữa Trung Quốc và Ấn độ là quá rõ ràng. Trung Quốc rất mạnh trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng : sân bay lớn, đường sắt cao tốc,cầu và đê đập nhờ vào cơ cấu chính quyền tập trung nên có thể thực hiện nhanh hơn các dự án đó. Ấn độ là một đất nước vùng nhiệt đới sẵn mưa nhưng hạ tầng cơ sở của thủy điện lại kém xa Trung Quốc. Tại sao vậy ? Câu trả lời là : bởi vì Ấn độ là đất nước có chính phủ dân chủ đặt nền móng trên pháp luật.
Khi mà Trung Quốc xây đập Tam hiệp thì đã rất nhiều ý kiến phê phán và chống đối, tuy nhiên chính phủ vẫn cứ làm theo ý định riêng của mình. Trái lại, mấy năm trước, công ty Tata auto dự tính xây một nhà máy sản xuất ôtô ở Tây Bangalore và đã gây nên những cuộc biểu tình phản đối, bãi công và thậm chí các công đoàn và tổ chức nông dân còn đâm đơn kiện. Cuối cùng thì ý tưởng đó đã phải hủy bỏ trước sự phản kháng chính trị mạnh mẽ.
Quả thực trong một số quyết định kinh tế, hệ thống độc đoán kiểu Trung Quốc đã tỏ rõ ưu điểm của mình. Trong trường hợp của Mỹ, chúng tôi có một chính phủ hoạt động theo luật pháp và chịu trách nhiệm giải trình trước các cử tri . Tuy không đến nỗi tồi tệ như Ấn độ trong quá trình ra quyết định nhưng chúng tôi cũng có những vấn đề trong hệ thống chính trị của mình, ví dụ như thâm hụt ngân sách dài hạn. Bất cứ chuyên gia nào cũng đều biết rằng tình trạng thâm hụt ngân sách làm cho nền kinh tế thiếu bền vững và sẽ còn tồi tệ hơn dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay. Thế nhưng hệ thống chính trị hiện nay của chúng tôi đang bị tê liệt trong việc ra quyết định bởi vì còn vướng vào chuyện đối đầu giữa hai đảng Cộng hòa và Dân chủ.
Các nhóm lợi ích của chúng tôi rất mạnh và có khả năng phong tỏa một số quyết định. Ngay cả khi các quyết định đó là hợp lý xét về dài hạn nhưng cuối cùng lại không được chấp thuận, đơn giản chỉ vì gặp phải sự chống đối của một số nhóm lợi ích khác. Đó là một vấn đề đau đầu mà nước Mỹ đang gặp phải. Nếu chúng ta có khả năng thay đổi tình trạng bế tắc này trong một vài năm tới thì mới có thể khẳng định rằng hệ thống dân chủ của Mỹ sẽ thành công trong tương lai dài hạn.
Trung Quốc có rất nhiều ưu điểm khác không bắt nguồn từ lịch sử và văn hóa. So với thế hệ trước, người Trung Quốc hiện nay tương đối ít bị hệ tư tưởng chi phối và chính phủ cũng đã thử nghiệm nhiều đổi mới. Những đổi mới này nếu hiệu quả sẽ được đưa vào áp dụng, còn nếu không , sẽ bị loại bỏ. Trong khi đó chính phủ Mỹ lại cứng nhắc trong việc ra các quyết định kinh tế. Mặc dù Hoa kỳ được coi là rất thực dụng và có ý chí thử nghiệm những cái mới, nhưng tôi lại không chia sẻ cách nhìn nhận đó.
Vậy là hệ thống Trung Quốc có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên giờ đây cần đặt ra câu hỏi về sự bền vững của nó. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, Trung Quốc đã hành động có hiệu quả còn Hoa kỳ thì còn đang trầy trật vật lộn với thâm hụt ngân sách. Thế nhưng hệ thống nào sẽ bền vững trong hai đến ba thập niên sắp tới ? Sự ưu tiên của tôi vẫn sẽ dành cho hệ thống Hoa kỳ hơn là hệ thống Trung Quốc.
Có một số vấn đề thu hút sự quan tâm của chúng ta đến hệ thống chính trị Trung Quốc. Đầu tiên, đó là sự thiếu tính giải trình và chịu trách nhiệm của cấp trên đối với cấp dưới. Nếu các bạn nhìn vào lịch sử các triều đại Trung Hoa thì điều thường thấy đó là hệ thống tập trung quan liêu đó luôn thiếu thông tin và kiến thức về xã hội bên ngoài dẫn đến kết cục là một sự quản trị kém hiệu quả. Đặc tính quan liêu luôn mang lại tình trạng tham nhũng và điều hành yếu kém. Trong chừng mực nào đấy,vấn đề này vẫn còn ở Trung Quốc hiện nay.
Tất nhiên là có nhiều cơ hội để thu thập thông tin, chẳng hạn như chúng ta vẫn dùng Internet và nhiều hình thức công nghệ truyền thông hiện đại để làm việc này. Tuy nhiên vấn đề lại chính ở chỗ liệu chính quyền có khả năng đáp ứng nguyện vọng và tình cảm của quần chúng cũng như tôn trọng ý kiến của họ về cách quản trị xã hội hay không. Do vậy, tính giải trình và chịu trách nhiệm đối với quần chúng cần phải được thể chế hóa thông qua bầu cử để làm sao các nhà lãnh đạo luôn có cảm giác biết sợ. Nếu họ không làm việc đúng đắn thì họ sẽ không được bầu nữa.
Vấn đề thứ hai tuy không còn tồn tại trong hệ thống Trung Hoa nhưng vẫn thu hút sự quan tâm, đó là câu truyện muôn thưở về “ ngụy vương” ( hay ông vua tồi tệ, kém cỏi – ND ) trong lịch sử Trung Quốc. Không có gì phải nghi ngờ khi bộ máy chính quyền có các quan chức được đào tạo tử tế, đủ năng lực hoặc những chuyên gia kỹ thuật đáp ứng nhu cầu xã hội thì sẽ hiệu quả hơn một chính quyền dân chủ trong ngắn hạn. Có được một vị “ vua anh minh” chưa thể đảm bảo rằng sẽ không còn “ ngụy vương” xuất hiện sau này. Chưa có hệ thống giải trình và chịu trách nhiệm để thay thế “ngụy vương” một khi con người này xuất hiện , và làm sao có thể tìm được một vị “vua anh minh”? Và có cách nào để đảm bảo rằng vị vua anh minh sẽ giúp tái hiện những vị vua anh minh nối tiếp hết thế hệ này sang thế hệ khác ? Không có lời giải sẵn cho những câu hỏi này.
Còn một vấn đề khác nữa trong mô hình kinh tế. Mô hình hướng vào xuất khẩu là phù hợp với Trung Quốc khi nền kinh tế quốc gia còn nhỏ nhưng nó sẽ phải thay đổi để trở nên một hệ thống phù hợp và hiệu quả để đuổi kịp các nước đã công nghiệp hóa. Hiện nay Trung Quốc đã là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới thì mô hình hướng vào xuất khẩu đơn giản là không thể tiếp tục được nữa.
Chúng ta nhận thức rõ rằng mô hình kinh tế dựa trên nợ tiêu dùng ở Mỹ và Châu Âu cũng không bền vững và điều này đã được cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay chứng minh là đúng. Và còn nhiều vấn đề khác đang ngổn ngang, ví dụ như hệ thống Trung Quốc bị lệ thuộc nặng nề vào “sự kiềm chế tài chính” – hay nói cách khác là mức tiết kiệm chi tiêu cao sẽ dẫn đến suy giảm hiệu quả của thị trường. Bởi vậy tôi cho rằng cần phải xem xét lại mô hình kinh tế này trong dài hạn.
Điểm cuối cùng mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây, đó là vấn đề đạo đức. Tôi cho rằng chính phủ cần phải làm nhiều hơn là đưa ra những chính sách kinh tế đúng đắn. Ngay cả khi chính phủ có thể đảm bảo một sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thì đó hoàn toàn chưa thể coi là mục tiêu tối thượng. Chính phủ còn có những yêu cầu về mặt đạo đức cần đáp ứng . Ngay cả khi một hệ thống có khả năng đáp ứng đời sống vật chất dư giả cho các công dân nhưng nếu họ không thể tham gia vào quá trình phân phối của cải xã hội hoặc không được tôn trọng nhân phẩm đầy đủ thì sẽ có nhiều vấn đề phát sinh. Mùa xuân năm nay tại các nước vùng Trung đông , chúng ta đã chứng kiến một chuỗi các cuộc nổi dậy chống lại các chính phủ độc tài. Suy rộng ra, điều này cho thấy rằng quần chúng đòi hỏi được tôn trọng phẩm giá . Cuối cùng thì tôi vẫn không nghĩ rằng sự thành công chỉ phụ thuộc vào một mô hình này hay mô hình khác, và có lẽ tôi là người đầu tiên thú nhận rằng ngay cả hệ thống dân chủ của Mỹ thực sự cũng có nhiều vấn đề cần giải quyết.

Zhang Weiwei :

Trong phần trình bày của mình, TS Fukuyama đã nêu lên bốn vấn đề có liên quan tới mô hình Trung Quốc, cụ thể là tính giải trình và chịu trách nhiệm, pháp quyền, “ ngụy vương” và tính bền vững. Tôi muốn được đáp lại quan điểm của TS Fukuyama.
Những gì mà Trung Quốc đã và đang làm quả thực rất đáng quan tâm. Có lẽ Trung Quốc ngày nay là một phòng thí nghiệm lớn của thế giới về cải cách chính trị, kinh tế, xã hội, và luật pháp. Điều mà TS Fukuyama nói đã làm tôi liên tưởng tới cuộc đàm luận với tổng biên tập tờ báo Đức Die Zeit tháng 2 vừa rồi. Chủ đề lúc đó cũng là mô hình Trung Hoa. Sau chuyến thăm Thượng hải gần đây, ông TBT tờ báo đã có cảm nhận rằng có rất nhiều điểm tương đồng giữa Thượng hải và New York. Trong mắt ông ta Trung Quốc có vẻ như đang bắt chước mô hình Mỹ. Thậm chí ông ta đã đặt câu hỏi :” phải chăng không có mô hình Trung Quốc mà chỉ có mô hình Mỹ ?” Tôi khuyên ông ta nên quan sát Thượng hải kỹ hơn và hiểu thành phố sâu sắc hơn. Một người quan sát cẩn thận sẽ thấy rằng Thượng hải đã vượt New York trên nhiều phương diện.
Thượng hải không chỉ có hạ tầng “cứng” tốt hơn New York, chẳng hạn như tàu điện cao tốc, đường ngầm, sân bay, cảng và nhiều phương tiện phục vụ thương mại mà còn cả hạ tầng “ mềm” nữa. Tuổi thọ trung bình ở Thượng hải cao hơn ở New York từ 3 đến 4 năm, tỷ lệ tử vong trong trẻ sơ sinh ở Thượng hải thấp hơn ở New York. Thượng hải là nơi an toàn hơn nhiều để các cô gái có thể đi dạo trên phố vào nửa đêm. Thông điệp mà tôi gửi tới cho học giả Đức là chúng tôi đã học nhiều điều ở Phương Tây và sẽ vẫn tiếp tục học trong tương lai , nhưng có một sự thật là chúng tôi đã nhìn xa hơn cả mô hình cả của Mỹ và phương Tây . Trong một chừng mực nào đó, chúng tôi đang tìm tòi các hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, và luật pháp cho thế hệ kế tiếp. Trong quá trình đó , những vùng đã phát triển cao hơn của Trung Quốc như Thượng hải sẽ đóng vai trò tiên phong dẫn đầu. Còn bây giờ tôi muốn chia sẻ ý kiến của tôi trước những mối nghi ngại của GS. Fukuyama về mô hình Trung Hoa.

Thứ nhất, nói về tính giải trình và chịu trách nhiệm như GS Fukuyama đã tranh luận thì đây chính là hình thức dân chủ nghị viện đa đảng ở Phương Tây. Từng sinh sống ở Phương Tây hơn 20 năm, tôi cảm thấy rõ hơn bao giờ hết rằng tính giải trình và chịu trách nhiệm chính trị hầu như không hiệu quả. Nói một cách thẳng thắn, theo quan điểm của cá nhân tôi thì hệ thống chính trị Mỹ có cội rễ từ thời kỳ tiền công nghiệp hóa cho nên nhu cầu cải cách chính trị ở Mỹ cũng cấp thiết như ở Trung Quốc, nếu như không nói là nhiều hơn. Sự phân quyền trong lĩnh vực chính trị nói riêng đã tỏ ra kém hiệu quả để giải quyết các vấn đề của xã hội Mỹ ngày nay. Thực tế là hệ thống đó đã bất lực không thể ngăn cản cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. Tôi cho rằng xã hội hiện đại có lẽ cần những hình thức kiểm tra và đối trọng. Cần những đối trọng giữa các lĩnh vực chính trị, xã hội và vốn tư bản chứ không chỉ riêng một lĩnh vực chính trị. Sự phân quyền ở Mỹ có những yếu điểm của mình. Như GS Fukuyama đã phát biểu, có những nhóm lợi ích bất di bất dịch như các tổ hợp công nghiệp- quốc phòng sẽ không bao giờ từ bỏ quyền lợi của mình , và như vậy sẽ ngăn chặn các sáng kiến cải cách mà Mỹ đang cần.
Tôi cho rằng tính giải trình và chịu trách nhiệm mà Trung Quốc đang thực hiện bao trùm nhiều lĩnh vực rộng lớn hơn ở Mỹ. Cuộc thử nghiệm ở Trung Quốc bao gồm cả một loạt các lĩnh vực như kinh tế, chính trị và pháp luật. Chẳng hạn , chính quyền các cấp của chúng tôi đều có ban hỗ trợ phát triển kinh tế và tạo việc làm. Cán bộ của ban sẽ không được thăng chức nếu nhiệm vụ không hoàn thành. Tôi đã đọc bài báo của Paul Krugman, nhà kinh tế đã từng đoạt giải Nobel , trong đó ông viết rằng tăng trưởng kinh tế và việc làm hầu như ở mức “ chết” – con số O trong 10 năm qua ở Mỹ. Tuy nhiên không một huyện, tỉnh, thành phố nào của Trung Quốc trong suốt hai thập niên qua lại phải ghi nhận một kỷ lục nghèo nàn như vậy. Trái lại, thành tựu kinh tế trên toàn Trung Quốc rất ấn tượng. Điều này củng cố thêm cho thực tiễn của Trung Quốc về tính giải trình và chịu trách nhiệm trong kinh tế. Tất nhiên chúng tôi cũng có những vấn đề riêng của mình.
Cũng tương tự đối với tính giải trình và chịu trách nhiệm trong chính trị và luật pháp. Chẳng hạn như chúng tôi đang tiến hành đối thoại ở quận Jingan ở Thượng hải, đó là một quận kiểu mẫu của thành phố. Năm ngoái xảy ra một vụ hỏa hoạn thiêu rụi cả một tòa nhà chung cư trên địa bàn quận dẫn đến kết cục là khoảng 20 quan chức cấp quận thuộc các ban ngành có liên quan đã bị trừng phạt vì tội vô trách nhiệm hoặc sơ xuất trong công vụ. Đó là hiện thực của tính giải trình và chịu trách nhiệm trong chính trị và luật pháp ở Trung Quốc .
Tương phản với những gì ở Trung Quốc, cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ đã làm cho các công dân Hoa kỳ mất từ 1/5 tới 1/4 tài sản của mình. Đã 3 năm trôi qua nhưng đâu có ai ở Mỹ bị quy trách nhiệm về chính trị, kinh tế hay pháp lý. Để góp phần làm cho tình hình tồi tệ thêm, các nhà tài phiệt – những nghi phạm đã gây nên cuộc khủng hoảng tài chính lại được trọng thưởng hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu Đôla. Tuy nhiên điều làm tức giận công chúng Mỹ và cả Tổng thống Obama là những khoản tiền thưởng đó vẫn tiếp tục được trao cho các ông trùm tài phiệt đó theo điều khoản hợp đồng pháp lý mà họ đã ký kết.

Điều này làm tôi nhớ tới vấn đề thứ hai liên quan tới khái niệm pháp quyền mà G.S Fukuyama đã nêu lên. Chúng tôi xúc tiến pháp quyền ở Trung Quốc , bởi vậy trên thực tế có rất nhiều thứ cần được cải thiện . Tuy nhiên tôi cho rằng có một vài nguyên lý cơ bản trong triết học truyền thống của chúng tôi vẫn giữ nguyên giá trị và còn phù hợp. Chẳng hạn, khái niệm truyền thống về chữ “Thiên” hay “ Thiên đàng- Trời “ với ý nghĩa là lợi ích cốt lõi và lương tâm trong xã hội Trung Hoa. Đó là điều không được vi phạm.Ở Trung QuốcLuật pháp được áp dụng nghiêm chỉnh trong 99.9% các trường hợp , chúng tôi chỉ dành một không gian nhỏ , nơi mà các giải pháp chính trị trong khuôn khổ pháp quyền vẫn được áp dụng trong khi “ thiên” hay các lợi ích cốt lõi và lương tâm của xã hội bị xâm hại. Nói cách khác, cách thưởng tiền của phố Wall như đã nêu trên không bao giờ có thể xảy ra ở Trung Quốc. Bởi vậy chúng tôi cố gắng phá vỡ sự cân bằng giữa pháp quyền và “ thiên” . Đó là cái mà Trung Quốc muốn tìm kiếm cho chế độ pháp lý trong tương lai. Nếu không, chúng tôi sẽ trở thành nạn nhân của cái được gọi là chủ nghĩa tuân thủ pháp luật thái quá rất có thể gây tổn hại cho một xã hội phức tạp và lớn như Trung Quốc.

Về vấn đề “ ngụy vương” đã có ngay lời giải . Theo ước tính sơ bộ của tôi trong lịch sử có cả “ ngụy vương” và “ minh vương” thì ít ra cũng có tới 7 triều đại kéo dài được hơn 250 năm. Nói cách khác, đó là quãng thời gian dài hơn cả toàn bộ lịch sử Hoa kỳ.Đúng ra thì toàn bộ lịch sử cận đại của Phương Tây mới chỉ được khoảng hai- ba trăm năm nhưng đã chứng kiến nào là chế độ nô lệ,chủ nghĩa phát xít, vô số xung đột và hai cuộc thế chiến.
Theo quan điểm của tôi, sự đổi mới thể chế chính trị của Trung Quốc hiện nay đã giải quyết dứt điểm vấn đề “ ngụy vương”. Điều đầu tiên và trước hết, lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc được chọn lựa theo phẩm chất , công trạng mà không theo “cha truyền con nối”. Thứ hai là, nhiệm kỳ công tác được quy định nghiêm ngặt, lãnh đạo tối cao không phục vụ quá 2 nhiệm kỳ. Thứ ba là, lãnh đạo theo nguyên tắc tập thể, có nghĩa là không cá nhân lãnh đạo nào có thể đi quá lệch khỏi sự đồng thuận của nhóm . Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, tuyển chọn người tài là một truyền thống lâu đời ở Trung Quốc và các nhà lãnh đạo cao cấp hoặc các ủy viên thường trực BCT ĐCS Trung Quốc được bầu chọn với tiêu chí thông thường là đã phải qua hai nhiệm kỳ là chủ tịch tỉnh hoặc bộ trưởng.
Như các bạn biết, không hề dễ dàng để lãnh đạo một tỉnh ở Trung Quốc , thường có tầm cỡ của 4 tới 5 quốc gia Châu Âu. Hệ thống này có thể có những yếu điểm nhưng có một điều chắc chắn rằng với hệ thống tuyển chọn nhân tài đó thì Trung Quốc khó có thể lại bầu ra một lãnh đạo tầm cỡ quốc gia bất tài như George.W.Bush hoặc Naoto Kan ở Nhật bản. Thực ra , tôi không quan tâm đến vấn đề “ ngụy vương” ở Trung Quốc bằng vấn đề “ George .W.Bush “ ở Mỹ.
Nếu hệ thống chính trị Hoa kỳ vẫn sẽ như hôm nay thì tôi thực sự lo rằng Tổng thống Mỹ sắp tới sẽ còn bất tài hơn cả George.W.Bush . Với tư cách là một siêu cường, các chính sách của Mỹ có ảnh hưởng toàn cầu cho nên một sự thiếu vắng lãnh đạo hay tính giải trình và chịu trách nhiệm ở Mỹ sẽ có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Tôi muốn nghe quan điểm của G.S Fukuyama về vấn đề “ George. W.Bush”. Tổng thống Bush đã điều hành đất nước tồi nên Mỹ đã suy thoái mạnh sau tám năm cầm quyền. Ngay cả một đất nước như Hoa kỳ cũng không thể chịu đựng nổi thêm tám năm suy thoái nữa.
Về tính bền vững của mô hình Trung Quốc, trong cuốn sách mới đây của tôi nhan đề “Làn sóng Trung Hoa” , tôi đã đưa ra luận điểm rằng Trung Quốc là một nhà nước văn hiến có một không hai , với logic và chu kỳ phát triển riêng của mình. Bởi thế cho nên ý tưởng về các “ triều đại” là rất có ích ở đây. Một triều đại hưng thịnh ở Trung Quốc thường kéo dài từ 200 đến 300 năm , có khi lâu hơn và logic này đã được kiểm chứng trong 4000 năm qua. Từ viễn cảnh đó thì Trung Quốc hiện nay mới đang ở giai đoạn đầu của một chu kỳ đi lên. Đó cũng là lý do vì sao tôi lại lạc quan về tương lai của Trung Quốc đến vậy.
Sự lạc quan của tôi còn có chỗ dựa là khái niệm “ khí ” hay còn gọi là xu hướng chủ đạo là thứ mà rất khó quay ngược lại , một khi đã được bắt đầu. Xu hướng phát triển được khởi đầu ở Nhật bản nhờ cải cách của Minh Trị vào cuối thế kỷ 19 , trong khi đó Trung Quốc đã không làm được điều này do sức ỳ bên trong quá lớn, tức là “ âm khí” vượng. Ngày nay “ vận khí “ hay xu hướng chủ đạo mới đã được bắt đầu và tạo được đà mạnh mẽ sau 3 thập kỷ cải cách và mở cửa. Xu thế chủ đạo này khó có thể bị đảo ngược cho dù vẫn có những làn sóng ngược chiều. Vận khí này đang định hình xu hướng chủ đạo đại chu kỳ phát triển của Trung Quốc. Điều không hay là có nhiều học giả Phương Tây không hiểu điều này nên đã đưa ra những dự báo bi quan về một sự “sụp đổ” của Trung Quốc từ 20 năm nay. Thay vào sự sụp đổ của Trung Quốc thì chính những dự báo đó đã sụp đổ. Một số người Trung Quốc trong nước vẫn còn nghiêng về lập trường bi quan này , nhưng tôi nghĩ rằng lập trường đó cũng sẽ “sụp đổ” mà không phải đợi tới 20 năm nữa.
G.S Fukuyama có nhắc tới sự quá lệ thuộc của mô hình Trung Quốc vào thương mại. Quả thực Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào ngoại thương, thế nhưng sự phụ thuộc đó hơi bị thổi phồng . Ngoại thương chiếm một tỷ trọng lớn GDP nếu tính theo tỷ giá hối đoái chính thức. Thế nhưng ngoại thương được tính theo US $ , phần còn lại của GDP thì lại được tính theo Nhân dân tệ được định giá thấp hơn thực tế. Do vậy , theo tôi thì sự phụ thuộc vào ngoại thương bị đánh giá quá cao so với thực tế.
Nhìn về tương lai thì có thể nhu cầu nội địa của Trung Quốc sẽ lớn nhất thế giới. Quá trình đô thị hóa Trung Quốc cho tới năm 1998 còn chưa được khởi động. Nhưng từ nay trở đi sẽ có tới 15-25 triệu dân cư chuyển ra thành thị hàng năm ở Trung Quốc. Một mức độ đô thị hóa chưa từng có trong lịch sử loài người sẽ tạo ra nhu cầu khổng lồ của thị trường nội địa, theo ước tính sẽ còn lớn hơn cả nhu cầu gộp lại của toàn bộ các nước phát triển trong tương lai.
Nếu nói về sự tôn trọng các giá trị cá nhân, tôi không nghĩ là có sự khác biệt lớn giữa Trung Quốc với phần còn lại của thế giới.Mục tiêu cuối cùng thì đâu cũng vậy , đều là tôn trọng và bảo vệ những giá trị và quyền con người. Nhưng sự khác biệt chính là ở phương tiện để đạt mục tiêu đó. Trung Quốc có truyền thống triết lý riêng tương phản với triết lý về cá nhân ở Phương Tây và cách tiếp cận của Trung Quốc dựa trên truyền thống của mình mang lại những kết quả tốt hơn để khuyến khích các giá trị và quyền con người.
Tôi mô tả vấn đề này qua ví dụ về các cách tiếp cận khác nhau giữa Đặng Tiểu Bình và Mẹ Teresa . Cách của Đặng đã giúp cho gần 400 triệu người Trung Quốc thoát cảnh nghèo đồng thời mang lại giá trị cũng như quyền con người ,chẳng hạn : họ có thể xem TV, lái xe trên đường cao tốc , lướt Internet hay Blog để bình luận về đủ mọi vấn đề. Thế nhưng ở Ấn độ , dù bằng phương pháp cá nhân của Mẹ Teresa đã có rất nhiều người đã được giúp đỡ và Mẹ được vinh dự nhận giải Nobel về Hòa bình, nhưng bức tranh về đói nghèo ở Ấn độ vẫn không thay đổi nhiều.
Tôi muốn đề cập tới sự tham gia của công chúng vào quá trình ra quyết định. Quả thực tôi rất hy vọng là G.S Fukuyama sẽ có cơ hội nghiên cứu trên thực địa tại Trung Quốc. Vậy quá trình ra quyết định một cách dân chủ được tiến hành như thế nào ở Trung Quốc? Cho phép tôi đưa ra một ví dụ, ở Trung Quốc cứ 5 năm một lần chúng tôi lại xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Đó là một quá trình kết tinh của hàng chục ngàn đợt góp ý, thảo luận trên mọi cấp độ trong xã hội Trung Quốc. Theo tôi, đó mới thực sự là một quá trình ra quyết định dân chủ , có thể bảo đảm chất lượng cho các quyết định. Sự chênh nhau giữa Phương Tây và Trung Quốc nhìn theo góc độ này , chân thành mà nói , là rất lớn. Theo thiển ý của tôi thì Trung Quốc đã đạt tới “ mức sau đại học” còn Phương Tây có thể còn đang “học đại học” hoặc thậm chí còn đang “ ở cấp độ trung học” , nếu lấy việc này để làm cơ sở so sánh.
Những bất ổn ở Trung đông , thoạt nhìn có thể nghĩ là người dân theo đuổi tự do. Thế nhưng một trong những nguyên nhân gốc rễ của vấn đề , theo tôi hiểu lại không nằm ngoài lĩnh vực kinh tế. Tôi đến Cairo 4 lần. Hai mươi năm trước thành phố này tụt hậu khoảng 5 năm so với Thượng hải, còn giờ đây sự chênh lệch là 40 năm. Một nửa số người độ tuổi thanh niên thất nghiệp. Nếu không nổi loạn thì họ còn biết làm chi đây ?
Quan sát tình hình Trung đông đã đưa tôi tới kết luận rằng , trong khi có nhiều người ở Phương Tây ăn mừng Mùa xuân A rập thì đừng quá lạc quan. Tôi hy vọng rằng khu vực này sẽ ổn thỏa nhưng sẽ khó khăn trước mắt và Mùa xuân A rập ngày hôm nay có thể sẽ biến thành mùa đông A rập không lâu nữa với việc quyền lợi của Hoa kỳ sẽ bị suy yếu.Tình hình ở khu vực không khá hơn Trung Quốc hồi cách mạng Tân Hợi 1911 bởi một giai đoạn hỗn loạn kéo dài sau đó. Trung đông còn phải đi qua một con đường dài và chúng ta hãy đợi và thấy điều gì sẽ tới.

Francis Fukuyama:

Tôi xin phép trả lời từng câu hỏi một. Trước tiên,khi so sánh những hệ thống chính trị khác nhau thì tôi nghĩ rằng nên tách bạch các chính sách riêng ra khỏi các thiết chế.Có nghĩa là phải nhìn thấy sự khác nhau giữa những chính sách cụ thể do một vài lãnh đạo nào đó đưa ra với cả hệ thống tổng thể nói chung. Rõ ràng là những người ra quyết định ở Hoa kỳ đã từng phạm rất nhiều sai lầm, ví dụ như chiến tranh Iraq buộc chúng tôi phải trả giá đắt. Hay như cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ phố Wall là kết quả của hệ tư tưởng thị trường tự do, tiêu dùng gia đình quá trớn và sự sự mở rộng quá mức của thị trường bất động sản. Tuy nhiên những lỗi lầm trong chính sách là điều có thể xảy ra với mọi chế độ vào bất kỳ lúc nào. Tôi không nghĩ rằng các chế độ dân chủ lại có xu hướng đưa ra những chính sách sai lầm nhiều hơn các nhà nước độc tài. Thực tế là , các chế độ độc tài và toàn trị luôn gặp nhiều rắc rối nghiêm trọng hơn. Những sai lầm có thể tiếp tục níu kéo toàn xã hội vì không thể dễ dàng đuổi cổ những kẻ đã ra quyết định. Bởi vậy cái giá phải trả rốt cục sẽ rất lớn.
Ngài nói rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ lựa chọn một nhà lãnh đạo quốc gia như George .W.Bush. Thôi được, kể cũng hơi nặng nề khi nói như vậy. George . W.Bush làm Tổng thống trong 8 năm, nếu ngài quay trở lại với vấn đề “ ngụy vương” thì ngụy vương gần đây nhất của Trung Quốc , nói rất chân thành , chính là Mao Trạch Đông. Sự tàn phá mà Cách mạng văn hóa đã gây ra cho xã hội Trung Quốc còn nghiêm trọng hơn rất nhiều những gì mà George.W.Bush đã làm đối với xã hội Mỹ.
Ngài cũng có nhắc tới một vài đặc trưng của lãnh đạo Trung Quốc. Tôi công nhận những mặt tích cực của lối lãnh đạo tập thể và việc hạn chế nhiệm kỳ đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Nếu Gaddafi hoặc Mubarak bị hạn chế nhiệm kỳ thì Libia và Ai cập đã không bất ổn như vậy.
Ngài cũng phát biểu rằng sự đồng thuận cần đạt được trong nội bộ lãnh đạo trong khi đưa ra những quyết định quan trọng. Theo ý tôi, điều này chính là một bài học được rút ra từ Cách mạng Văn hóa. Trong quá khứ, sự đồng bóng, trái tính của một cá nhân đã gây tổn hại cho cả xã hội. Bởi vậy ĐCS đã phải lập ra những thiết chế, trong đó có quy định về nhiệm kỳ.
Tôi muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với hệ thống của Trung Quốc. Có nhiều người Mỹ không thể nhận thấy một thực tế : mặc dù Trung Quốc là quốc gia độc tài nhưng lại được thể chế hóa cao, có sự kiểm soát và đối trọng trong hệ thống của mình. Tuy nhiên chúng ta cần phải suy nghĩ về dài hạn.
Cơ cấu của thể chế hiện nay trong ĐCS Trung Quốc được tạo nền móng từ ký ức và kinh nghiệm của những người từng sống qua cuộc cách mạng văn hóa. Cho tới giờ ở Trung Quốc người ta vẫn chưa thể nói nói hết những gì về giai đoạn lịch sử đó. Các ngài không dạy thế hệ trẻ về những gì đã diễn ra trước đây , họ chưa hề trải nghiệm cách mạng văn hóa và rồi sẽ quên sự kiện đó . Nhưng vấn đề ở chỗ là điều gì sẽ xảy ra nếu như thế hệ mới không có kinh nghiệm và hiểu biết về những vết thương tâm lý trong một xã hội của nền độc tài toàn trị . Liệu họ có sẵn sàng sống với sự kiểm soát sử dụng quyền lực hiện nay không?
Bởi vậy vì sao tôi vẫn tin rằng một hình thái pháp trị có kiểm soát và đối trọng trong dài hạn sẽ có ý nghĩa sống còn chứ không chỉ dựa vào ký ức và kinh nghiệm của một thế hệ. Nếu chẳng may thế hệ tiếp theo không có những thứ đó thì họ rất có thể lặp lại sai lầm . Thể chế pháp quyền và dân chủ chính là phương tiện để gìn giữ những gì được coi là tốt, là tích cực, tiến bộ của ngày hôm nay và truyền lại cho những thế hệ sau.
Trong cuốn sách mới hoàn thành của tôi có một điều được nêu lên như một luận cứ, đó là tất cả chúng ta đều có bản chất chung của loài người. Chính vì có những đặc tính đó nên con người như chúng ta mới yêu thương gia đình, anh , chị em và con cái. Quý trọng bạn bè và gia đình là cách tự nhiên trong quan hệ xã hội giữa người với người. Tuy vậy , chúng ta không thể đặt nền móng của các hệ thống chính trị trên quan hệ bạn bè và gia tộc được. Bởi vậy, một trong những kỳ tích của nền chính trị Trung Hoa là đã thiết lập nên được hệ thống chính trị mang tính thể chế cao , không phụ thuộc vào quan hệ bạn hữa và gia đình, giòng tộc cũng như các mối quan hệ cá nhân khác.
Theo cách đó, để được nhận vào các cơ quan công quyền thì phải thi bất kể người đó có ảnh hưởng thế nào. Hệ thống tuyển chọn này đã được thể chế hóa đầy đủ từ đầu thời Tiền Hán vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Nhưng vào cuối thời Hậu Hán , khoảng thế kỷ thứ 3, hệ thống chính trị bị tầng lớp quý tộc soán quyền, chủ yếu đó là những gia tộc giàu có và nắm nhiều quyền lực. Sau đó là thời kỳ Tam quốc rất phức tạp và rối ren trong lịch sử Trung Hoa. Chủ yếu là các gia tộc giàu có đã soán quyền đồng thời thủ tiêu chế độ tuyển dụng người tài đương thời. Tôi cho rằng điều này có thể xảy ra đối với bất kỳ hệ thống chính trị nào.
Đó cũng là điều mà tôi lo ngại cho chính hệ thống của Mỹ hiện nay bởi lẽ có những tầng lớp siêu giàu. Họ có thể chăm sóc con cái họ trong những điều kiện rất hoàn hảo và gửi chúng tới những trường học rất tốt. Tất nhiên đó chưa phải là những gì đang diễn ra ở Trung Quốc nhưng có thể sẽ trở thành mối đe dọa đối với hệ thống Trung Quốc.
Bằng cách nào để có thể đảm bảo rằng tầng lớp tinh hoa lãnh đạo đất nước được tuyển chọn trên cơ sở tài năng lại không thiên vị gia tộc và bạn bè mình ? Tôi cho rằng trong mấy thập niên qua, ĐCS Trung Quốc đã làm tốt công việc . Tuy nhiên vẫn tồn tại vấn nạn tham nhũng trong toàn bộ hệ thống, vì ai mà chả muốn quan tâm nhiều hơn tới họ hàng, bạn bè và con cái của mình. Tôi cho rằng một trong những vấn đề nội tại của hệ thống thiếu sự giải trình và chịu trách nhiệm chính trị của cấp trên đối với cấp dưới và đa số quần chúng đó là rất khó ngăn cản sự len lỏi của những mối quan hệ riêng tư vào hệ thống chính trị. Đó là nan đề mà tôi cho rằng cho tới nay vẫn chưa có lời giải.
Tuy vậy, trong dài hạn, để duy trì hệ thống cho hai hay ba thập niên nữa tôi cho rằng Trung Quốc cần đẩy mạnh sự giải trình và chịu trách nhiệm của cấp trên đối với quần chúng ở dưới nhằm giải quyết nan đề này. Ít ra thì trong một hệ thống dân chủ, nếu có sai thì vẫn có thể sửa sai, đôi khi cũng mất một vài năm.
Cho phép tôi nói qua về một nhận định liên quan tới nước Mỹ. Chúng tôi đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính. Như G.S Zhang đã phát biểu là không ai bị trừng phạt. Tôi cũng nghĩ rằng điều này thật là khủng khiếp vì chúng tôi đã không buộc những người có trách nhiệm về cuộc khủng hoảng này phải chịu trách nhiệm. Tại sao lại xảy ra điều này quả là rất phức tạp.Nhưng tôi không cho rằng nó liên quan tới hệ thống chính trị dân chủ của chúng tôi . Năm 1930 đã có một cuộc khủng hoảng tài chính còn lớn hơn hiện nay dẫn tới việc bầu chọn Roosevelt làm Tổng thống và thiết lập hệ thống an sinh xã hội và điều hành chính quyền đổi mới. Người ta đã đưa ra nhiều biện pháp mạnh bởi lẽ nhân dân tức giận về những gì đã xảy ra. Hệ thống của chúng tôi đã thiết lập được một sự giải trình và chịu trách nhiệm thực sự để đối phó với những sai lầm trong chính sách như thế đó.
Theo một nghĩa nào đó, tôi thậm chí còn nghĩ rằng trong vài năm vừa rồi ở Mỹ một cách chính thức , cuộc khủng hoảng vẫn chưa tới mức quá lớn, bởi vì trên thực tế ,các nhà hoạch định chính sách trong phạm vi nào đó đã hạ thấp mức độ nghiêm trọng của nó. Bởi vậy động năng chính trị có lợi cho cải cách đã bị xói mòn và điều này giải thích tại sao chúng tôi đã không kịp thời có những cải cách chế độ điều hành. Nhưng dù sao tôi không nghĩ rằng hệ thống dân chủ của chúng tôi đã gây nên cuộc khủng hoảng hiện nay.

.
.
.

No comments: