Lam Giang
Các chế độ Độc Tài Cộng Sản tồn tại bằng đường lối chuyên chế, đàn áp và sự lừa dối trơ trẽn. Điều này đã được cả thế giới và nhân dân Việt Nam chứng minh. Đó là khởi đầu bằng việc dùng vũ lực để cướp chính quyền, sau đó xác lập một chế độ độc tài toàn trị để áp dụng những nguyên lý Cộng sản hoang tưởng.
Tất cả đều được che đậy bằng chiêu bài tự do, dân chủ và độc lập dân tộc. Thực chất đó là một chế độ độc tài kinh tởm nhất mà nhân loại từng được chứng kiến. Nó khiến cho mọi người khiếp đảm bởi tư tưởng phân biệt ý thức hệ và giai cấp nặng nề, dẫn đến những cuộc diệt chủng và thanh trừng đẫm máu. Đó là quang cảnh của địa ngục nơi trần gian nhưng được che đậy bằng những lý tưởng cao cả và hình ảnh lãnh tụ lấp lánh mang mầu sắc huyền thoại do họ dàn dựng nên.
Tất cả đều được che đậy bằng chiêu bài tự do, dân chủ và độc lập dân tộc. Thực chất đó là một chế độ độc tài kinh tởm nhất mà nhân loại từng được chứng kiến. Nó khiến cho mọi người khiếp đảm bởi tư tưởng phân biệt ý thức hệ và giai cấp nặng nề, dẫn đến những cuộc diệt chủng và thanh trừng đẫm máu. Đó là quang cảnh của địa ngục nơi trần gian nhưng được che đậy bằng những lý tưởng cao cả và hình ảnh lãnh tụ lấp lánh mang mầu sắc huyền thoại do họ dàn dựng nên.
Chế độ Cộng Sản Việt Nam từ khi cướp chính quyền (19/8/1945), cho đến nay đã sử dụng 4 bản Hiến pháp để cai trị nhân dân mình. Chúng ta sẽ thấy rõ quá trình hợp thức hóa của một chế độ Độc Tài bằng cách sửa đổi Hiến pháp như thế nào, hay nói cách khác là những kẻ cướp giả danh và lừa đảo đã hiện nguyên hình như thế nào.
Sau khi dùng vũ lực cướp chính quyền và ép buộc Vua Bảo Đại thoái vị, đến năm 1946 Đảng Cộng Sản đã hợp thức hóa chính quyền bằng một cuộc bầu cử Quốc Hội dàn dựng. Cùng năm này bản Hiến Pháp đầu tiên ra đời để lấy danh nghĩa cho một chính quyền độc tài nhưng mạo xưng là Dân chủ nhân dân. Để lừa mị dư luận quốc tế là Việt Nam có dân chủ, ngay từ Điều 1 Hiến Pháp 1946 quy định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Thực tế là trong thời điểm này, trước sự cảnh giác của dư luận quốc tế về một thể chế độc tài Cộng sản sẽ được thiết lập ở Việt Nam như ở Liên Xô và các nước Cộng sản đàn anh, nên đảng Cộng Sản đã phải chấp nhận một Quốc Hội có sự tham gia của một số đảng phái khác. Chính vì vậy mới có những quan điểm tiến bộ và dân chủ được ghi nhận trong bản Hiến Pháp này. Trong thâm tâm của đảng Cộng Sản thì họ luôn rắp tâm thiết lập một chế độ Độc tài toàn trị để áp dụng học thuyết hoang tưởng Cộng sản chủ nghĩa. Để làm được điều đó họ thực hiện quá trình đấu tố và phân biệt giai cấp, cụ thể ở đây là giai cấp Phong Kiến và Tư Sản. Đó là quá trình họ gạt bỏ các thành phần Đảng phái khác để độc chiếm quyền lãnh đạo đất nước. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhà nước Cộng sản chiếm trọn toàn bộ Miền Bắc Việt Nam.
Thực tế là trong thời điểm này, trước sự cảnh giác của dư luận quốc tế về một thể chế độc tài Cộng sản sẽ được thiết lập ở Việt Nam như ở Liên Xô và các nước Cộng sản đàn anh, nên đảng Cộng Sản đã phải chấp nhận một Quốc Hội có sự tham gia của một số đảng phái khác. Chính vì vậy mới có những quan điểm tiến bộ và dân chủ được ghi nhận trong bản Hiến Pháp này. Trong thâm tâm của đảng Cộng Sản thì họ luôn rắp tâm thiết lập một chế độ Độc tài toàn trị để áp dụng học thuyết hoang tưởng Cộng sản chủ nghĩa. Để làm được điều đó họ thực hiện quá trình đấu tố và phân biệt giai cấp, cụ thể ở đây là giai cấp Phong Kiến và Tư Sản. Đó là quá trình họ gạt bỏ các thành phần Đảng phái khác để độc chiếm quyền lãnh đạo đất nước. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhà nước Cộng sản chiếm trọn toàn bộ Miền Bắc Việt Nam.
Sau đó 6 năm thì bản Hiến Pháp thứ hai ra đời, có sửa đổi một số nội dung. Vì đang phải đối đầu với chế độ Dân chủ ở Miền Nam nên về chế độ chính trị họ vẫn sử dụng luận điệu mị dân và lừa bịp dư luận quốc tế, đó là: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân...” (Điều 4 Hiến pháp 1960). Tất cả quyền lực trong nước có thuộc về nhân dân hay không, và cái Quốc Hội và Hội đồng nhân dân mà họ nói là của dân nhưng thực chất là của ai thì nhân dân Việt Nam đã được biết. Chỉ có thể khẳng định một điều là: Tất cả quyền lực đều thuộc về Đảng Cộng sản, cả Quốc Hội và Hội đồng nhân dân!
Ngày 30/4/1975, Sài Gòn bị thất thủ và Chế độ Độc tài Cộng sản được thiết lập trên phạm vi toàn quốc, và họ gọi đó là thống nhất đất nước. Đến lúc này thì bộ mặt của kẻ Độc tài đã hiện rõ, tại điều 4 Hiến Pháp 1980 tuyên bố: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác – Lê nin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội...”. Hai bản Hiến Pháp trước chưa khẳng định Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, và chưa nói đến việc lấy học thuyết Mác – Lê Nin để làm nền tảng lý luận. Sở dĩ có điều đó là để lừa bịp và dụ dỗ nhân dân mình chiến đấu giành chính quyền với lời hứa hẹn là sẽ có được Dân chủ. Trong giai đoạn từ năm 1946 – 1975, tuy chưa hiện rõ bộ mặt thật của kẻ độc tài lừa bịp nhưng về bản chất thì họ đã áp dụng học thuyết Cộng sản và gây nên vô vàn đau khổ cho nhân dân miền Bắc.
Lúc này, khi mà đã nắm được mọi quyền hành trong tay, kẻ cướp đã không ngần ngại bộc lộ chân tướng và bản chất độc tài của mình. Đến nước này thì đã muộn, nhân dân Việt Nam ngán ngẩm lắc đầu vì bị một vố lừa đau điếng, tự do dân chủ đâu không thấy, chỉ thấy một chế độ độc tài phi lý đang hiện hữu. Sự đau khổ càng tăng lên gấp bội khi những lý thuyết Cộng sản phi lý và đầy bạo lực được áp dụng một cách mạnh mẽ và quyết liệt: Đó là xóa bỏ tư hữu, quốc hữu hóa tài sản của mọi cá nhân, áp dụng nền kinh tế tập thể, phân biệt và kỳ thị giai cấp. Tất cả như một bức màn sắt vây bủa và kìm kẹp người dân Việt Nam về mọi mặt, chân lý và niềm tin bị khủng hoảng nghiêm trọng.
Khi cảm thấy việc tự nhận mình là đại diện cho giai cấp Công nhân là không đủ và không ổn, đảng Cộng sản đã quy định tại điều 4 Hiến pháp 1992 như sau: “Đảng Cộng sản Việt nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”.
Đến nước này, tuy tức giận nhưng không ai còn có thể nhịn được cười. Bây giờ thì họ lại nhận là đại diện cho cả dân tộc, rõ là lẩm cẩm! Làm gì có đảng nào mà có thể đại diện cho toàn thể dân tộc được? Mỗi đảng phái chỉ có thể đại diện được cho một số tầng lớp và giai cấp nhất định thôi chứ? Nhưng biết làm sao được, độc tài mà, chỉ có một đảng thì phải tuyên bố như vậy chứ thế nào nữa? Nếu không tuyên bố là đảng Cộng sản đại diện cho toàn dân tộc thì phần còn lại để cho bọn “phản động” à? Bị lên án nhiều nên Hiến pháp lần này đảng Cộng sản không ghi rõ họ là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước như Hiến pháp 1980, nhưng vẫn nhận mình là lực lượng lãnh đạo đất nước. Và tất cả các đảng phái khác đều bị đàn áp và quy cho tội danh “Phản động”.
Chúng tôi viết những dòng này để hầu quý bạn đọc, để mọi người thấy được quá trình bộc lộ chân tướng và hợp thức hóa của một chế độ độc tài. Qua đó thấy rõ sự bỉ ổi và nực cười của một chế độ phi nhân đã sắp đến ngày tàn lụi. Tất cả người dân Việt Nam hãy sẵn sàng đón nhận một thời đại mới của tự do - dân chủ, và điều đó sẽ đến trong một ngày không xa!
Việt Nam ngày 27/11/2011
.
No comments:
Post a Comment