Sau
30.4.1975 tôi được đài Tiếng nói Việt Nam cử vào tiếp quản đài Truyền hình Huế.
Tuy chỉ ở Huế một năm, nhưng thành phố này đã cho tôi, chàng trai 24 tuổi, nhiều
nhận thức mới.
Ngày
đó tôi chỉ là một công nhân quèn, quèn nhất trong một cơ quan mà đa số là các kỹ
sư tốt nghiệp ở những trường đại học nổi tiếng nhất của phe XHCN. Nhờ có lý lịch
miền Nam tập kết và cái chất thợ, vừa biết cơ khí, vừa biết điện tử nên tôi được
giao nhiệm vụ này.
Cho
đến tận giữa năm 1976 cầu Hiền Lương vẫn là giới tuyến giữa hai miền Nam-Bắc,
chỉ ai có giấy phép của Ban Thống nhất Trung uơng mới được qua lại. Trong suốt
12 tháng đó tôi phải ra vào nhiều lần, lúc thì lấy phim ảnh, máy móc, lúc thì
phải ra Đại học Bách khoa học tại chức.
Vì
ba tôi có nhiều bạn bè ở Ban Thống nhất nên mỗi lần ra vào Huế, tôi lên Quốc Tử
Giám làm giấy tờ rất nhanh. Hồi đó chưa có tệ tham nhũng, sách nhiễu như ngày
nay nên không có chuyện vòi tiền. Nhưng bệnh khệnh khạng cửa quyền thì đã ngấm
vào da thịt, quan hệ vẫn cần thiết. Ban Thống nhất cũng là cơ quan kết nối giữa
quân đội và dân chính nên tôi thường chia sẻ các chuyến xe tải với bộ đội ra
vào Huế.
Hà
Nội - Huế cách nhau chỉ 650 km, nhưng chiến tranh mới kết thúc, đường xấu, xe cộ
tồi tàn, lại vướng hàng chục trạm kiểm soát nên mỗi chuyến đi mất gần một ngày
đêm. Chúng tôi thường phải nghỉ đêm ở Quảng Bình hay Hà Tĩnh. Mỗi người lính
khi ra Bắc thường mang theo một con búp bê nhựa để làm quà. Nhờ thế tôi học được
câu nói phân định khối lượng của cải mang theo ra Bắc của nhà lính: Tuớng tấn,
tá tạ, úy yến, lính lạng.
Những
thị trấn tôi đi qua như: Vĩnh Linh, Đông Hà, Quảng Trị là những bãi tro tàn
đúng nghĩa. Nhưng Huế là một đô thị đẹp, cổ kính và yên tĩnh mà tôi chưa hề biết
đến.
Qua
khỏi Cầu mới (nay là cầu Phú Xuân), ấn tượng đầu tiên đập vào mắt tôi là khu Bệnh
viện Trung ương Huế do Tây Đức xây dựng. Hồi đó ở Hà Nội chưa có bệnh viện nào
hiện đại và sạch sẽ như vậy. Tôi thích thú ngắm các thùng rác xi măng hình gốc
cây với dòng chữ „Cho tôi xin rác“ xây trên vỉa hè. Các cô nữ sinh mặc áo dài
trắng toát, đôi nón lá bài thơ thướt tha trên những đế guốc cao làm cho chàng
trai Hà Nội không khỏi nghĩ đến các cô gái áo bông chần ngoài Bắc.
Đài
Truyền hình Huế nằm bên góc đường Lê Thánh Tôn (nay là đuờng Hà Nội), tiếp giáp
đường Lý Thường Kiệt, trên một mảnh đất hơn 1000 mét vuông là một sự ngạc nhiên
nữa cho tôi. Bằng một thiết kế gọn nhẹ và hiện đại kiểu Mỹ, hơn 20 nhân viên của
đài đảm bảo mỗi ngày phát sóng từ 5-6 giờ cho một vùng lãnh thổ từ Gio Linh vào
đến Đà Nẵng. Trạm tiếp sóng trên đèo Hải Vân phủ sóng Đà Nẵng, hầu như không cần
người quản lý.
Truyền
hình miền Nam lúc đó đi trước miền Bắc khá xa. Bốn đài: Sài Gòn, Cần Thơ, Quy
Nhơn và Huế cho phép 80% dân chúng được xem TV hàng ngày. Ở ngoài Bắc cho đến
1977 chỉ có khu vực Hà nội được xem TV và không phải ai cũng được mua TV.
Việc
tiếp quản đài thực ra không có gì khó khăn. Các nhân viên cũ của đài và những
người vào truớc tôi đã khôi phục mọi hoạt động kỹ thuật. Việc lớn nhất là thống
nhất tiêu chuẩn kỹ thuật truyền hình giữa hai hệ của Mỹ và của các nuớc XHCN
cũng không phải là khó khăn gì cho anh em chúng tôi.
Điều
làm cho tôi áy náy nhất là kho phim tư liệu đã bị anh em bộ đội phá tanh bành.
Mặc dù tôi có ý muốn cứu những cuộn phim tư liệu 16mm này, nhưng chúng bị coi
là „văn hóa phẩm đồì trụy“ nên không ai quan tâm đến ý kiến của tôi. Vả lại tôi
chỉ là thằng tép riu nhất trong tất cả những ai tham gia tiếp quản đài Huế khi
đó. Sau một chuyến ra Bắc trở về, tôi thấy kho phim đã biến mất và thành phòng
làm việc cho bà phó giám đốc phụ trách tổ chức.
Nỗi
vui mừng của tôi khi được tiếp xúc với kho âm nhạc và văn chương miền Nam hoặc
sự mê mẩn của tôi đối với những dàn Akai-Stereo, máy ảnh Canon, đồng hồ Seiko
v.v. chỉ là niềm vui của con cá từ một vũng nước được may mắn xuống ao. Nhưng ấn
tượng đầu tiên của tôi về người Huế (và miền Nam) lại là chị điện thoại viên
bên Sở Văn hóa Thông tin.
Đài
truyền hình Huế lúc đó do Ban Quân quản và Sở Văn hóa Thông tin quản lý. Mỗi lần
tôi có việc phải gọi điện thoại sang sở, lúc thì gặp chị công chức cũ phụ trách
tổng đài, lúc thì gặp một o bộ đội thông tin mới ở chiến khu về.
Các
o bộ đội thường có giọng nói khô khan gắt gỏng: Ai đấy? Muốn gặp ai? Đi vắng rồi
nhé! Cúp máy.
Ngoài
đời các o hay tết hai đuôi sam, hay cười ngặt nghẽo, cũng dễ thương như các bạn
gái ngoài Hà Nội.
-Thói
quen nghề nghiệp mà anh - Một o bẽn lẽn nói vậy khi gặp tôi.
Mỗi
lần gặp chị viên chức cũ với giọng nói ngọt ngào: „Dạ, anh chờ chút, để em nối
máy“ thì gã công nhân quèn, quen nghe giọng dùi đục chấm mắm cáy lại cảm thấy
ít ra mình cũng là thằng nào đó. Trai chưa vợ, được một giọng phụ nữ ngọt ngào
gọi anh xưng em, bằng tiếng Huế, thật khó quên.
Những
ngày đầu tiên truớc khi cô Mùi về nấu bếp cho đài chúng tôi hàng ngày sang Sở
Văn hóa ăn cơm trưa. Tôi tìm cách gặp bằng được người phụ nữ với giọng Huế ngọt
ngào đó. Chị lớn hơn tôi gần chục tuổi, có khuôn măt dễ ưa. Trong khi
"lương cách mạng" cấp cho chị không đủ 10 ngày ăn của gia đình, nhưng
chị vẫn đánh phấn nhẹ, mặc áo dài, đi guốc cao gót để hàng ngày làm một công việc
không cần đến ngoại hình, không cần trang điểm. Thì ra đó là nếp sống. Giữa những
o bộ đội dễ thương kia và nguời phụ nữ Huế này là một khoảng cách văn hóa không
nhỏ!
Cứ
như vậy, tôi lần lượt vấp hết cú sốc văn hóa này đến cú khác. Từ những nụ cuời
chào đón và tiễn khách hàng, đến cốc nuớc chè sau mỗi bữa ăn, đến gói hàng xếp
vào túi ny-lon đều là những điều xưa nay tôi không bao giờ được hưởng, kể cả ở
các cửa hàng „Thanh niên làm theo lời Bác“.
Miền
Nam mới hòa bình, cơ quan nào cũng chịu cảnh bè phái giữa các nhóm: Cán bộ tập
kết ở Bắc trở về, cán bộ hoạt động nội thành (nằm vùng) và lực luợng ở chiến
khu xuống (gọi là cán bộ R = rừng). Cán bộ tập kết trở về mang theo lối sống
XHCN và tham vọng sẽ đòi lại những gì họ đã mất 20 năm qua nên rất thích đấu
đá, hội họp, và sính lý luận. Tuy cùng hội ngoài Bắc vào, tôi rất sợ các vị
này, vì họ chỉ thích hội họp, bình bầu, bới móc.
Ban
Quân quản bổ sung cho đài vài thanh niên hoạt động nội thành. Anh Định, tốt
nghiệp văn khoa, giới thiệu với tôi một số sản phẩm văn học „ngụy“ như „Vòng
tay học trò“, „Loan mắt nhung“ „Đừng gọi anh bằng chú“… Cậu Đê, tú tài bán phần
thì thích nghe anh Thọ kể chuyện Hà Nội, chuyện nuớc Đức. Tuy được ưu ái, nhưng
xem ra họ không hòa nhập với nếp làm việc mới nên sau đó ít lâu cả hai đều bỏ
đi.
Quân
khu Trị Thiên-Huế điều một số anh chị em bên cục tuyên huấn từ A-Lưới về tăng
cường cho đài. Tôi quý anh Tuyến, thợ chiếu phim và anh Huế, biên tập văn nghệ,
vì họ là những người lính đã giáp mặt với cái chết, vẫn mang sự chất phác của
người nông dân Việt. Cũng như tôi, họ không lao vào các cuộc tỷ thí quyền lực,
chỉ tận hưởng không khí hòa bình bên bờ sông Hương và khám phá những nét văn
hóa chưa từng biết đến. Anh Huế hay nói chuyện văn học với tôi, tuy tôi kém anh
đến cả chục tuổi.
Nhóm
còn lại, đông nhất, nhưng lép vế nhất là anh em „ngụy“. Trong số hơn 20 công chức
cũ của đài, có 10 người, chủ yếu là các kỹ thuật viên, được chính quyền mới giữ
lại làm việc. Lương bổng thì không thể so với thời truớc, nhưng họ mừng lắm và
luôn hy vọng sẽ có tương lai trong chế độ mới.
Tuy
được căn dặn phải cảnh giác với họ, nhưng tôi thấy đa số họ dễ ưa, có tư cách
và không hề „phản động“ tý nào. Nhiều người trong số họ cũng kết thân với tôi,
như anh Vũ Chí Đạo, kỹ sư truởng, anh Như, đạo diễn phát sóng, bác Sáu Trí, thợ
âm thanh hay anh Mai, thợ điện.
Gần
gũi những con người này tôi bỗng cảm thấy có điều gì hơi ác khi nhận được chỉ
thị: Phải mau chóng nắm toàn bộ công việc để rồi sẽ dần dần đuổi họ ra khỏi cơ
quan.
Hình
như một số người đoán ra được kế hoạch này nên ngay trong thời gian tôi còn ở
đó, anh Thịnh, kỹ thuật viên video, anh Phuớc, đạo diễn đã lần lượt xin thôi,
đi tìm việc nơi khác. Năm 1980, tôi quay lại Huế, không ai trong số đó còn làm
việc ở đài. Tuy tôi luôn tử tế với họ, nhưng vẫn cảm thấy có gì đó ân hận.
45
năm qua tôi vẫn luôn nhớ những người bạn Huế, từ cô bé Mùi cấp dưỡng, hay đỏ mặt
khi anh Thọ trêu, đến chú Đê, anh Tuyến, anh Mai, những người đã cùng tôi vật lộn
trong cơn lũ lịch sử mùa thu 1975.
TB: Sau Stt này, nhiều bạn
đọc đã giúp tôi gặp lại anh Vũ Chí Đạo, anh Nguyễn Phước và cô Mùi cấp dưỡng.
Xin cảm ơn.
.
No comments:
Post a Comment