BƯỚC ĐI
ĐẦU TIÊN: TỰ DO TƯ TƯỞNG
Tôn Thất Thông, tháng 4/2024
2-5-2024
https://diendankhaiphong.org/buoc-di-dau-tien-tu-do-tu-tuong/
Nếu
trong kinh tế, tự do kinh doanh là gốc rễ của sự tăng trưởng phồn vinh, thì
trong triết học và các lĩnh vực nghiên cứu khác, tự do tư tưởng là
cội nguồn của mọi sáng tạo và là nguồn cảm hứng tạo nên sáng kiến để canh tân,
đưa xã hội đến tiến bộ.
Trong
thời đại khai sáng, khi học giả đã đạt đến tự do tư tưởng, thì triết học trở
thành lĩnh vực quan trọng hàng đầu trong việc định hình con người và xã hội. Nó
thay đổi cách nhìn về con người và vũ trụ. Nó định hình cách hành xử của con
người đối với các định chế chính trị, tôn giáo và xã hội. Nó vạch hướng đi cho
những cuộc cách mạng chính trị vĩ đại. Đồng thời, triết học cũng cung cấp
phương pháp luận cho khoa học gia trên đường nghiên cứu khoa học tự nhiên.
Để
đạt đến năng lực chi phối tiến trình lịch sử ấy, con đường cũng vô cùng cam go,
nhưng triết gia khai sáng đã tìm được cho mình một hướng đi rất vững chắc: đó
là, trước hết cần tự giải thoát mình ra khỏi thế kìm kẹp về độc quyền văn hóa
và tư tưởng, vốn dĩ đã ngự trị suốt cả ngàn năm trước. Video hôm nay sẽ cung cấp
cho các bạn những dữ liệu lịch sử liên quan để phán xét. Ngoài ra, con đường họ
đi cũng là bài học có giá trị cho đến ngày nay, nhất là ở trong các nước chuyên
chế độc tài.
Trên
con đường xây dựng thế giới mới, thì con người, chứ không phải một sức mạnh
siêu nhiên nào, là chủ thể kiến tạo nên mọi tiến bộ. Chúng ta hãy nghe
Christian Thomasius, triết gia người Đức trong thế kỷ 17, phác họa chân dung một
mẫu người lý tưởng, mà nền giáo dục trong thời đại khai sáng cần đào tạo để xây
dựng xã hội mới:
Chúng
ta cần một chương trình đào tạo học thuật vừa đặt trên nền tảng khôn ngoan,
thông thái và gần gũi với kinh nghiệm thực tế, vừa chú trọng đặc biệt về năng lực
phán quyết và phê phán hơn là việc bảo tồn và quản lý tri thức, đồng thời có thể
gạt phăng những chướng ngại cản trở việc tiếp cận tri thức hữu dụng, […] [Chúng
ta muốn] đào tạo con người có thẩm quyền về xã hội và đạo đức, những con người
tao nhã, thông thái, có nhân cách, có thị hiếu lành mạnh và một tâm hồn cao thượng,
[…] những con người biết nghiêm khắc với truyền thống để làm quen với sáng kiến
canh tân, tự rèn luyện một quan hệ lành mạnh với cải cách và đổi mới[1].
Triết
gia Đức Christian Thomasius (1655-1728).
Cơn
bão Phục Hưng trong thế kỷ 15 và 16 đã sản sinh nhiều sáng kiến mới lạ vượt ra
ngoài vòng kiềm tỏa của giáo điều và sự gò ép tư tưởng trong thời đại trung cổ
kéo dài gần một thiên niên kỷ. Trong thế kỷ phục hưng, trào lưu nhân bản bắt đầu
chống lại khuôn phép của chủ nghĩa kinh viện, chống lại nền giáo dục với nội
dung bị áp đặt khiên cưỡng, tạo nên những dòng thác mạnh mẽ lôi cuốn nhiều lớp
người khác nhau trong xã hội. Tuy nhiên, những nhà nhân bản lúc đó cũng chỉ mới
khơi dậy được tinh thần độc lập không gắn liền với một trường phái cổ đại nào,
khơi dậy cảm giác an toàn cho bản thân với tri thức độc lập, không cần dựa dẫm
vào một thế lực độc đoán nào từ bên ngoài[2].
Cũng
không có gì nghi ngờ để nói rằng, sức sống mãnh liệt của xã hội thời đại phục
hưng đã nhào nặn lên nhiều nhân cách lớn mà thành quả họ đạt được trong sự nghiệp
phát triển tư tưởng, văn chương, nghệ thuật vẫn còn để lại ảnh hưởng đến ngày
nay. Nhưng ngoại trừ phong cách nghệ thuật kiêu sa và chủ nghĩa nhân bản đầy
hào quang vươn lên như đại bàng trong thế giới học thuật, thời đại phục hưng vẫn
chưa sản sinh một trào lưu tư tưởng mới lạ nào khả dĩ tạo nên một tầng lớp học
giả mới có năng lực và dũng cảm để trả lời những câu hỏi thiết thân của thời đại
hậu trung cổ.
Nhưng
thừa hưởng tinh thần phục hưng, khi bước sang thế kỷ 17 và đặc biệt ở ngưỡng cửa
thế kỷ 18, các nhà tư tưởng châu Âu tự lột xác để dấn thân đi tìm con đường cải
tạo thế giới. Họ không ngần ngại gọi thời đại họ đang sống là thế kỷ của triết
học và cũng tự nhận mình là triết gia với những tính chất đặc thù của thời đại
khai sáng là tính phản biện, phê bình, sự dũng cảm phát biểu về mọi vấn đề liên
quan đến con người và xã hội. Phong cách của họ biểu hiện một đặc trưng rất dễ
nhận thấy là tinh thần ưa chuộng triết học như một hệ thống. Hệ thống này nối
tiếp hệ thống khác không dứt trong suốt thế kỷ 17.
Tinh
thần dấn thân và lòng dũng cảm của họ đã không phụ lòng người. Họ đã góp phần
vào việc định hình một truyền thống cho lớp học giả thời đại mới, những người
không những có kiến thức uyên thâm và mới mẻ, mà còn có ý thức xây dựng một xã
hội tốt đẹp hơn so với khuôn mẫu có sẵn của Vương triều và Giáo hội. Chính lớp
người đông đảo đó đã tạo nên sức mạnh vô hình có năng lực thay đổi xã hội, nói
đúng ra là tạo nên những cuộc cách mạng tự phát với phong thái bất bạo lực
trong hành động nhưng triệt để về tư tưởng, làm đảo lộn trật tự có sẵn trong mọi
lĩnh vực, trong mọi tầng lớp dân chúng của châu Âu.
Văn
sĩ nổi tiếng người Ái Nhĩ Lan, Jonathan Swift[3] nhận
xét: Ngòi bút lông có thể không mạnh bằng thanh trường kiếm, nhưng những thông
điệp của trào lưu khai sáng tỏ ra là vũ khí lợi hại. Người sử dụng vũ khí đó
không phải là những kẻ nịnh bợ của guồng máy chuyên chế, mà là những người nổi
loạn, những nhóm phiến quân trí thức, bao gồm giới trí thức vô chính phủ, muốn
thiết lập một trật tự xã hội tự do[4].
Chúng
ta thử ngoảnh lại, xem con người thế kỷ 17 và 18 đã tạo nên những cuộc cách mạng
nào trong thời đại khai sáng làm cho chúng ta choáng ngợp, những cuộc cách mạng
tiêu biểu mà mãi đến thế kỷ 21, chúng ta vẫn còn cảm nhận hàng ngày về những
thành quả của chúng để lại.
Trước
hết là
ba cuộc cách mạng dân chủ ở Anh, Hoa Kỳ và Pháp, mà tinh thần của chúng là nền
tảng cho những thay đổi thể chế chính trị ở hầu hết các quốc gia dân chủ ngày
nay.
Tiếp
đến là
những cuộc cách mạng khoa học tự nhiên trong nhiều ngành, bắt đầu từ toán học,
thiên văn, vật lý, đến hóa học, cơ học, y khoa, vi sinh học và cả các ngành
khoa học nhân văn. Những khám phá mang tính cách mạng này xảy ra dồn dập trong
từng thập niên của thế kỷ 17 và 18, ở trong mọi quốc gia châu Âu. Chúng không
những chi phối xã hội đương thời mà còn định hình cả chương trình giáo dục các
môn khoa học tự nhiên của chúng ta hôm nay ở cấp trung học và đại học.
Và
cũng không phải là cuối cùng, cuộc cách mạng kỹ thuật, công nghiệp
và kinh tế đã mang lại của cải vật chất cho loài người cho đến bây giờ với nhiều
thành quả vĩ đại cũng như những hệ lụy vô cùng khắc nghiệt. Mặc dù cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất chỉ mới bộc phát ở cuối thế kỷ 18, nhưng nền tảng và
chất liệu của nó chính là những tiến bộ kỹ thuật có nguồn gốc từ những thành quả
của các cuộc cách mạng khoa học trong thế kỷ khai sáng, đưa đến những phát minh
vĩ đại phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Phát minh máy hơi nước của James Watt ở
giữa thập niên 1760 là một thí dụ điển hình.
Nhưng
xét cho cùng, những cuộc cách mạng chưa từng có ở trên chắc hẳn khó lòng xảy
ra, nếu thế kỷ khai sáng không sản sinh ra những con người mới, có phương pháp
tư duy mới, cách hành xử mới, được thôi thúc bởi ý thức dấn thân để cải tạo xã
hội. Trong ý nghĩa đó, triết học vừa là nhân vừa là quả của các thành quả đạt
được trong hai thế kỷ hoàng kim 17 và 18. Nói cách khác, việc đi tìm
nguồn gốc và việc lý giải các thành quả của thời đại khai sáng không thể tách rời
việc khảo sát các luồng tư tưởng triết học trong hai thế kỷ đó.
Tuy
nhiên, trước hết chúng ta cần xác định khuôn khổ để khảo sát. Khái niệm triết học
trong thế kỷ 17 và 18 không giống như khái niệm về triết học chúng ta hiểu ngày
nay. Thuở đó, triết học là một khái niệm rất rộng, rất tổng quát, có thể bao gồm
tất cả những gì thuộc về khoa học, văn chương, luật học, nhân văn và cả lịch sử.
Nói cách khác, khái niệm này bao gồm tất cả những gì mà con người cảm thấy có mối
liên hệ với đời sống và với thiên nhiên.
Trong
cuộc đời học thuật của các triết gia thuộc thời đại khai sáng, họ thường xuyên
tìm cách hướng luồng tư tưởng của mình xoay quanh các chủ đề của thời đại,
không những tìm cách đặt ra những câu hỏi học thuật, mà còn có mong muốn tìm lời
giải thực tiễn để nâng cao chất lượng sống của con người thế tục. Những khẩu hiệu
nổi bật trong các dòng triết học của thời đại khai sáng là lý tính, luật tự
nhiên, tiến bộ, khoan dung, nhân quyền, khoa học, nhân bản và tự do. Những khẩu
hiệu đó cũng biểu lộ sự từ chối dứt khoát các thế lực thống trị cổ điển[5],
mà nếu gọi đích danh trong thế kỷ 17 và 18, thì đó là Vương triều và Giáo hội.
Trên
nhãn quan lịch sử, những triết gia khai sáng xuất hiện trước tiên ở Anh. Bên cạnh
nhiều học giả tiếng tăm ở đảo quốc này, nổi bật hai triết gia tiên phong là
John Locke và David Hume với những triết thuyết còn ảnh hưởng lâu dài đến sau
này về tự do cá nhân, nhà nước hợp hiến, tinh thần khoan dung, thuyết duy nghiệm,
vốn dĩ lấy kinh nghiệm để làm thước đo cho tri thức[6].
Đặc biệt là lý thuyết về quyền tự nhiên của cá nhân đã ghi lại dấu ấn sâu đậm
và lâu dài lên lý thuyết chính trị của nhiều triết gia về sau. John Locke cho rằng,
“quyền tự nhiên của con người là quyền nguyên thủy không thể dùng để mua bán,
trao đổi dưới bất kỳ điều kiện nào, cũng không thể bị xâm phạm bằng bất kỳ
phương tiện nào, kể cả khế ước nhà nước cũng không thể xâm phạm được[7]”.
Quan niệm đó là kim chỉ nam cho nhiều luật gia soạn thảo hiến pháp các nước dân
chủ ngày nay.
Những
sáng kiến mới mẻ của triết gia Anh được hai học giả người Pháp, Baron de
Montesquieu và nhất là Voltaire, mang về quảng bá ở quê hương của họ. Cả hai
triết gia này đều đã ở Anh một thời gian dài. Họ không những tiếp xúc trao đổi
với các học giả Anh, mà còn cẩn thận quan sát quá trình phát triển hệ thống
chính trị, nhất là phong cách hoạt động của các chính trị gia trong một thể chế
cộng hòa còn non trẻ. Họ vô cùng phấn khích về những gì quan sát được ở Anh và
hy vọng rằng, kinh nghiệm của Anh cũng có thể đem áp dụng cho nền chính trị
Pháp. Khi về nước, những điều họ kể về nước Anh trong các câu lạc bộ học thuật
(Salons de Paris) đã góp phần không nhỏ trong công cuộc vận động khai
sáng ở Pháp.
Trong
tác phẩm “Những bức thư về nước Anh[8]”,
Voltaire trình bày những gì mà quê hương Pháp của ông quá ư lạc hậu so với Anh
quốc, đó là nhà thờ, Giáo hội, tinh thần thiếu khoan dung và một nhà nước
chuyên chế tuyệt đối. Tương phản với tình trạng lạc hậu của Pháp về tư tưởng, đạo
đức, kinh tế và chính trị là hình ảnh lý tưởng của một nước Anh tự do và thực sự
đã khai sáng[9],
mà học giả Pháp mong muốn thấy nó được thành hình trên quê hương của họ.
Nhưng
tình trạng nước Pháp lúc ấy khác hẳn Vương quốc Anh. Gia tộc Louis vẫn còn ngự
trị với một chính thể chuyên chế tuyệt đối, Giáo hội Công giáo vẫn còn quyền
hành rất lớn, và chế độ kiểm duyệt thì vô cùng khắt khe. Vì thế, sự phát triển
trào lưu khai sáng ở Pháp cũng hết sức đặc thù. Khác với Anh đã có những học giả
khai sáng trong guồng máy chính trị, học giả Pháp đa số là những người dân sự
không có quyền lực, vũ khí của họ chỉ là năng lực tư duy và ngòi bút, cho nên
cuộc vận động khai sáng cũng vì thế rất gay go, thường xuyên bị đàn áp, bắt bớ,
tù đày, sống lưu vong. Vì thế, đa số học giả dấn thân của Pháp đều là những người
có tư tưởng cương quyết, không khoan nhượng. Điều này đã thể hiện rất rõ nét
trong tiến trình cách mạng Pháp từ năm 1789.
Từ
Pháp, trào lưu khai sáng lan dần qua Đức, lúc ấy còn là một quốc gia lạc hậu, bị
xâu xé bởi hàng chục tiểu vương quốc không ai phục tùng ai, mỗi tiểu vương quốc
có những luật lệ riêng, lãnh thổ riêng, hàng rào thuế quan riêng. Họ không có một
trung tâm chính trị, cũng không có một guồng máy hành chính thống nhất. Khác với
Pháp, các học giả khai sáng của Đức không phải là những người đấu tranh trong
xã hội dân sự, mà đa số là những công chức thông thái. Immanuel Kant là một thí
dụ.
Trong
một dịp khác, chúng ta sẽ nói về những luồng triết học và triết gia quan trọng
trong các nước tiên phong, đồng thời trở lại khảo sát sự khác nhau giữa ba trào
lưu khai sáng tại Anh, Pháp và Đức. Nhưng cho dù khác nhau chăng nữa, nhìn
chung trên khắp lục địa, triết học cũng đồng nghĩa với sự tự do phát biểu, kể cả
phát biểu những vấn đề có tính chất phê phán, mà không sợ bị đàn áp hay phân biệt
đối xử. Đối với họ, tinh thần tự chủ, ý thức tự do và lòng dũng cảm đã trở
thành những giá trị thiết thân mà họ thường soi vào như một tấm gương để nhận
chân con người thực sự của mình.
Các
triết gia trong thời đại đó cố gắng ưu tiên giải quyết các vấn đề thực tiễn,
thí dụ như triết học pháp quyền và triết học đạo đức, cũng như các vấn đề liên
quan đến triết lý chính trị và giáo dục, đôi lúc cũng đề cập đến các vấn đề về
y học và kỹ thuật, trong lúc lĩnh vực truyền thống là siêu hình học, xem ra xuất
hiện rất mờ nhạt. Cho dù các lĩnh vực triết học lý thuyết vẫn còn thông dụng,
thí dụ như tri thức luận hoặc ngay cả siêu hình học,
nhưng nhìn một cách tổng thể, nền triết học khai sáng được thừa nhận là triết học
thực nghiệm; và với tính chất phê phán triệt để, triết học thực nghiệm này mang
bản chất đấu tranh không khoan nhượng, một loại “triết học của chiến binh” (philosophia
militans)[10].
Trước
hết, chưa đào sâu vào từng triết thuyết, cũng không chú trọng đến tư tưởng của
một triết gia nào, chúng ta thử phóng một tầm nhìn tổng thể về các luồng triết
học quan trọng của thời đại khai sáng, khảo sát chúng trên quan điểm lịch sử,
và thử xem chúng tác động thế nào đến quá trình phát triển của nhân loại.
Giáo
sư Johannes Hirschberger, một tác giả nổi danh trong giới nghiên cứu lịch sử
triết học, đã có một nhận xét sâu sắc về tính đặc thù trong nền triết học của
thời đại khai sáng. Theo Hirschberger, đó là thời khắc sinh thành của quá trình
phân liệt về mặt tư tưởng, tạo nên một sự giằng xé trong ý thức văn hóa hiện đại,
điều mà chúng ta chưa hề thấy trong triết học cổ đại, cũng chưa thấy xuất hiện
rõ rệt trong thời trung đại. Sự phân liệt ấy là hậu quả của một quá trình chuyển
đổi văn hóa và chính trị trong giai đoạn thành hình của nhiều quốc gia và sự
phân chia ra nhiều dân tộc riêng lẻ, từ đó dẫn đến cả sự phân liệt về tinh thần
châu Âu[11],
vốn dĩ trước đó rất đồng nhất về văn hóa với ngôn ngữ La-tinh. Sự phân liệt ấy
chúng ta thấy không những trong lý tính thuần lý và lý tính thực hành, tri thức
và niềm tin, tôn giáo và siêu hình học, chính trị và đạo đức mà cả nhiều vấn đề,
phương pháp và lý thuyết mới đã nổi lên phong phú đến mức con người không còn
khả năng phân loại chúng[12].
Tất cả những điều ấy thống trị thế giới học thuật châu Âu kể từ thế kỷ 18, đầu
thế kỷ 19, nhưng gốc rễ thì đã được ươm mầm từ thời đại khai sáng.
Vốn
dĩ được thừa hưởng trí tuệ của những nhân vật vĩ đại trước đó, triết gia khai
sáng tin tưởng vào các thành quả của thời đại mới và cố gắng áp dụng chúng để
nâng cao chất lượng sống. Niềm tin và sự khao khát này chính là một đặc trưng của
trí thức trong thời đại khai sáng. Người ta không còn chú trọng đến việc nghiên
cứu truyền thống dựa vào các tác phẩm cổ đại như các học giả phục hưng đã làm,
mà các triết gia khai sáng tin tưởng mãnh liệt vào năng lực của bản thân trong
việc tìm tòi cái mới và trong ước muốn mang lại hạnh phúc cho càng nhiều người
càng tốt. Trong ý nghĩa đó, thời đại khai sáng chính là một biểu hiện đặc thù của
nền triết học phổ thông[13].
Theo
xu hướng chung trong thế kỷ 18, làm triết học có nghĩa là phản biện, là phát biểu
tự do và tư duy phê phán đối với mọi vấn đề, mọi đối tượng mà không sợ bị phân
biệt đối xử. Tất cả mọi vấn đề nảy sinh đều có thể trở thành đối tượng nghiên cứu
của triết học, từ đạo đức đến tôn giáo, từ chính trị đến nhà nước, từ văn
chương nghệ thuật đến khoa học tự nhiên, và cả những vấn đề liên quan đến cảm
xúc con người, một bước đi ban đầu để thành hình nền tâm lý học hiện đại sau
này. Tùy tình trạng chính trị từng nước, làm triết học trong một vài trường hợp
có thể vô cùng nguy hiểm khi thế lực cầm quyền chưa thấm nhuần sự cần thiết của
triết học, nhưng điều đó cũng không thể ngăn cản giới học giả phát biểu và đấu
tranh cho những tư tưởng triết học mới lạ đang thành hình trong xã hội[14].
René
Descartes phải sống lưu vong ở Hà Lan để yên tâm nghiên cứu, không bị Vương triều
Pháp quấy nhiễu; Jean-Jacques Rousseau phải sống cuộc đời lang bạt trong nhiều
nước khác nhau vì những tư tưởng cách mạng cực đoan; Voltaire phải sống rày đây
mai đó, thường trực ẩn náu và có lúc ngồi tù vì tư tưởng phê phán Giáo hội và
chế độ phong kiến chuyên chế. Đó chỉ là vài thí dụ.
Bên
cạnh hai luồng triết học lớn chúng ta sẽ trình bày trong một chương riêng – tức
thuyết duy lý và thuyết duy nghiệm – hai thế kỷ khai sáng chứng kiến những hoạt
động vô cùng nhộn nhịp trong lĩnh vực triết học. Nhiều quốc gia đã sản sinh
hàng loạt học giả tiếng tăm mà ảnh hưởng vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Ở
Anh có John Locke, David Hume, Thomas Hobbes, Isaac Newton. Pháp được khởi đầu
bởi René Descartes, Blaise Pascal, Montesquieu, Voltaire. Ở Đức có Gottfried
Leibniz, Christian Thomasius, Christian Wolff. Ở Ý có Giambattista Vico,
Antonio Muratori. Tây Ban Nha có Baltasar Gracian. Và hàng trăm tên tuổi khác
còn lưu lại tên tuổi cho đến ngày nay.
Đến
giữa thế kỷ 18, số lượng triết gia khai sáng ở châu Âu đã đông đảo đến độ mà
chúng ta không thể đếm được nữa. Triết học trở thành môn học bắt buộc ở năm cuối
trung học. Lên đại học, hầu như mỗi sinh viên đều tham dự phân khoa triết học
như một giáo trình bắt buộc trước khi phân tán ra những chuyên ngành khác.
Số
lượng sách triết được xuất bản hàng năm ngày càng tăng, trong lúc sách thần học
ngày càng giảm. Hàng chục, nếu không nói là hàng trăm triết gia mà tiếng tăm vượt
ra ngoài ranh giới quốc gia, xuất hiện một cách tự tin và kiêu kỳ, dần dần thay
thế vị trí của các học giả thần học vốn dĩ đã thống trị thế giới học thuật suốt
cả hơn ngàn năm. Nhiều hệ thống triết học mới được ra đời, hệ thống này kế tiếp
hệ thống khác. Hai thế kỷ 17 và 18 có thể gọi là thời đại hoàng kim của triết học,
là thời kỳ trăm hoa đua nở đánh dấu giai đoạn rực rỡ nhất trong lịch sử phát
triển tư tưởng châu Âu.
Đỉnh
cao của sự phát triển ấy không tách rời khỏi sự ra đời của Bách khoa
Toàn thư[15] bắt
đầu từ năm 1751. Thời gian biên soạn và xuất bản kéo dài 20 năm với tổng cộng
28 bộ sách, hơn 70.000 tiểu tựa và hơn 3.000 tranh vẽ và khắc họa công phu. Trước
đó ở Anh, Pháp và Đức đã có những bộ sách tương tự, thí dụ bộ sách lớn nhất của
Heinrich Zedlers bao gồm 68 tập. Nhưng phải đợi đến lúc bộ Bách khoa Toàn thư của
Denis Diderot và D’Alembert ra đời, người ta mới nhận thấy vai trò mang tính hệ
thống trong nhiệm vụ thay đổi phương pháp tư duy của con người. Nó vượt lên
trên tất cả các tác phẩm đã có từ trước, và trở thành cẩm nang cho những ai muốn
tự khai sáng[16],
nó chiếm ngự vị trí độc tôn về giá trị của nguồn cung cấp tri thức đầy đủ nhất
cho đến tận hậu bán thế kỷ 20, và chỉ nhường chỗ cho các bộ bách khoa trực tuyến,
sau khi thế giới chúng ta đã được số hóa.
Dự
án Bách Khoa nhằm mục đích cung cấp một bản tóm tắt kiến thức
nhân loại hiện có để truyền lại cho các thế hệ tiếp theo, một sự truyền tải nhằm
góp phần vào sự tiến bộ và phổ biến kiến thức của nhân loại cũng như chuyển đổi
tích cực của xã hội loài người. Định hướng của Bách khoa Toàn thư rõ ràng là
trường kỳ và ngầm chứa tư tưởng chống độc tài chuyên chế. Vì vậy, Vương triều
chế độ cũ của Pháp kiểm duyệt, ngăn chặn dự án, và nó thực sự chỉ được hoàn
thành nhờ sự kiên trì của Diderot[17].
Giáo
sư Paul Hazard, Viện sĩ Hàn lâm Pháp nhận xét giá trị của bộ Bách khoa và phong
cách hiếm có của các tác giả lúc biên soạn nội dung như sau: “Ý nghĩa thực sự của
bộ bách khoa toàn thư nằm ở chỗ các tác giả, đa số là triết gia thế kỷ 18, đã
tiếp nhận một thế giới mà theo đúng nghĩa của nó, luôn luôn còn là một bí ẩn đối
với họ, và họ chấp nhận nó theo những điều kiện đó, không bận tâm về hàm ý bên
trong của nó. Họ khách quan và rất khôn ngoan, biết giới hạn ý muốn riêng của bản
thân trong việc thu thập các dữ liệu và sau đó sắp xếp chúng theo thứ tự của một
bộ bách khoa[18]”.
Những
người chủ xướng nhóm bách khoa xác định mục đích rất rõ rệt: Chuẩn bị cho mọi
người có đủ năng lực tiến đến sự độc lập hoàn toàn đối với Vương triều, Giáo hội
và giới quí tộc. Diderot viết trong lời nói đầu tập I: “… chúng tôi muốn đưa
toàn bộ tri thức loài người đến tay mọi người, vì tri thức làm cho con người độc
lập hơn, tạo nên sức đề kháng chống lại thành kiến, mê tín, ngu muội, và sau
cùng tri thức làm cho con người có năng lực lãnh đạo quốc gia”. Lý tưởng của
các học giả bách khoa là kịp thời nắm lấy cơ hội để trở thành
lực lượng lãnh đạo về học thuật, không phải để phục vụ cho một tầng lớp độc giả
giới hạn nào đó, mà để phổ biến tri thức đến tận tay mọi người thuộc mọi giới,
trong mọi lĩnh vực, từ triết học, văn chương nghệ thuật, khoa học và các ngành
nghề khác trong xã hội[19].
Phong
cách sáng tác đó, áp dụng cho các tác phẩm khoa học và triết học dần dần trở
nên một hướng đi mà mọi người đều noi theo, tức là đại chúng hóa kiến thức hàn
lâm. Người ta tìm thấy trong kỷ yếu của hội chợ sách Frankfurt năm 1769 một tựa
đề “Triết học không cần kiến thức” của Michel-Jean Sédaine được mọi người ca tụng
như sau: “Nếu có một người nào đó chưa từng học những điều thông thái trong trường
hoặc qua sách vở, nhưng bỗng nhiên có đủ năng lực để hiểu hết những kiến thức
hàn lâm một cách tự nhiên, thì con người đó giờ đây đã hiện hữu[20]”.
Đó là một thành quả lớn lao của Bách khoa Toàn thư trong một
xã hội mà những người biết đọc biết viết vẫn còn là thiểu số.
https://diendankhaiphong.files.wordpress.com/2024/05/encyclopedie-2-photos.jpg
Trang
bìa của Bách khoa Toàn thư tập I (trái)
và tranh khắc họa về khai sáng ở đầu chương (phải).
Với
viễn kiến của những người chủ xướng, bộ Bách khoa Toàn thư đề
cập đế hầu hết mọi vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề trong xã hội
và trình bày bằng phong cách giản dị dễ hiểu, mà bất kỳ ai muốn biết bất kỳ vấn
đề gì, đều có thể tìm thấy trong Bách khoa. Không cần chuẩn bị trước
một ít kiến thức, độc giả vẫn có thể hiểu những giải thích của tác giả. Trong
thời kỳ đó, trên thị trường sách báo ở Pháp đã có khá nhiều từ điển, mỗi cuốn
phục vụ cho một ngành nghề nào đó, thì bộ Bách khoa Toàn thư phục vụ cho mọi giới,
mọi ngành nghề, hay nói như Viện sĩ Paul Hazard, đó là một cuốn “Từ điển của mọi
cuốn từ điển, có khả năng đáp ứng lòng ham muốn tri thức của con người[21]”.
Một
đặc trưng khác của triết học thời đại khai sáng là sự cố gắng diễn đạt tư tưởng
triết học bằng phong cách phi hàn lâm. Trong trào lưu khai sáng, triết học nhận
lãnh trách nhiệm tìm lời giải cho các câu hỏi liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa
học và đời sống thường nhật trong xã hội. Cho nên, các biện giải triết học khai
sáng ít khi đứng riêng lẻ một mình, mà thường có liên hệ đến cách đặt vấn đề
trong ngữ cảnh thần học, văn chương, văn hóa, xã hội và cả khoa học tự nhiên[22].
Với
tính chất đó, triết gia khai sáng tận dụng nhiều phương tiện khác nhau để chuyển
tải tư tưởng, thí dụ như văn thơ, tiểu thuyết và đã có những thành công bất ngờ
khi triết học được lồng trong ngữ cảnh văn chương phi hàn lâm. Vài tác phẩm bất
hủ nhất có thể kể là Lá thư Ba Tư[23] (Lettres
Persanes năm 1721) của Montesquieu, Candide (1759) của
Voltaire, Emile (1760) của Jean-Jacques Rousseau. Đó là những
tác phẩm văn chương có giá trị phi thời gian, sáng tác với mục đích chuyển tải
nội dung triết học liên quan đến những vấn đề thiết thân trong xã hội đương thời[24] bằng
phong cách đặc biệt mà như Voltaire nói về một cuốn sách hay: tò mò,
trào lộng, đạo đức, thâm thúy.
Ngoài
ra, các triết gia khai sáng đã có ý thức phần nào về việc biến triết học hàn
lâm thành triết học phổ thông với mục đích đưa triết học đến công chúng rộng
rãi qua những hình thức dễ tiếp thu. Triết gia đã biết sử dụng từng phương tiện
có thể tiếp cận được để thâm nhập đến từng lớp người, vào từng ngóc ngách của
xã hội. Các văn thi sĩ Anh và Pháp biết diễn đạt tri thức triết học bằng phong
cách thanh lịch tao nhã và hợp lý, vì hai phong cách này, mỗi thứ bằng một cách
khác nhau, có thể diễn đạt mọi vấn đề rất chính xác mà không cần sử dụng những
phương tiện mang tính khoa trương[25].
Trong
thời đại khai sáng, lần đầu tiên kể từ thời kỳ cổ đại, triết học không còn là một
lĩnh vực trừu tượng chỉ dành cho một thiểu số học giả nào đó, mà đã mang tính
chất thực hành, gần gũi với đời sống thế tục trong xã hội. Cũng là lần đầu
tiên, triết học không còn bị đóng khung trong khuôn viên đại học hoặc các môi
trường học thuật. Triết học thời đại khai sáng đã thâm nhập vào mọi hoạt động của
đời sống, đã trở thành chất liệu sống của mọi lớp người trong xã hội. Khai sáng
trước hết có nghĩa là tự mình tư duy, chứ không giao khoán số phận của mình cho
sự dẫn dắt của các định chế vương quyền và tôn giáo. Lý tính trở thành yếu tố
quan trọng hàng đầu trong việc định hướng suy nghĩ và hành động của con người
trong cuộc sống.
Thực
ra, kể từ thế kỷ 13, lúc hàng loạt đại học được thành lập khắp nơi từ Lisboa
bên bờ Đại Tây Dương sang Kraków, từ Rome ở Địa Trung Hải lên tới Luân Đôn, triết
học đã là một phân khoa độc lập và quan trọng, nơi mà mọi sinh viên đều đặt
chân đến trước khi chọn một chuyên ngành nào khác. Nhưng nơi đó và trong thời kỳ
đó, các vị giáo sư mang đến cho sinh viên không gì khác hơn là những tư duy
khuôn sáo của chủ nghĩa kinh viện, có người thì hướng dẫn thêm cho sinh viên về
lo-gic của toán học, người khác thì liên kết triết học và thần học một cách
khiên cưỡng.
Phải
đợi đến thế kỷ 17, bước sang thế kỷ 18, triết học mới lấy lại vai trò đích thực
của nó. Dưới ánh sáng của lý tính, triết học trong thế kỷ 18 bắt đầu đặt trọng
tâm vào việc xây dựng lề lối tư duy có cấu trúc. Thần học, vốn trước đây là
khoa học chủ đạo trong giới học giả, giờ đây phải thoái lui. Triết học hiện đại
đã thực sự nắm vai trò lãnh đạo tinh thần, chuyện trước đây hàng ngàn năm chưa
từng xảy ra.
Vì
thế mà D’Alembert, một nhân vật hàng đầu của Thời đại Khai sáng ở Pháp, đã mô tả
thế kỷ 18, chính xác là các thập niên trước và sau 1750, là “thời kỳ của đỉnh
cao triết học”, bởi vì sự tiến bộ to lớn về trí tuệ và khoa học của thời đại,
nhưng cũng vì sự kỳ vọng của thời đại mà triết học – theo nghĩa rộng, bao gồm
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội – sẽ cải thiện đáng kể đời sống con người[26],
chứ không cần một sức mạnh vô hình nào bên ngoài hỗ trợ.
Nói
tóm lại, khi bàn luận về triết học thời đại khai sáng, chúng ta không thể quên
tính chất đặc thù nhất, là sự tách rời triết học ra khỏi thần học. Hầu hết các
triết gia vẫn tự nhận mình là Kitô hữu, nhưng đối với họ, tri thức và niềm tin
không thể lẫn lộn vào nhau. Cả hai có thể bổ sung cho nhau, nhưng chúng cần được
xử lý độc lập với nhau. Triết gia xem lý tính là cơ sở duy nhất trên
con đường đi tìm chân lý[27].
Và chính điều này đã chi phối tất cả mọi bước đi tiếp theo, để cho con người trở
thành chủ thể hoàn toàn tự do trong tư duy, trong hành động, trong nghiên cứu
khoa học, và trong việc xác định chủ thể hành động để xây dựng xã hội.
./.
Tôn
Thất Thông, Tháng 4/2024
Xem
thêm các bài viết và dịch của Tôn Thất Thông
Xin
xem nội dung bài này trên Youtube:
Thời Đại
Khai Sáng (P.4) - Bước đi đầu tiên: Tự do Tư tưởng
https://www.youtube.com/watch?v=ivFV5iXZmBA
Tài
liệu tham khảo
1.
Châtelet, François chủ biên và nhiều tác giả: Geschichte der
Philosophie Band IV – Die Aufklärung (Lịch sử triết học tập IV – Khai sáng).
ISBN 3-548-03063-7. (Eva Brückner-Pfaffenberger và Donald Watts Tuckwiller dịch
từ gốc tiếng Pháp: Les Lumières).
2.
Gay, Peter: The enlightenment: An Interpretation. The
science of freedom (Dẫn luận về khai sáng – Khoa học của tự do). ISBN
0-393-00875-4.
3.
Hazard, Paul (1): Die Krise des Europäischen Geistes
1680-1715 (Khủng hoảng lương tâm ở châu Âu 1680-1715). NXB Hoffmann und Campe
Hamburg 1939 (Harriet Wegener dịch từ tiếng Pháp: La Crise de la Conscience
Européenne 1680-1715).
4.
Hazard, Paul (2): European Thought in the Eighteenth
Century (Tư tưởng châu Âu thế kỷ 18). Pelican Book 1965 (J. Lewis May dịch từ
tiếng Pháp: La Pensée européenne au XVIIIè siècle: de Montesquieu à Lessing).
5.
Herold, Theo và Wittenberg, Hildegard: Aufklärung
& Sturm und Drang (Khai sáng & Bão táp và Thúc giục – Tủ sách Lịch sử
văn học Đức). ISBN 3-12-347221-6.
6.
Hirschberger, Johannes: Geschichte der Philosophie –
Band II: Neuzeit und Gegenwart (Lịch sử triết học – Tập II: Thời cận và hiện đại).
ISBN 3-933366-00-3). Có thể tham khảo thêm trọn bộ tác phẩm này đã được dịch
sang tiếng Việt: Lịch sử triết học Tập I & II – Bùi Văn Nam Sơn và tập thể
dịch giả – NxB Tri Thức.
7.
Höffe, Otfried (I) chủ biên và nhiều tác giả: Klassiker der
Philosophie I (Những triết gia kinh điển, Tập I). ISBN 3-406-08048-0.
8.
Im Hof, Ulrich: Das Europa der Aufklärung (Châu Âu trong thời
đại khai sáng). ISBN 3-406-37091-8.
9.
Mann, Golo và Nitschke, August: Weltgeschichte Band
VII – Von der Reformation zur Revolution (Lịch sử thế giới bộ VII – Từ cải cách
tôn giáo tới cách mạng). ISBN 3-549-05017-8.
10.
Martus, Steffen: Aufklärung – Das deutsche 18.
Jahrhundert (Khai sáng – Nước Đức trong thế kỷ 18). ISBN 978-3-499-62767-5.
11.
Pleticha, Heinrich chủ biên và nhiều tác giả: Aufklärung und
Revolution – Europa in 17. und 18. Jahrhundert (Khai sáng và Cách mạng – Châu
Âu trong thế kỷ 17 và 18). ISBN 3-577-15008-4 (Bertelsmanns Weltgeschichte –
Band 8).
12.
Porter, Roy (1): Enlightenment – Britain and the
creation of the modern world (Khai sáng – Anh quốc và sự thành lập thế giới hiện
đại). ISBN 0-14-025028-X.
13.
Porter, Roy (2): Kleine Geschichte der Aufklärung (Lịch
sử ngắn về Khai sáng – Ebba D. Drolshagen dịch từ tiếng Anh: The enlightenment,
xuất bản 1990). ISBN 3-8031-2192-2.
14.
Samhaber, Ernst: Geschichte Europas (Lịch sử châu Âu).
ISBN 3-771-30169-6.
15.
Schneiders, Werner (1) chủ biên và nhiều tác giả: Lexikon der
Aufklärung (Từ điển tường giải về khai sáng). ISBN 3-406-39920-7.
16.
Schneiders, Werner (2): Zeitalter der
Aufklärung (Thời đại khai sáng). ISBN 3-406-44796-1.
17.
Van Doren, Charles: Geschichte des
Wissens. ISBN 3-764-35324-4. (Lịch sử của tri thức – Anita Ehler dịch từ tiếng
Anh: A history of knowledge).
18.
Vorländer, Karl: Geschichte der Philosophie V:
Philosophie der Neuzeit – Die Aufklärung (Lịch sử triết học V: Triết học hiện đại
– Trào lưu khai sáng). ISBN 3-499-55281-7.
19.
Zimmer, Robert: Philosophie von der Aufklärung bis
heute (Triết học từ thời đại khai sáng đến nay). ISBN 3-589-21499-6.
Ghi
chú
[1] Xem
S. Martus, trang 99.
[2] Xem
G. Mann trang 469 – Fritz Schalk.
[3] J.
Swift (1667-1775) là văn sĩ thường viết truyện theo thể châm biếm chính trị nổi
tiếng của thế kỷ 18. Ông là một giáo sĩ tiến bộ, có phần nào nổi loạn, một trí
thức sáng giá trong văn chương nghệ thuật của trào lưu khai sáng.
[4] Xem
R. Porter (2) trang 21.
[5] Xem
J. Hirschberger, trang 245-246.
[6] Xem
thêm R. Zimmer, trang 18-19.
[7] Xem
J. Hirschberger, trang 247.
[8] Letters
Concerning The English Nation
[9] Xem
E. Samhaber, trang 392.
[10] Xem
W. Schneiders (2) trang 14.
[11] Tinh
thần châu Âu ở đây được hiểu là lục địa thống nhất theo tinh thần xứ
hoàng hôn (Abendland – Occident).
[12] Xem
J. Hirschberger trang 3-5.
[13] Xem
J. Hirschberger trang 245.
[14] Xem
Im Hof trang 142.
[15] Encyclopédie,
ou dictionaire raisonné des sciences, des arts et des métiers. Chủ biên:
Denis Diderot và D’Alembert (Jean-Baptiste le Rond), cả hai đều là viện sĩ Viện
hàn lâm khoa học Pháp. Hơn 150 tác giả hàng đầu trong mọi ngành tham gia việc
biên soạn.
[16] Xem
W. Schneiders (1) trang 102 – Willi Goetschel.
[17] Stanford Encyclopedia of Philosophy –
Keyword Enlightenment.
[18] Xem
P. Hazard (2), trang 218.
[19] Xem
G. Mann trang 494 – Fritz Schalk.
[20] Xem
G. Mann, trang 472 – Fritz Schalk.
[21] Xem
P. Hazard (2), trang 220.
[22] Xem
T. Herold trang 24.
[23] Gốc
tiếng Pháp: Lettres persanes, xuất bản lần đầu tại Hà Lan, tác giả vô danh.
[24] Đây
cũng là hình thức khôn khéo để phổ biến tư tưởng hòng qua mặt hệ thống kiểm duyệt,
vì không ai lại trân tráo kiểm duyệt một tác phẩm văn chương vốn dĩ mang tính
chất hư cấu.
[25] Xem
Im Hof, trang 147.
[26] Stanford
Encyclopedia of Philosophy.
[27] Xem
R. Zimmer trang 17.
No comments:
Post a Comment