Huỳnh
Thiện Quốc Việt dịch
01/05/2024
https://www.phantichkinhte123.com/2024/05/trung-quoc-nhung-nguoi-theo-chu-nghia.html#more
Nhà văn Trung Quốc Mặc Ngôn (Mo Yan) và là người nhận giải
Nobel văn học trở thành mục tiêu của những người theo chủ nghĩa dân tộc
Trung Quốc trên các trang mạng xã hội. (Nguồn: Killeen
Daily)
Dưới sự cai trị của Tập Cận Bình,
Trung Quốc đang dần dần khép kín với thế giới bên ngoài. Khi cuộc khủng hoảng
kinh tế ngày càng sâu sắc, xã hội đặt ra nghi ngờ về tương lai của đất nước. Đến
mức nhiều nhà quan sát đang tự hỏi: liệu người ta có đang chứng kiến sự xuất hiện
một Cách mạng Văn hóa mới để phản ứng lại tất cả những điều nói trên?
Được thúc đẩy bởi chủ nghĩa dân tộc ngày càng gay gắt hơn
bao giờ hết, các trang mạng xã hội Trung Quốc đang bùng cháy. Họ cáo buộc tùm
lum các nghệ sĩ, nhà văn và doanh nhân là những kẻ “phản quốc”. Một
sự trượt dài đang bắt đầu khiến ngay cả bộ máy Đảng Cộng sản phải lo
lắng. Thật vậy, mặc dù được kiểm soát chặt chẽ bởi hàng ngàn người kiểm duyệt hăng
máu và phục tùng giới cầm quyền, các trang mạng xã hội này đang tăng gấp
đôi sự cường điệu về chủ nghĩa dân tộc, với bối cảnh là sự tự tôn lòng yêu nước
được chế độ mong muốn và duy trì một cách cẩn thận.
Gần đây, làn sóng tấn công đã nhắm vào Đại học
Thanh Hoa danh tiếng ở Bắc Kinh, bị cáo buộc tội phản quốc với lý do trường này
không nằm trong danh sách các mục tiêu trừng phạt của Mỹ. Nhiều cộng đồng mạng
Internet khác đã bắt đầu nhắm đến phong cách ăn mặc “quá Nhật Bản” của cựu
vận động viên thể dục Lý Ninh (李宁), 61 tuổi, người đã đoạt sáu huy chương ở [Thế vận hội mùa hè] Los Angeles
vào năm 1984.
Tất cả đều diễn ra trên mạng [Toile] trong cuộc tranh cãi
mang âm hưởng Cách mạng Văn hóa. Ví dụ với thương hiệu thức uống nổi tiếng Nông
Phu Sơn Tuyền (农夫山泉), công ty nước đóng
chai lớn nhất được thành lập vào năm 1996. Nhà sáng lập công ty, Chung Thiểm
Thiểm (钟睒睒), 70 tuổi, đã trở thành
doanh nhân giàu nhất Trung Quốc, với khối tài sản ước tính khoảng 60 tỷ USD.
Con trai ông là Chung Thực Tử (钟 塾子), người có hộ chiếu Mỹ đã bị tố “không đủ tư cách là người Trung Quốc”.
Như Jean-Paul Yacine của
trang mạng chuyên ngành Question Chine [Vấn đề Trung Quốc] đã chỉ ra trên
mạng xã hội Weibo, một dạng Twitter của Trung Quốc, gần đây người ta đã đọc thấy:
“Chung Thực Tử sẽ thừa kế khối tài sản khổng lồ của cha mình. Nhưng
người giàu nhất ở Trung Quốc, trong tương lai, lại là một người Mỹ. Không thể
tin được.” Nhiều người khác thì cáo buộc tội phản quốc, từ việc
các quỹ đầu tư Vanguard và BlackRock của Mỹ đã đầu tư vào Nongfu.
Làn sóng quấy rối này tận dụng rất nhiều đòn bẩy dân tộc
chủ nghĩa cổ điển xuất phát từ lòng căm thù Nhật Bản, được chính quyền Trung Quốc
thường xuyên sử dụng để chuyển hướng sự chú ý của người dân, khi các vấn đề
trong nước đang gia tăng như trường hợp hiện tại. Đây là lý do vì sao các chai
trà thương hiệu Nongfu bị chỉ trích vì có hình trang trí cá chép koi (鯉), gợi nhớ lại các biểu ngữ truyền thống Koinobori (鯉幟) của Nhật Bản, rất được Clemenceau [Thủ tướng Pháp trong thời gian
1906-1909 và 1917-1920 – ND] yêu thích.
Jean-Paul Yacine đã viết, “Như thường lệ, với
sự phấn khích mang tính tập quần và lây lan, sự cuồng nhiệt cáo buộc, theo kiểu
luật giang hồ, đã không chỉ giới hạn ở các trang mạng xã hội. Ngày 10 tháng 3,
một bản tin của một đài truyền hình địa phương cho thấy hai cửa hàng
7-Eleven [theo ý niệm thiết kế của Nhật] ở thành phố
Thường Châu, tỉnh Giang Tô, đã loại bỏ tất cả các sản phẩm Nongfu khỏi kệ của họ.” Ở
lối vào cửa hàng, một tấm áp phích có nội dung có giá trị cảnh báo rõ ràng: “Chúng
tôi bán sản phẩm từ khắp nơi trên thế giới. Nhưng chúng tôi không bán sản phẩm
có xuất xứ từ những doanh nghiệp ca tụng nước Nhật.”
Tệ hơn nữa, các video được tải lên Weibo cho thấy người
quá khích đổ thức uống Nongfu xuống bồn cầu. Và nhiều cộng đồng mạng Internet
chia sẻ hình ảnh các chai thức uống Nongfu, cùng với lời bình, với một ý đồ xấu
rõ ràng, nhấn mạnh rằng thương hiệu này, trong thực tế, tượng trưng cho ngôi đền
Yasukuni ở Tokyo, nơi mà người Nhật nuôi dưỡng ký ức về một số tội phạm chiến
tranh.
“TRÒ HỀ DÂN TÚY”
Cuối cùng, một tình huống hiếm hoi, lòng thù hận theo chủ
nghĩa dân tộc mang tính cáo buộc nhắm vào những kẻ phản bội thậm chí đã rút khỏi
lĩnh vực tranh cãi thương mại, để tấn công vào lĩnh vực văn học nhạy cảm hơn,
chính xác là vào lĩnh vực của người nhận giải Nobel Mặc
Ngôn (莫言), khi mà vào thế kỷ 20,
tài năng người Trung Quốc này đã nhiều lần xích lại gần những tham chiếu xuất sắc
của phương Tây. Ở tuổi 69, người nhận Giải Nobel Văn học 2012 đã bị cáo buộc “xúc
phạm tình cảm yêu nước của người Trung Quốc” – thuật ngữ
thường được giới tuyên truyền Bắc Kinh sử dụng để chống lại sự chỉ trích của nước
ngoài – đồng thời nhắm vào sự bôi nhọ Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) và xúc
phạm cả Chủ tịch Mao lẫn người dân Trung Quốc. Trên ghế bị cáo về những phẫn nộ
theo chủ nghĩa dân tộc, cuốn sách Le sorgho rouge [Cao
lương đỏ] (1986) của ông, được chuyển thể thành phim vào năm 1987
do Zhang Yimou [Trương Nghệ Mưu] đạo diễn cùng với Gong
Li [Củng Lợi], bà hiện đang sống ở Pháp và chưa bao giờ nói về tình hình
chính trị ở Trung Quốc.
Chủ nghĩa sô-vanh không kiềm chế đang được tổ chức và tự
khoe là nó tuân thủ pháp luật. Một cư dân mạng tên Mao Tinh Hóa luôn nói lời
thiệt (说真话的毛星火), đã đệ đơn kiện Mặc
Ngôn, đòi bồi thường về những thiệt hại và lợi ích, và yêu cầu cấm bán công
khai các sách của ông ấy. Sự vận động của Mao Tinh Hóa còn kèm theo một bản cáo
trạng dài gửi tới tòa án cáo buộc Mặc Ngôn đã “xúc phạm tình cảm [yêu
nước] của người Trung Quốc”, khi Mặc Ngôn mô tả những
sai lệch trong cách hành xử của Bát lộ quân (八路軍), vốn được thành lập vào ngày 22 tháng 8 năm 1937 và do Đảng lãnh đạo
trong biên chế Quân đội Cách mạng Quốc dân trong thời kỳ Chiến tranh Trung-Nhật
(1937-1945), đồng thời ca ngợi người Nhật. “Là một thanh niên lương thiện và
yêu nước, tôi cảm thấy rất tức giận. Làm thế nào đất nước lại cho phép tồn tại
một hành vi như thế?”, cư dân mạng Internet này đã viết. Các
blogger theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan khác đã tập hợp lại vì “chính nghĩa”
này, gọi “khiêu dâm” những phần mang tính nhục dục lớn nhất
trong tác phẩm của Mặc Ngôn. Hành động của họ dựa trên một luật năm 2018 quy định
bất kỳ ai xúc phạm các anh hùng và liệt sĩ Trung Quốc đều phải chịu trách nhiệm
về mặt dân sự.
Hiểu được nguy cơ tự hủy diệt của sự cường điệu mang tính
sô-vanh này, nhiều nhà trí thức, nhà văn, nhà báo và nhà bình luận chính trị,
bao gồm cả những người từ mớ hỗn tạp của giới truyền thông chính thức, đã tự vận
động với nhau để bảo vệ Mặc Ngôn. Trong khi Hồ Tích Tân, một người rất dân tộc
chủ nghĩa, cựu tổng biên tập tờ Thời báo Hoàn Cầu [Global
Times], một tờ báo mà tự thân nó cũng theo chủ nghĩa dân tộc,
cũng mô tả cách tiếp cận của blogger này là một “trò hề dân túy”, và
bản thân Hồ Tích Tấn cũng là đối tượng bị đe dọa bởi một vụ kiện ra tòa. Tức
thì, các trang mạng đã bùng nổ với hơn hai triệu lượt truy cập xung quanh
hashtag “#MoYanenjustice” (莫言被起诉) [Mặc Ngôn bị khởi tố]. Các lời bình luận đối lập những “người
yêu nước” với những người ủng hộ chính sách xoa dịu, cảnh báo về những
nguy cơ độc hại các cuộc săn lùng phù thủy, vốn quen thuộc với những ai đã phải
chịu đựng mười năm giết chóc điên cuồng của Cách mạng Văn hóa.
“SỰ TRỪNG PHẠT CUỐI CÙNG SẼ NHẮM VÀO
NHỮNG NGƯỜI IM LẶNG”
Ở chính nước Trung Quốc, Ji Feng, một người từng tham gia
biểu tình ở Thiên An Môn, người luôn chỉ trích chính quyền và thường xuyên bị
quấy rối, đã so sánh sự cường điệu với những tố cáo công khai trong Cách mạng
Văn hóa. Ông đã phân tích các nguy cơ: “Sự trừng phạt cuối
cùng sẽ nhắm vào những người im lặng, và sau đó là chính những người đã không
ca ngợi đủ mạnh những thành tựu của bộ máy [cầm quyền].”
Kể từ khi sống lưu vong ở Úc, nhà văn Mộ Dung Tuyết
Thôn (慕容雪村), 50 tuổi, người
ký tên dưới bút danh Hác Quần (郝群), đã tố cáo sự kiểm duyệt và đàn áp chính trị và không thấy có bất cứ bằng
chứng nào cho thấy chính quyền ủng hộ những chỉ trích chống Mặc Ngôn. Ngược lại,
ông cho rằng chính chính quyền đã tạo ra môi trường chính trị có lợi cho các chỉ
trích trên.
Trong số ra ngày 28 tháng 3, nhật báo Nikkei Asia của Nhật
Bản đã ghi nhận sự mâu thuẫn giữa lời chỉ trích Nông Phu Sơn Tuyền trên
các trang mạng Trung Quốc với thực tế lịch sử, vốn cho thấy một hình ảnh ít được
biết đến của văn hóa Trung Quốc: đó là một nhà sư Nhật Bản, người đã mang sang
Nhật Bản, cách sử dụng trà Trung Quốc vào thế kỷ 13. Trên các chai trà xanh của
Nông Phu Sơn Tuyền, có giải thích một cách hợp thức rằng vào năm 1267, nhà sư
tên Nampo Jomyo đã theo học Phật giáo ở chùa Kim Sơn Tự (金山寺) trước khi trở về Nhật Bản và đã giới thiệu cách pha chế trà ở Nhật Bản,
thứ mà sau này đã cho ra đời trà xanh mạt trà Nhật Bản (抹茶), và ngày nay trà xanh matcha vẫn là thức uống rất phổ biến. “Việc tấn
công Nhật Bản khi sử dụng chùa Kim Sơn Tự và thương hiệu Nông Phu thực sự
là tư tưởng hẹp hòi và cực kỳ kỳ lạ, đặc biệt khi tính đến ý nghĩa chính trị của
ngôi chùa này.”
Bởi vì, theo lời giải thích của Katsuji Nakazawa, chuyên
gia về Trung Quốc học và cựu giám đốc văn phòng tạp chí Nikkei Asia tại
Bắc Kinh, bản thân Tập Cận Bình cũng thường xuyên đến viếng chùa Kim Sơn ở khu
vực miền núi tỉnh Chiết Giang, gần thành phố Hàng Châu. Chuyện đó diễn ra cách
đây khoảng mười năm, khi ông [Tập] là chủ tịch tỉnh này. Khi đó ông [Tập] hy vọng
rằng các chuyến viếng thăm này sẽ mang lại điều may mắn cho sự nghiệp tương lai
của ông. “[Tập Cận Bình] thích đến viếng [chùa này], và
nói rằng khi làm thế, ông sẽ có cơ hội thăng tiến”, theo lời giải
thích của một cư dân ở vùng này, được chính tờ báo [Nikkei Asia] này trích
dẫn trong một bài báo được đăng vào năm 2012. “Tôi tin chắc khu vực xung
quanh [ngôi chùa này] sẽ được hưởng lợi từ sự kiện này
để phát triển.”
CỜ NHẬT BẢN VÀ CÁ CHÉP ĐỎ
Ngay sau khi bài báo nói trên được xuất bản, Tập Cận
Bình, khi đó là chủ tịch tỉnh Phúc Kiến, đã trở thành Bí thư Tỉnh ủy Chiết
Giang trong sáu năm, rồi làm Tổng Bí thư vào năm 2012. Không lâu sau, ông trở
thành chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, rồi làm Bí thư Quân ủy Trung
ương Quân đội Giải phóng Nhân dân. Có vẻ như điều đã rõ là khi đến viếng ngôi
chùa này, ông đã biết rõ các mối liên hệ lịch sử giữa ngôi chùa Trung Quốc này
với Nhật Bản. Vào năm 2015, khi phát biểu về những trao đổi văn hóa giữa Trung
Quốc và Nhật Bản, ông đã nói bóng gió đến một tình tiết tương tự mà ông đã trải
qua ở tỉnh Phúc Kiến.
“Khi làm việc ở tỉnh Phúc Kiến, tôi đã nghe nói về
chuyến đi đến Nhật Bản của nhà sư và thiền sư nổi tiếng [Trung Quốc] Ingen
vào thế kỷ 17. Ông này đã mang [đến Nhật Bản] những giá
trị văn hóa và công nghệ tiên tiến [Trung Quốc] và đã
có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế và xã hội của thời kỳ Edo (江戸時代). Khi đến thăm Nhật Bản vào năm 2009, tôi đã đến thăm thành phố
Kitakyshu ở phía nam quần đảo và nhiều nơi khác. Tôi đã tự nhủ
không biết có bao nhiêu mối liên hệ văn hóa và lịch sử không thể tách rời giữa
người dân hai nước chúng ta”, ông Tập đã nói.
Theo nhiều lời chứng được tờ Nikkei Asia đưa tin, Tập Cận
Bình khi đó rất tự hào về ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Nhật Bản, kể cả
trong lĩnh vực văn hóa ẩm thực. [Nhà sư và thiền sư] Ingen Ruyki (茅台酒), được biết đến dưới cái tên Trung Quốc là Ẩn Nguyên Long Kì (隠元隆琦), sinh năm 1592 và mất năm 1673, là nhà thơ, nhà thư pháp và là tu sĩ theo
trường phái Lâm Tế (臨済) của Phật giáo
Thiền tông (禅, zen), khi đó là và là
vị cao tăng nhất của nơi này. Theo các tài liệu viết trong thời kỳ này, ông đã
giúp phát triển văn hóa sencha (煎茶), một loại trà xanh, ở Nhật Bản, trong thời kỳ Edo, loại trà mà ngày nay
đã trở nên cực kỳ phổ biến ở Nhật Bản.
Cộng đồng mạng, những người chỉ trích cá chép đỏ xuất hiện
trên chai nước của Nông Phu Sơn Tuyền khi khẳng định chúng giống lá cờ Nhật Bản
là điều “nực cười”, giới truyền thông Nhật Bản cho biết thêm. “Mao
Đài (茅台酒, một loại rượu
mùi hạng sang làm từ lúa miến) được các thành
viên trong Quân đội Giải phóng Nhân dân [Trung Quốc] yêu
thích, cũng có hình cá chép đỏ trên chai. Tuy nhiên, chưa bao giờ
có bất kỳ lời chỉ trích nào về việc Mao Đài ca ngợi Nhật Bản.”
“CHIẾN TRANH NHÂN DÂN”
Trên thực tế, tất cả điều này là một minh chứng cho việc
sử dụng các khẩu hiệu vì mục đích chính trị nhằm minh họa cho bầu không khí chống
Nhật hiện nay, tờ Nikkei Asia viết tiếp. “Một trong những lý do là bầu không
khí chính trị vốn không thay đổi trong nhiều năm qua. Tinh thần chống Nhật này
được khuyến khích và tồn tại dai dẳng bởi vì việc tấn công Nhật Bản đã trở
thành phương pháp an toàn nhất về mặt chính trị để đánh lạc hướng người
dân [Trung Quốc] khỏi sự thất vọng. Tình hình có vẻ vô
vọng.”
Mao Trạch Đông đã khởi xướng cuộc Cách mạng Văn hóa thê
thảm (1966-1976). Cảm thấy bị đe dọa trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc, “Vị
cầm lái Vĩ đại” đã không ngần ngại cổ vũ Hồng vệ binh, phần lớn là những thanh
niên ít học, “bắn phá tổng hành dinh” để loại bỏ những đối
thủ công khai hoặc không công khai, và làm thế để duy trì quyền lực. Lúc bấy giờ
Mao Trạch Đông, xây dựng cho bản thân một sự sùng bái cuồng loạn, đã phát động
mười năm đàn áp tàn bạo và tàn ác, mà nạn nhân chính là giới trí thức. Nhiều
người trong giới trí thức này, bị buộc phải tiến hành các buổi tự phê trước đám
đông được kích động cao độ, đã thà tự sát còn hơn chịu đựng những đau khổ khôn
tả.
Hàng chục triệu người đã bị bức hại trong thời kỳ này, với
ước tính số người chết lên đến từ hàng trăm nghìn đến 20 triệu. Một số tác giả,
chẳng hạn như nhà tội phạm học Jean-Luc Domenach, ước tính số nạn nhân lên tới
nhiều triệu người. Bị cộng đồng quốc tế tẩy chay, Trung Quốc phải mất nhiều
năm để thoát khỏi sự cô lập, đặc biệt nhờ công lao của Đặng Tiểu Bình, người mà
từ năm 1978 đã đưa người dân Trung Quốc trở lại làm việc với chương trình cải
cách kinh tế táo bạo của mình.
Tập Cận Bình, giống như Mao Trạch Đông, đã bao quanh mình
một sự sùng bái bản thân hết mực. Trong công tác quản lý thảm hại
chính sách “không Covid”, mà một trong những hậu quả là ngăn chặn việc mở cửa
kinh tế, ông đã kêu gọi người dân Trung Quốc tiến hành “một cuộc chiến tranh
nhân dân” chống lại đại dịch,
một cách diễn đạt gợi nhớ đến cách diễn đạt thường được sử dụng trong Cách mạng
Văn hóa. Nỗi ám ảnh của ông, về sự ổn định và an ninh chính trị, kể từ nay được
ưu tiên hơn sự tăng
trưởng kinh tế của đất nước, một chính sách đã gây ra cuộc khủng hoảng
kinh tế chưa từng thấy kể từ năm 1978 và đã làm xói mòn niềm tin của các nhà đầu
tư nước ngoài.
“NGAY CẢ NGƯỜI TRONG CÙNG MỘT GIA
ĐÌNH CŨNG KHÁC NHAU”
Lo lắng trước bão táp kinh tế này, trong những tháng gần
đây, ông [Tập] đã cố gắng trấn an các nhà đầu tư này bằng cách hứa với họ rằng
Trung Quốc vẫn mở cửa cho họ. Ngày 27 tháng 3, ông đã cố gắng tiến hành một hoạt
động quyến rũ các doanh nhân Mỹ khi đích thân tiếp đón họ, nhưng khó đạt được
nhiều kết quả. “Vào buổi sáng, Tập Cận Bình đã gặp gỡ […] đại
diện cộng đồng các doanh nhân Mỹ tại Cung điện Nhân dân, đài truyền
hình nhà nước Trung Quốc CCTV đã đưa tin một cách ngắn gọn. Ông Tập Cận
Bình đã chụp ảnh cùng họ trước khi bắt đầu cuộc họp.”
Hình ảnh về cuộc gặp cho thấy Chủ tịch Trung Quốc đang
tươi cười nói chuyện với một nhóm người mặc áo vest ngồi quanh những chiếc bàn
dài. Đã có một số người ghi ghi chép chép. Trong số những người có mặt có
Cristiano Amon, CEO của Qualcomm, một gã khổng lồ của Mỹ về vi mạch, và Stephen
Schwarzman, Chủ tịch kiêm CEO của quỹ đầu tư Blackstone. “Sự khác biệt sẽ
luôn tồn tại bởi vì mọi người đều khác nhau. Ngay cả những người trong cùng một
gia đình cũng khác nhau”, ông Tập Cận Bình lập luận.
Hơn nữa, trong suốt một tuần, Bắc Kinh đã đón tiếp nhiều
khách mời đến tham dự Diễn đàn Phát triển Trung Quốc (CDF – China Development
Forum) và Diễn đàn Châu Á Bác Ngao (BAF – Boao Forum for Asia). Một cơ hội
hoàn hảo để các quan chức cấp cao Trung Quốc trực tiếp chào đón giới lãnh
đạo điều hành từ các công ty đa quốc gia và tăng cường hình ảnh các cử chỉ
mở cửa của Trung Quốc. Nhưng việc xây dựng lại niềm tin không hề dễ dàng. Đặc
biệt khi cộng đồng các doanh nghiệp, vốn đã lo lắng trước bầu không khí chính
trị, càng thất vọng bởi luật chống gián điệp mới có hiệu lực vào tháng 7 năm
ngoái, cho phép giới chức trách có một biên độ khá lớn để hành động đối với những
gì mà họ coi là mối đe dọa an ninh.
Từ thực tế trên, liệu lò xo có bị gãy đứt lâu dài hay
không? Ngày nay, nước Trung Quốc của Tập Cận Bình đang phải trả giá cho rất nhiều
sai lầm kinh tế của ông. Giới thân cận gần nhất của ông đã thiếu hiểu biết
trong lĩnh vực này một cách trầm trọng, và hệ thống quản trị Trung Quốc còn nhiều
điều không hoàn hảo. Sự thay đổi ý thức hệ, vốn gợi nhớ đến Cách mạng Văn hóa,
sẽ không có tác dụng gì để trấn an, mà ngược lại đằng khác.
Giới thiệu tác giả
|
Pierre-Antoine Donnet (1953-) |
Pierre-Antoine Donnet, cựu nhà báo của AFP, là tác giả
khoảng mười lăm cuốn sách viết về Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Ấn Độ và
những thách thức lớn của châu Á. Năm 2020, người cựu phóng viên tại Bắc Kinh
này đã xuất bản cuốn “Le leadership mondial en question, L’affrontement entre
la Chine et les États-Unis [Đặt lại vấn đề lãnh đạo thế giới, Cuộc đụng độ giữa Trung
Quốc và Hoa Kỳ]”, nhà xuất bản Editions de l’Aube. Ông cũng là tác giả cuốn
“Tibet mort ou vif [Tây Tạng chết hay sống]”, nhà xuất bản Gallimard vào năm
1990 và tái bản vào năm 2019 trong một ấn bản được cập nhật và bổ sung. Sau cuốn
“Chine, le grand prédateur [Trung Quốc, nước săn mồi vĩ đại]”, nhà xuất bản
Éditions de l’Aube vào năm 2021, thì vào cuối năm năm 2022, ông đã chủ biên một
công trình tập thể có tựa là “Le Dossier chinoise [Hồ sơ Trung Quốc]” (nhà
xuất bản Cherche Midi), và tiếp đó vào đầu năm 2023 cuốn “Confucius
aujourd’hui, un héritage universaliste [Khổng Tử ngày nay, một di sản phổ
quát]” (nhà xuất bản L’Aube).
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Nguồn: Chine:
Les nationalistes déchaînés sur les réseaux sociaux, un air de Révolution
culturelle, Asialyst, ngày 06/04/2024.
No comments:
Post a Comment