Người
Kinh: Từ đồng chí cộng sản trở thành thế lực thực dân nội địa ở Tây Nguyên
Vincente Nguyen - Luật
Khoa Tạp Chí
June 15, 2023
Quyết tâm khai hóa bằng sự thượng đẳng và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1304/2023/06/Th-c-d-n-T-y-Nguy-n.jpg
Đồ họa: Shiv/ Luật Khoa.
Nhờ vào cuộc chiến chống thực dân Pháp và sau
đó là cuộc chiến chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa, các lực lượng cách mạng cộng
sản Việt Nam luôn có cơ hội sát cánh cùng với các nhóm dân tộc thiểu số, sắc
dân bản địa cao nguyên. Họ thường chĩa mũi giáo cáo buộc “thực dân”, “đàn áp”,
“đồng hóa” sang các thế lực chính trị đối nghịch với họ.
Tuy nhiên, khi đã giành được chính quyền sau
năm 1975, nhóm người Kinh cộng sản không còn gì để đứng chung với các sắc dân
thiểu số. Điều này được minh chứng bằng một loạt các chính sách can thiệp và cưỡng
ép, dẫn đến xung đột kéo dài, mà ngay ở thời điểm hiện tại, có lẽ câu chuyện về
người Thượng Tây Nguyên lại tiếp tục được nhắc đến rất nhiều.
Vận động cách mạng trong một tiềm thức thượng đẳng
Tây Nguyên luôn được xem là một trong những
khu vực có ảnh hưởng quan trọng tới sự tồn vong của Việt Nam.
Trong Chiến tranh Việt Nam, Tây Nguyên là vùng
đệm chiến lược giữa các khu vực cao nguyên và đồng bằng do chính quyền Việt Nam
Cộng hòa nắm giữ, với đường mòn Hồ Chí Minh chạy dọc biên giới Lào - Campuchia.
Sự ủng hộ của các sắc dân bản địa là tối quan trọng cho khả năng bám trụ địa
bàn (living on the land) của lực lượng cộng sản miền Nam và Bắc Việt
Nam.
Và ở thời điểm đó, việc tìm kiếm sự ủng hộ của
các nhóm dân này không phải quá khó.
Theo nghiên cứu “Highlanders on the Ho Chi
Minh trails: Representations and Narratives” (Tạm dịch: Người Thượng
trên đường mòn Hồ Chí Minh: Những đại diện và những câu chuyện kể), chính
quyền cách mạng Việt Nam đã cố gắng bắt rễ ở Tây Nguyên ngay từ giai đoạn Việt
Minh. [1] Cho đến Chiến tranh Việt Nam, sự ủng hộ của các sắc dân bản địa lại
càng quan trọng hơn.
Chiến thuật xây dựng lòng tin của cán bộ cộng
sản tại đây tuân thủ theo lý luận về xây dựng phong trào cách mạng khá cơ bản.
Họ xoáy sâu vào sự thiếu vắng của đại diện người
bản xứ trong hệ thống quản trị quốc gia của Việt Nam Cộng hòa. Họ chỉ ra thiệt
hại đối với đất đai và thiên nhiên của các chiến dịch quân sự do Hoa Kỳ và Việt
Nam Cộng hòa thực hiện tại đây.
Cùng lúc đó, họ đưa ra những lời hứa và vận dụng
các chiến thuật hết sức kinh điển của các thế lực bên ngoài khi đến các vùng đất
bản địa đang có xung đột.
Họ hứa về một chính quyền tự trị, một đời sống
tốt đẹp hơn cho người canh tác ở Tây Nguyên. Các cán bộ cộng sản cũng tận dụng
triệt để sự đối nghịch chính trị của nhiều bộ lạc, cộng đồng khác nhau để từ đó
dần dần chiếm lĩnh không gian chính trị ở Tây Nguyên.
Tuy nhiên, việc vận dụng triệt để các nhóm diễn
ngôn này không làm mất đi niềm tin thực tế của những người cộng sản Việt Nam về
sự chậm tiến, lạc hậu trong lối sống, phong tục, và mô hình kinh tế - xã hội của
người Thượng.
Hiển nhiên, cách mạng - theo chủ nghĩa Marx -
luôn nhấn mạnh tính đoàn kết sắc tộc (interracial solidarity), nên một nhóm
cách mạng theo chủ nghĩa Marx không thể đưa ra các quan điểm có tính chất phân
biệt chủng tộc. Tuy nhiên, cũng chính chủ nghĩa Marx lại rất tin tưởng vào sự vận
động phát triển của các hình thái kinh tế xã hội. Sự hiện đại theo định hướng
xã hội chủ nghĩa (socialist modernity) mà người Kinh đang học tập và ứng dụng
thì phải tốt đẹp, phát triển hơn công xã nguyên thủy của người Thượng.
Bằng niềm tin này, ngay từ những ngày đầu, giới
cán bộ cộng sản đã mang theo tiềm thức khai sáng cách mạng cho các sắc dân người
Thượng, không khác gì người Pháp đòi khai sáng cho dân An Nam. Tuy nhiên, vì
xung đột triền miên và đụng độ một kẻ thù chung (hoặc Pháp, hoặc Mỹ, hoặc chính
quyền Việt Nam Cộng hòa), nên tư tưởng thượng đẳng này ít khi có cơ hội bộc lộ.
Mặc dù vậy, như Christopher Goscha tranh biện,
ngôn ngữ và mục tiêu chính của các cán bộ cộng sản người Kinh khi vận động, thuyết
phục và xây dựng niềm tin với các cộng đồng người dân tộc thiểu số nói chung và
người Thượng ở Tây Nguyên nói riêng, vẫn luôn luôn duy trì sự thượng đẳng, tính
ưu việt tuyệt đối của mô hình và con đường mà họ lựa chọn. [2] Tự do lựa chọn
niềm tin chính trị, theo quan điểm của những cán bộ này, không phải là một thứ
mà các sắc dân thiểu số đủ khả năng để làm.
Thiết lập một chính sách cai trị thực dân kiểu mới
Với sự duy ý chí đó, khó có thể nói các cán bộ
cộng sản người Kinh có một cách tiếp cận, một tư duy khác biệt khi nhìn vào người
Thượng ở Tây Nguyên so với cách người Pháp nhìn vào người An Nam. Tất cả đều là
những sắc dân kém phát triển, kém văn minh cần được khai sáng.
Giống như cách người Pháp đến Việt Nam dưới
danh nghĩa khai sáng nhưng cuối cùng lại tập trung vào việc khai thác thuộc địa,
người Kinh đến Tây Nguyên cũng với tâm thế này, đặc biệt sau khi họ đã xác lập
sự thống trị chính trị của mình trên toàn cõi Việt Nam.
Theo cách định nghĩa phổ thông, chủ nghĩa thực
dân là sự kiểm soát của một nhóm quyền lực đối với một khu vực hay một cộng đồng
lệ thuộc. [3] Trong đó, một quốc gia hoặc một cộng đồng khuất phục một cộng đồng
khác, khai thác cộng đồng đó về mặt kinh tế, đồng thời áp đặt các giá trị về
văn hóa, ngôn ngữ, chính trị của mình lên cộng đồng bị khuất phục.
Với định nghĩa chung này, có thể thấy chủ
nghĩa thực dân không có ám chỉ cố định là phương Tây. Người Kinh từng bị đô hộ
không có nghĩa là họ không thể trở thành kẻ đi đô hộ người khác.
Giới nghiên cứu dùng thuật ngữ internal colonialism
(chủ nghĩa thực dân nội địa) để bàn về các vấn đề tương tự đang diễn ra ở Việt
Nam.
Trong ghi nhận của tác giả Grant Evans, các
nhóm người Thượng đã từng mong ước rằng sau khi chiến tranh kết thúc, họ có thể
trở về với buôn làng, với vùng đất thiêng của mình và gây dựng lại đời sống như
xưa. Tuy nhiên, đó là mong ước chưa bao giờ trở thành hiện thực. [4]
Ngay sau khi chiến tranh kết thúc, các chiến dịch
tái định cư, tái kiến thiết, tái phân bổ lao động và xây dựng vùng kinh tế mới
đều chủ yếu nhắm vào đất đai tại Tây Nguyên và các vùng đất lịch sử do người
Thượng quản lý.
Lần lượt các chính sách “xâm lược” của chính
quyền mới tiếp quản miền Nam Việt Nam cho đến các phong trào di cư tự phát hỗn
loạn của người miền khác lên vùng đất mới, cũng như sự xuất hiện của các công
ty khai thác gỗ phi pháp (vốn nhận được sự hậu thuẫn của chính quyền địa
phương) khiến cho các sắc dân bản địa gần như không có bất kỳ thời điểm nào được
phép tự trị như lời hứa của các cán bộ cộng sản trước đó.
Từ một sắc dân đa số hiện hữu ở khu vực Tây
Nguyên, người Thượng bị trung hòa bởi làn sóng người Kinh di cư, bị biến thành
sắc dân thiểu số ngay trên chính vùng đất của mình.
Từ chủ đất và người canh tác chính trên những
mảnh đất cao nguyên, người Thượng bị đẩy sâu vào các khu vực hẻo lánh và khả
năng sản xuất công nghiệp, nông nghiệp thấp.
Từ chỗ có một hệ thống văn hóa, chính trị tự
chủ, tự quyết, tương lai của cộng đồng người Thượng gói gọn trong các quyết
sách chính trị dành cho người thiểu số của đảng bộ và chính quyền địa
phương.
Không chỉ vậy, nghiên cứu của Grant Evans còn
cho thấy chính sách nhân học nói chung của các học giả người Kinh, dưới sự giám
sát và định hướng của chính quyền Hà Nội, tiếp tục sản xuất ra những sản phẩm bất
lợi cho sự tồn tại và phát triển của văn hóa người Thượng ở Tây Nguyên.
Cụ thể hơn, một số tác giả, như Đặng Nghiêm Vạn,
thể hiện rất rõ thái độ chủ nghĩa Marx và đặt nhu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội
lên trên việc công nhận và hỗ trợ duy trì đời sống truyền thống của người Thượng.
Các nghiên cứu của ông Vạn, cũng như rất nhiều tác giả nhân học người Kinh
khác, đều ủng hộ chính sách tái định cư và tái phân phối nguồn lực lao động người
Kinh về Tây Nguyên với lý do sự phân bổ của người Kinh vào các khu vực này giúp
rút ngắn khoảng cách phát triển của các cộng đồng bản địa. Cách nhìn này rõ
ràng thể hiện tính thượng đẳng khi những người Kinh cộng sản nhìn vào cộng đồng
người Thượng ở Tây Nguyên.
***
Tính chất thực dân của các chính sách mà người
Kinh dành cho người Thượng ở vùng đất Tây Nguyên thể hiện vô cùng đậm
nét.
Nói không ngoa, nếu so sánh những chính sách
này với chính sách của thực dân Pháp trong giai đoạn đô hộ Việt Nam thì cũng
không phải là quá đáng. Tuy nhiên, để đòi hỏi người Kinh thừa nhận và tìm hướng
hòa giải các xung đột sắc tộc do chính họ gây ra thì chẳng khác gì một tưởng tượng
viển vông.
------------
Chú thích
1. Pholsena, V. (2008). HIGHLANDERS ON THE HO
CHI MINH TRAIL. Critical Asian Studies, 40(3), 445–474. https://doi.org/10.1080/14672710802274151
2. Vietnam and the world outside: The case
of Vietnamese communist advisers in Laos (1948–62) on JSTOR. (n.d.). https://www.jstor.org/stable/23750295
3. Blakemore, E. (2021, May 3). What is
colonialism? Culture. https://www.nationalgeographic.com/culture/article/colonialism
4. Internal Colonialism in the Central
Highlands of Vietnam on JSTOR. (n.d.). https://www.jstor.org/stable/26531807
-------------------
LIÊN QUAN
Khi Tây Nguyên không còn là nhà
Gần hai thập kỷ, người Thượng vẫn không ngừng tháo chạy khỏi Tây Nguyên
vì sự truy bức của chính quyền Việt
.
Đồn đoán chính trị trong vụ xung đột ở Tây Nguyên là vũ khí chống lại độc
quyền thông tin
Đây không phải là tin giả, mà là kỳ vọng đối thoại của một cộng đồng.
Võ Văn Quản - Luật
Khoa tạp chí
.
Vấn đề tôn giáo tại Tây Nguyên: Chính quyền càng can thiệp thô bạo càng
không có lối thoát
Các sắc tộc bản địa không chấp nhận sự kiểm soát của người Kinh đối với
Tây Nguyên.
No comments:
Post a Comment