Số
phận lận đận của hải quân Nga
Bùi Vũ
Tháng Tư 18, 2022
https://nghiencuulichsu.com/2022/04/18/so-phan-lan-dan-cua-hai-quan-nga/
Hạm đội biển đen tuần tra 1849
Học thuyết hải quân của Liên Xô và Nga chủ yếu
dựa vào khả năng tác chiến độc lập của từng tàu nên dù là tàu sân bay thì nó
cũng sẵn sàng chở ít máy bay đi để nhường không gian chứa tên lửa. Đó là lý do
tại sao Nga gọi tàu sân bay Kuznetsov là tuần dương hạm hàng không.
TỪ THẾ KỈ 17 ĐẾN
THẾ KỈ 19
Nga là quốc gia nằm sâu trong lục địa, do vậy
suốt một thời gian dài, những người trị vì nước Nga chú trọng vào các binh chủng
trên bộ hơn là hải quân. Ý tưởng về một lực lượng hải quân là do Peter Đại Đế
nghĩ ra. Ông nhận thấy thời đại hàng hải đã đến, và Nga muốn giàu mạnh thì phải
có một cảng biển nước ấm để giao thương quanh năm, đi kèm với đó là một lực lượng
hải quân hùng hậu để bảo vệ các tuyến hàng hải. Giấc mơ này là trở thành kim chỉ
nam cho các chính sách của ông trong thời gian trị vì từ năm 1682-1721. Thậm
chí trước khi lên ngôi, Peter Đại Đế đã thực hiện một chuyến du hành sang các
nước Tây Âu mà mọi người sau này gọi là Đại Phái Bộ Sứ Thần để
học hỏi về ngành đóng tàu và cách tổ chức hải quân. Ông thậm chí còn xin vào
làm thợ ở một xưởng đóng tàu Hà Lan dưới cái tên “binh nhất Pyotr
Mikhailovich”. Ngoài ra, ông còn ghé thăm London để học cách tổ chức hải quân,
ghé thành phố Manchester để quay về xây dựng lên thành Saint Peterburg.
Khi lên ngôi, ông đưa nước Nga vào những cuộc
chiến tranh giành lãnh thổ với mục đích tiến ra biển như Chiến tranh
Nga-Ottoman để mở cửa biển Azov, Đại Chiến Bắc Âu để tiến ra biển Baltic. Để rồi
thành quả cuối đời mà ông để lại cho nước Nga là một căn cứ hải quân đầu tiên của
Nga và một lực lượng hải quân với 352 chiến hạm và 328.000 thủy quân.
Vào thế kỉ 18, dưới sự trị vì của Catherine Đại
Đế, hải quân Nga phát triển thành lực lượng hải quân đứng thứ 4 toàn cầu, sau
Anh, Tây Ban Nha và Pháp. Đi kèm với đó là một lãnh thổ trải dài tới Odessa và
quyền kiểm soát Biển Đen.
ĐẦU THẾ KỈ 20
Với những thất bại của những người kế nhiệm, hải
quân Nga từ từ đánh mất đi vị thế của mình và trở nên lạc hậu. Mãi đến thời
Nicolas II, hải quân Nga mới được chú trọng trở lại. Nước Nga tiếp tục học theo
mô hình của hải quân Anh, từ cách tổ chức cho đến phong cách đóng tàu. Thời
gian này cũng là lúc mà nước Nga chú trọng phát triển vùng Viễn Đông xa xôi,
tuyến đường sắt xuyên Siberia sắp hoàn thành và đạt được quyền sử dụng cảng nước
ấm Lữ Thuận của nhà Thanh. Nhưng tham vọng Đông Á của Nga đã va chạm với quyền
lợi của Nhật (vừa kết thúc cuộc Duy Tân và cũng có lực lượng hải quân học hỏi
theo mô hình nước Anh) tại Triều Tiên. Kết quả là chiến tranh Nga-Nhật nổ ra, một
cuộc chạm trán giữa hai “học trò của nước Anh” diễn trên biển Hoàng Hải.
Nicolas II muốn phía Nhật nổ súng trước để có thể tấn công dưới danh nghĩa “tự
vệ”. Ông bắt hạm đội Nga ở Lữ Thuận phải cố thủ để rồi bị hải quân Nhật bao vây
không cho ra. Một hạm đội khác được thành lập, bao gồm gần như toàn bộ tàu chiến
của Nga lúc đó, tức tốc chạy từ châu Âu sang châu Á để rồi chìm gần hết trong
trận Hải Chiến Đối Mã (Tsushima).
Đến Thế Chiến I, hải quân Nga vẫn chưa khôi phục
lại được thì 2 cuộc cách mạng diễn ra, rất nhiều sĩ quan, kĩ sư có kinh nghiệm
bị bắt và xử tử. Số tàu chiến mà chính quyền Sô Viết nhận được chỉ chiếm 16.2%
số tàu của Đế Quốc Nga. Cụ thể, năm 1921, so với năm 1917, chỉ có 5.5% thiết
giáp hạm, 0% tuần dương hạm, 10% khu trục hạm, 5.8% tàu ngầm, 2.7% mìn và mạng
lưới chắn, 4.9% pháo hạm, 7.2% tàu truyền tin và tuần tra sông. Quá trình giảm
hạm đội do Chính Phủ Liên Xô thực hiện từ tháng 3 năm 1921 đến tháng 12 năm
1922, số lượng nhân viên của Lực lượng Hải quân Hồng quân đã giảm từ 86,580 xuống
còn 36,929 người, và số lượng chiếm hữu cho đóng tàu và sửa chữa tàu đã giảm
khoảng 3.3 lần.
SỰ PHỤC HỒI DƯỚI
THỜI STALIN
Đến thời Stalin, Liên Xô mới từng bước hiện đại
hóa hải quân, 133 tàu ngầm đã được chế tạo theo thiết kế được phát triển trong
quá trình quản lý của kĩ sư Boris Mikhailovich Malinin trong
thập niên 1930. Ngoài ra, Stalin còn cho đóng nhiều dự án tàu mặt nước như 4
thiết giáp hạm lớp Sovetsky Soyuz (nhưng không hoàn thành vì
thiếu công nghệ và chiến tranh thế giới thứ 2), 13 tàu tuần dương (11 tàu được
hoàn thành), 104 tàu khu trục (66 tàu hoàn thành).
Nhưng khi Phát Xít Đức tấn công Liên Xô, nhiều
dự án đóng tàu phải ngưng trệ, thậm chí bị hủy do các cơ sở đóng tàu bị quân Đức
chiếm. Nên hải quân Liên Xô không kịp hồi phục sức mạnh và đóng vai trò rất mờ
nhạt trong cuộc chiến.
SAU THẾ CHIẾN II
CHO ĐẾN HIỆN TẠI
Đến giữa năm 1945, Stalin hiểu rằng sau khi
Phát xít Đức bị tiêu diệt, Hải quân Mỹ và Anh sẽ khẳng định vị thế của họ trên
các vùng biển thế giới. Nếu không có một lực lượng hải quân lớn, Liên Xô không
thể được gọi là một thế lực quân sự trên thế giới.
Trong một cuộc họp cấp cao diễn ra vào tháng
9/1945, Stalin đã khước từ việc chế tạo tàu sân bay và yêu cầu Hải quân Liên Xô
hoàn thành chiến hạm Sovetskaya Rossiya. Con tàu này đã được khởi công từ năm
1940 nhưng vẫn chưa thể được hoàn thiện khi chiến tranh kết thúc. Ông cũng ra lệnh
chế tạo 2 tàu chiến Dự án 24 có trọng lượng 75.000 tấn và 7 tàu Dự án 82 nặng
36.500 tấn, được trang bị 9 pháo, và chỉ phê duyệt đóng 2 tàu sân bay hạng nhẹ.
Thất bại của kế hoạch đóng tàu này đã được dự
báo từ trước. Liên Xô không có đủ cơ sở hạ tầng để chế tạo tàu chiến với quy mô
lớn. Thêm vào đó, chiến tranh đã khiến nền công nghiệp của đất nước bị điêu đứng.
Kế hoạch của Liên Xô buộc phải thay đổi: 2 con tàu nặng 75.000 tấn không bao giờ
được đóng, và chỉ 2 trong số 7 tàu nặng 36.500 tấn mới bắt đầu được chế tạo,
song không bao giờ được hoàn thành. Năm 1953, Stalin qua đời và kế hoạch phát
triển hạm đội siêu chiến hạm của Liên Xô bị đình chỉ hoàn toàn. Thay vào đó,
Liên Xô cho đóng tàu ngầm, rất nhiều tàu ngầm.
Trong giai đoạn 1956-1975, khoảng 900 tàu mặt
nước cho các mục đích khác nhau đã được đưa vào hạm đội, bao gồm hơn 400 tàu đổ
bộ, hơn 300 trục lôi hạm, 7 tàu tuần dương (bao gồm 4 tàu thuộc dự án tàu tuần
dương tên lửa 58), 30 tàu khu trục, 68 tàu tuần tra.
Năm 1985, Hải quân Liên Xô đạt đến đỉnh cao sức
mạnh, có tổng cộng 1.561 tàu, và về số lượng tàu và tiềm năng chiến đấu, đứng vị
trí thứ hai trên thế giới sau Hải Quân Mỹ.
Đến năm 1990, Hải Quân Liên Xô có 275 tàu ngầm
các loại, 7 tàu sân bay các loại (không chiếc nào là tàu sân bay đúng nghĩa), 3
thiết giáp tuần dương, 30 tàu tuần dương, 45 tàu khu trục và 113 khinh hạm.
Sau khi Liên Xô tan rã, hải quân Nga được thừa
hưởng 1 tàu săn bay, 1 thiết giáp-tuần dương, 3 tàu tuần dương, 15 tàu khu trục,
11 khinh hạm và 64 tàu ngầm.
Ngoài ra, hải quân Nga bị thiệt hại nặng do
thiếu bảo trì, thiếu kinh phí và tác động tiếp theo đến việc đào tạo nhân sự và
thay thế kịp thời thiết bị. Một trở ngại khác là ngành công nghiệp đóng tàu
trong nước của Nga bị suy giảm do phần lớn cơ sở đóng tàu thời Liên Xô nằm ở
Ukraine, và tình hình căng thẳng giữa hai nước đã tác động không hề nhỏ đến sự
phục hồi của hải quân Nga. Một số nhà phân tích thậm chí còn nói rằng khả năng
hải quân của Nga đã phải đối mặt với một sự sụp đổ “không thể đảo ngược” chậm
nhưng chắc chắn. Vào tháng 8 năm 2014, Bộ trưởng Quốc phòng Sergei Shoigu nói rằng
khả năng hải quân Nga sẽ được củng cố bằng vũ khí và trang thiết bị mới trong
vòng 6 năm tới nhằm đáp ứng với việc triển khai NATO ở Đông Âu và những diễn biến
gần đây ở Ukraina. Thực ra đó là chương trình nâng cấp các tàu chiến cũ và đóng
mới các khinh hạm và tàu ngầm, chứ các tàu chiến mặt nước cỡ lớn thì không có
đóng mới.
Tài liệu tham khảo:
https://naval-encyclopedia.com/ww2/soviet-navy
https://en.wikipedia.org/…/List_of_ships_of_Russia_by…
https://en.wikipedia.org/wiki/Imperial_Russian_Navy
STALIN’S BIG-FLEET PROGRAM by Milan L. Hauner
https://www.jstor.org/stable/26394103?seq=23
https://eng.mil.ru/en/structure/forces/navy/history.htm
No comments:
Post a Comment