NHỮNG
MẢNH HỒN HÀ NỘI ĐANG BỊ ĐẬP NÁT
NHỮNG MẢNH HỒN HÀ NỘI ĐANG BỊ ĐẬP NÁT
(TUỲ BÚT VỀ HÀ NỘI NHỮNG NĂM THÁNG BUỒN)
1. Thủ đô của bất cứ nước
nào cũng là nơi hội tụ tinh hoa cả nước, cũng là nơi đón nhận được nhiều nhất
tinh hoa thế giới. Những tài trí từ mọi miền đất nước được tuyển dụng về Kinh Kỳ
lo việc dân, việc nước. Những tài hoa dân gian từ khắp đất nước cũng tự tìm về
Kinh Kỳ đua tài, khoe sắc.
Những thị dân ba mươi sáu phố phường Kinh Kỳ
Hà Nội, dù áo gấm làm quan ra vào cổng Cửa Bắc, Cửa Đông thành cổ Cột Cờ, dù áo
lụa ngồi bán sạp hàng ở Hàng Buồm, Mã Mây, dù thợ giỏi làm nghề tinh ở Hàng Bạc,
Hàng Bông, dù áo the sĩ tử ở Văn Miếu Quốc Tử Giám hay áo nâu thợ thuyền lam lũ
ở bến Phà Đen, ở bãi Phúc Xá, từ thế hệ này sang thế hệ khác qua các triều đại
Lý – Trần – Lê, bằng lao động, tài năng và tâm hồn tinh tế hào hoa lịch lãm đã
làm nên hình hài, vóc dáng kinh kì, đã thổi vào Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội
cái hồn của những lớp người đã tạo ra nền văn hiến Việt Nam.
Nhưng từ 1954, Hà Nội cùng các đô thị cả miền
Bắc bị công nông hoá. Những áo lính mũ nan, áo ka ki đại cán bốn túi xuất thân
bần cố nông của giai cấp công nông, thành phần lãnh đạo cách mạng vô sản từ rừng
xanh núi đỏ, từ đất nghèo cày lên sỏi đá về làm chủ Hà Nội, thay máu Hà Nội,
thay hồn Hà Nội.
Từ đó những thị dân làm nên hồn Hà Nội, mang hồn
Hà Nội hầu hết đều không có thành phần giai cấp công nông lãnh đạo cách mạng vô
sản, đều không thể ở, không được ở Kinh Kỳ Hà Nội. Phải lên rừng xanh núi đỏ,
phải đến nơi đất cày lên sỏi đá khai hoang, làm kinh tế mới. Phá rừng làm ruộng.
Bạt núi làm nương. Phải ra vùng mỏ Đông Bắc cuốc than. Phải đi thanh niên xung
phong “Nơi nào đảng cần, thanh niên có. Việc gì khó, có thanh niên”.
Từ đó thị dân Hà Nội mang hồn Hà Nội tản mác
khắp nước, tản mác khắp thế giới. Hai đợt hồn Hà Nội trôi dạt lớn nhất là sau
năm 1954 và sau năm 1975.
Sau năm 1954, thị dân Hà Nội phải ào ạt lên rừng.
“Rừng ơi! ta đã về đây, mang sức của đôi tay, lao động khó khăn không quản ngại”.
Bài hát Bài Ca Người Thợ Rừng của ông nhạc sĩ Phạm Tuyên ra đời từ đó. Ông nhạc
sĩ thị dân Phạm Tuyên, con quan thượng thư Phạm Quỳnh, trí thức lớn, đỉnh cao
tinh hoa Việt Nam bị chính quyền công nông giết ngay ngày đầu cách mạng vô sản
cướp được chính quyền nhưng ông nhạc sĩ vẫn hơn hớn cần mẫn, hăng hái, thành
tâm tụng ca nhanh nhảu nhất, tưng bừng nhất từng cái đụng tay, đụng chân của đảng
công nông.
Sau năm 1954, trai gái thị dân Hà Nội phải vô
sản hoá trong vôi vữa, gạch đá, lấm lem, bụi bặm ở công trường mỏ đá Trái Hút,
Yên Bái, ở công trường khôi phục đường sắt Hà Nội – Lào Cai, ở công trường xây
dựng nhà máy gang thép Thái Nguyên, ở công trường xây dựng nhà máy Cao su, Xà
phòng, Thuốc lá, Thượng Đình, Hà Nội. Tiểu thuyết Vào Đời của nhà văn Hà Minh
Tuân ra đời từ đó.
Nhà văn Hà Minh Tuân dù là chính uỷ trung đoàn
Thủ Đô nhưng là thị dân Hà Nội. Tiểu thuyết của nhà văn thị dân viết về lớp thị
dân vào đời vô sản hoá bị xét nét từng chữ. Trai gái thị dân Hà Nội vào đời
trong bụi bặm công trường vô sản hoá để hoà nhập với cuộc sống công nông, để được
có mặt trong cuộc đời. Tiểu thuyết Vào Đời lại vô tăm tích hoá, ngục tù hoá
chính cuộc đời nhà văn thị dân. Tiểu thuyết Vào Đời bị Tố Hữu, quản giáo của
văn nghệ sĩ nặng lời phê phán. Nhà văn Hà Minh Tuân bị treo bút và bị giam cầm
không án suốt cuộc đời ngay tại căn nhà ở chật chội như phòng giam nhà tù.
Sau năm 1975, thị dân Hà Nội lặng lẽ nhưng náo
nức chen chúc trong những toa tàu chợ ì ạch trên đường sắt xuyên Việt dạt vào
phía Nam, mong được hít thở chút ít không khí dân chủ tự do còn sót lại của xã
hội tự do dân chủ Việt Nam Cộng Hoà và hối hả tìm đường ra biển trên những con
thuyền mỏng manh di tản lao ra bão táp biển Đông, phiêu bạt khắp thế giới tìm
cuộc sống tự do dân chủ.
Thị dân Hà Nội lên núi phá rừng khai hoang để
lại cho âm nhạc ca khúc Bài Ca Người Thợ Rừng. Thị dân Hà Nội vào công trường
vô sản hoá cuộc đời, vô sản hoá cả nhân cách để lại cho văn chương tiểu thuyết
Vào Đời. Thị dân Hà Nội và thị dân cả nước chồng chất trên những con thuyền mỏng
manh lao ra bão táp biển Đông tìm giá trị làm người, tìm tự do để lại cho ngôn
ngữ thế giới một từ ngữ mới: Boat People – Thuyền Nhân.
2. Nhiều đời gắn bó với Kinh
Kỳ Hà Nội nay bỏ Hà Nội ra đi, thị dân Hà Nội mang theo hồn cùa từng viên gạch
lát vỉa hè Hồ Gươm. Mang theo hồn vòm sấu quanh năm um tùm xanh tốt trên con đường
chạy ngang qua cổng Cửa Bắc thành cổ Hà Nội. Mang theo hồn màn sương mù huyền
thoại bảng lảng mỗi sớm mùa thu trên Hồ Tây, mỗi trưa mùa đông trên phố cổ dốc
Hàng Than, mỗi chiều mùa xuân trên vòm xà cừ phố Tây Hoàng Diệu. Mang theo hồn
những cái tên Hàng Cỏ, Hàng Đẫy, Nghi Tàm, Quảng Bá chỉ thầm nhắc đến trong tâm
tưởng cũng rưng rưng xao xuyến. Mang theo hồn mái ngói rêu phong phố cổ mang
theo hồn cả những toà nhà kiến trúc Pháp hai tầng, ba tầng tĩnh lặng dưới vòm
cây, tạo nên nét đẹp cổ điển mà duyên dáng hiện đại của Hà Nội.
Nhiều đời gắn bó với nương rẫy và cày cuốc, lớp
người bần cố nông từ rừng xanh núi đỏ, từ đất cày lên sỏi đá về làm chủ Hà Nội
nhưng vẫn mang hồn núi rừng, mang hồn mảnh đất sỏi đá. Hà Nội chỉ là nơi cho họ
sự đổi đời. Rừng núi là vùng kinh tế mới của thị dân Hà Nội thì Hà Nội lại là
vùng kinh tế mới của những bần cố nông bỗng được làm chủ Hà Nội.
Không có hồn của núi rừng, những thị dân Hà Nội
làm kinh tế mới ở núi rừng chỉ biết tàn phá núi rừng để khai thác triệt để lợi
ích tức thì từ đất, từ rừng. Những thị dân Hà Nội ứng xử với núi rừng ở vùng
kinh tế mới như thế nào thì những bần cố nông làm chủ Hà Nội cũng ứng xử với Hà
Nội như vậy.
Ứng xử với đất Kinh Kỳ Hà Nội như ứng xử với đất
rừng, đất ruộng sỏi đá, những cốt cán công nông làm chủ Hà Nội liền xây ngôi mộ
đồ sộ của người khai sinh ra nhà nước công nông lù lù ngay giữa phố phường kinh
kì “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”.
Đánh đuổi giặc Nam Hán ra khỏi bờ cõi, chấm dứt
ách nô lệ Bắc thuộc ngàn năm, hào kiệt Ngô Quyền xứ Đoài trung du được tôn lên
ngôi vua. Ngự ngai vàng đế vương ở Kinh Kỳ Hoa Lư, Ninh Bình nhưng khi về Trời,
nhà vua Ngô Quyền, người có công lớn nhất trong lịch sử dựng nước Đại Việt lại
về với bóng duối làng Đường Lâm, lại về với đất đồi trung du, lại về với lòng
dân Xứ Đoài.
Các vua triều Trần ba lần thắng cái ác Nguyên
Mông. Cái ác Nguyên Mông bao trùm cả hai lục địa, nô dịch cả hai lục địa Á – Âu
nhưng không nô dịch được dân tộc Việt Nam bé nhỏ. Có công với nước, với dân, với
lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới lớn như vậy nhưng khi các vua nhà Trần về
Trời, có vua về với cỏ cây quê nhà, làng Tức Mạc, phủ Thiên Trường xứ Nam Hạ,
có vua về với mây trời núi cao Yên Tử. Không vua nào chiếm một mẩu đất Kinh Kỳ
làm mộ táng vua, làm đất riêng của dòng tộc vua.
Có chí lớn và công to, hăm hở, bền bỉ và quả cảm
mở cõi về phương Nam, dựng lên hình hài, vóc dáng đất nước Việt Nam dằng dặc một
dải từ đỉnh Lũng Cú, Hà Giang đến bãi cát biển Hà Tiên, Phú Quốc nhưng các vua
triều Nguyễn mở cõi khi về Trời đều về với mảnh đất hoang sơ xa ngái thượng nguồn
sông Hương, về với những mỏm núi bình dị khuất nẻo lô xô chân dãy Trường Sơn,
xa kinh kì Huế, không tốn một thước đất vàng, đất bạc Kinh Kỳ.
Còn những cốt cán nông dân làm chủ Kinh Kỳ Hà
Nội đã giành cả vùng đất vàng, đất kim cương mênh mông Tây hoàng thành Thăng
Long làm nghĩa trang xây ngôi mộ lãnh tụ công nông.
3. Ứng xử với đất lịch sử, đất
thần linh Kinh Kỳ Hà Nội như ứng xử với đất đồng, đất bãi, đất lúa, đất ngô ở
làng quê, những cốt cán công nông làm chủ Hà Nội xây xong ngôi mộ đá cho lãnh tụ
công nông giữa phố phường Kinh Kỳ Hà Nội, lại hăm hở xây tiếp toà nhà bảo tàng
của lãnh tụ công nông liền kề ngôi mộ đá.
Để có đất xây bảo tàng trưng bày đôi dép cao
su của lãnh tụ công nông, những cốt cán công nông làm chủ Hà Nội nhưng không có
hồn Kinh Kỳ Hà Nội liền quyết định đập bỏ chùa Một Cột. Với họ, ngôi chùa nhỏ
xíu, nhỏ hơn cả cái đình làng thì đưa về làng quê và làng quê nào cũng sẵn đất
xây lại ngôi chùa nhỏ xíu đó.
Mang triết lí nhà Phật, con người hoà thuận với
thiên nhiên, ngôi chùa như một phần của thiên nhiên, như một đài sen soi bóng
xuống mặt nước và mái ngói đỏ thấp thoáng trong cây xanh như ngọn lửa cuộc sống
bập bùng bền bỉ trong thời gian vô cùng vô tận. Mang triết lí sâu thẳm và bao
dung nhà Phật, mang hồn nước Đại Việt, vị trí chùa Một Cột phải trên đất Kinh Kỳ.
Hình hài chùa Một Cột nhỏ nhắn, đơn sơ, khiêm nhường như tính cách, như cuộc sống
những vua nhà Lý sùng đạo Phật nhưng tầm vóc chùa Một Cột không hề nhỏ và ngôi
chùa của một vương triều, một thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam không
thể đưa về nơi xó xỉnh làng quê khuất nẻo.
Vua nhà Lý dời đô từ Hoa Lư, Ninh Bình về định
đô ở Thăng Long năm 1010 thì chỉ ít năm sau, đời sống ở kinh đô mới Thăng Long
đã đi vào ổn định, nề nếp, đích thân vua nhà Lý sùng đạo Phật đi dạo khắp Kinh
Kỳ chọn đất dựng chùa. Lúc đó đất Thăng Long còn loi thoi, rời rạc giữa lênh
láng hồ lớn, hồ nhỏ, giữa dào dạt sông ngòi chi lưu sông Hồng. Với chủ định
chùa phải ở hướng Tây hoàng thành Thăng Long, hướng nhà vua thường ngước lên Thần
Tản Viên trên đỉnh Ba Vĩ, vua đã chọn đất thôn Thanh Bảo, phủ Quảng Đức, xây
ngôi chùa Diên Hựu mà dân gian vẫn gọi nôm na là chùa Môt Cột giữa rừng cây
xanh.
Thợ ngoã, thợ mộc giỏi từ xứ Đông, xứ Bắc, xứ
Đoài, xứ Nam Hạ được tuyển về kinh xây chùa. Nhờ vậy ngôi chùa xây xong năm
1049 vừa nền nã, tinh tế mang nét tài hoa dân gian, vừa uyển chuyển, hài hoà với
thiên nhiên, vừa tĩnh lặng, thâm trầm sâu thẳm trong cõi từ bi nhà Phật. Chùa
xây lại ở nơi khác làm sao có được hồn lịch sử thời hình thành kinh đô Thăng
Long, làm sao có được hồn của những thợ giỏi, những tinh hoa nước Việt.
Quyết định đập phá chùa Một Cột để xây bảo
tàng trưng bày đôi dép cao su của lãnh tụ công nông làm bàng hoàng không chỉ những
thị dân mang hồn Hà Nội mà còn gây sôi sục bất yên trong lòng người dân cả nước.
Làn sóng mạnh mẽ lên tiếng đòi giữ lại ngôi chùa do vua Lý dựng lên ở mảnh đất
vua Lý chọn.
Tiếng nói điềm tĩnh, bền bỉ và lí lẽ thuyết phục
nhất giữ lại chùa Một Cột ở mảnh đất vua Lý chọn là tiếng nói của một người
lính thị dân Hà Nội khi đó mang hàm thượng tá, thượng tá Phạm Quế Dương nhà ở cạnh
thành cổ Cột Cờ. Người lính thị dân Hà Nội Phạm Quế Dương đôn đáo mang kiến nghị
không đập phá chùa Một Cột có chữ kí của hàng ngàn mảnh hồn Hà Nội trên khắp đất
nước và hàng trăm trí thức đang sống ở Hà Nội đến uỷ Nhân dân thành phố Hà Nội,
đến hội Khoa học Lịch sử, đến văn phòng Quốc hội, văn phòng Chính phủ, đến các
toà báo và đến nhiều vị có vai vế trong đảng và nhà nước. Nhờ vậy chùa Một Cột
mới được giữ lại ở vị trí của chùa từ ngàn năm trước đến muôn đời sau.
4. Hồn kinh kì Hà Nội hiển
hiện rõ nhất ở những đặc trưng kinh kì Hà Nội, chỉ kinh kì Hà Nội mới có. Hơi
may se lạnh cuối thu thì cả nước đều có, cả miền Bắc đều nhận ra rất rõ hơi
may. Nhưng chỉ hơi may se lạnh cuối thu Hà Nội mới gợi cảm, bâng khuâng đến xao
xác trong lòng người Hà Nội. Chỉ Hà Nội mới có cả toà thành, cả dãy tường thành
thấm màu thời gian, mới có cả dãy phố san sát những mái ngói rêu phong mang
tinh hoa kiến trúc truyền thống Việt Nam và mới có những phố dài thấp thoáng những
toà nhà xinh xắn, những villa duyên dáng dưới vòm cây xanh mang tinh hoa kiến
trúc Pháp tinh tế và lịch lãm, mang cả bóng dáng thời lịch sử buổi đầu xã hội
Việt Nam ngập ngừng, bối rối và cả đau đớn bước vào văn minh đô thị, văn minh
công nghiệp. Chỉ người mang hồn Hà Nội mới nhận ra hồn kinh kì ở những hàng cây
trên phố Hà Nội, tán cây lao xao cơn gió hiện tại mà hàng cây nối dài chìm vào
màn sương bảng lảng như chìm sâu hút vào quá vãng lịch sử xa xưa.
Những cốt cán công nông làm chủ Hà Nội dù có bằng
cấp kiến trúc sư, có học vị, học hàm tiến sĩ, giáo sư nhưng không có hồn Hà Nội
đã thản nhiên kí lệnh cho công ty công viên cây xanh Hà Nội hạ gục 6700 cây
xanh mang hồn Hà Nội, mang cả một phần lịch sử Hà Nội đang bám rễ sâu trong đất
cổ Hà Nội, đang tạo bóng mát cho cuộc sống Hà Nội và tạo ra cả khoảng tĩnh lặng,
khoảng sâu lắng trong hồn người Hà Nội.
Chặt hàng cây mang một phần lịch sử Hà Nội, những
cốt cán công nông làm chủ Hà Nội còn âm thầm và hối hả đập phá những ngôi nhà cổ
mang thẩm mĩ kiến trúc cổ điển Việt Nam xây lên bằng vật liệu truyền thống, bằng
bàn tay khéo và thẩm mĩ dân gian Việt Nam. Đập phá những toà nhà mang đậm nét đẹp
kiến trúc Pháp, ghi dấu ấn lịch sử thời xã hội Việt Nam theo chân các nước công
nghiệp châu Âu, chập chững bước vào văn minh đô thị.
Không đập bỏ được chùa Một Cột ở mảnh đất phía
Tây hoàng thành Thăng Long lấy đất xây bảo tàng trưng bày đôi dép cao su của
lãnh tụ công công vì để tuyên truyền cho ý nghĩa và giá trị văn hoá, tinh thần
lớn lao của bảo tàng, chủ đầu tư đã công khai với dư luận nguồn đất xây bảo
tàng. Rút kinh nghiệm, nay những người làm giầu từ đất, mang đất công ra kinh
doanh, ăn chênh lệch tiền tỉ từ việc biến đất công trình cổ thành đất thương mại
cứ lặng lẽ quây kín công trình cổ lại, gấp gáp đập phá từ bên trong. Đến khi
phá toang ra ngoài, dư luận xã hội biết, rầm rộ lên tiếng thì sự đã rồi.
Quần thể kiến trúc chạy dài bốn mặt phố Nguyễn
Thái Học, Lê Trực, Trần Phú, Hùng Vương cận kề cạnh Tây Nam hoàng thành Thăng
Long được định tên là toà nhà 61 Trần Phú mang nét đẹp kiến trúc cổ điển Pháp
được người Pháp xây đầu thế kỉ 20. Có tuổi đời cả trăm năm nhưng mái ngói vẫn đều
tăm tắp, không một gợn xô lệch. Tường dầy bụi thời gian nhưng vẫn phẳng phiu,
không một vết tróc, lở. Những góc cạnh, đường thẳng, đường lượn, hoạ tiết trên
tường vẫn sắc nét, vẫn nguyên vẹn sự tinh tế, tài hoa, lịch lãm do những nghệ
sĩ kiến trúc Pháp và bàn tay khéo người thợ Việt tạo ra. Dãy nhà dài nhưng
không hề thấy bóng dáng của ngôi nhà chung chạ, công cộng, bình dân, vẫn mang
phong cách biệt thự quí tộc Pháp.
Quần thể kiến trúc Pháp 61 Trần Phú nằm trong
mạch những biệt thự, những villa tạo ra những dãy phố vừa cổ kính, vừa hiện đại
Nguyễn Thái Học, Tràng Thi, Tràng Tiền, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Hoàng Diệu,
Phan Đình Phùng . . . hình thành bộ mặt mới của thủ đô Hà Nội bên cạnh những phố
cổ kẻ chợ, tạo nên vóc dáng thủ đô Hà Nội đầu thế kỉ 20.
Quần thể kiến trúc 61 Trần Phú như một nốt nhạc
trong bản giao hưởng kiến trúc thủ đô Hà Nội mà những kiến trúc sư tài hoa người
Pháp là những nhà soạn nhạc viết ra bản giao hưởng đó. Bỏ đi một nốt nhạc là
làm mất đi một giai điệu đẹp, mất đi một nhịp điệu, tiết tấu say đắm của bản
giao hưởng.
Quần thể kiến trúc 61 Trần Phú Hà Nội bị đóng
kín cửa, đập phá từ bên trong, từ nền tảng. Đến khi mái ngói trên cao bị dỡ trống
trơ, phơi bộ xương rui mè tênh hênh giữa trời, dư luận xã hội mới giật mình, sửng
sốt kêu lên.
Trước nỗi đau mất mát của những mảnh hồn Hà Nội,
Bí thư thành uỷ Hà Nội phải lệnh dừng đập phá thì bộ Xây dựng, nơi quản lí những
công trình xây dựng nhưng chỉ thấy giá trị đất công trình, nơi kí lệnh cho phép
mang đất công trình ra kinh doanh, biến đất công trình cổ thành đất thương mại
liền lên tiếng nói lấy được bảo vệ việc phá bỏ chiều sâu lịch sử và nét đẹp kiến
trúc hài hoà Pháp Việt của không gian kinh kì Hà Nội, bảo vệ thứ kiến trúc trọc
phú hoá, dung tục hoá, chợ búa hoá những công trình mọc lên ở Hà Nội thời kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ việc đã rồi: Toà nhà 61 Trần
Phú không có giá trị văn hoá và lịch sử!
Với những người đang làm chủ Hà Nội, coi Hà Nội
chỉ là vùng kinh tế mới, nhìn Hà Nội bằng con mắt của nhóm lợi ích, chỉ biết lợi
ích chính trị để tiến thân và lợi ích kinh tế để làm giàu, đến chùa Một Cột còn
đáng bị phá thì chả nơi nào ở Hà Nội có giá trị văn hoá và lịch sử cả. Và những
mảnh hồn kinh kì Hà Nội cứ lần lượt bị tàn phá! Như thị dân Hà Nội lên rừng làm
kinh tế mới tàn phá hồn rừng, hồn núi vậy.
Hình :
https://www.facebook.com/photo/?fbid=1860492664152105&set=pcb.1860494090818629
https://www.facebook.com/photo/?fbid=1860492927485412&set=pcb.1860494090818629
https://www.facebook.com/photo/?fbid=1860493317485373&set=pcb.1860494090818629
https://www.facebook.com/photo/?fbid=1860493730818665&set=pcb.1860494090818629
https://www.facebook.com/photo/?fbid=1860493924151979&set=pcb.1860494090818629
https://www.facebook.com/photo/?fbid=1860494067485298&set=pcb.1860494090818629
.
No comments:
Post a Comment