Bi hài kịch Afganistan – Chúng ta học được gì?
Tôn Thất
Thông - Nghiên
cứu lịch sử
Tháng Chín 8, 2021
https://nghiencuulichsu.com/2021/09/08/bi-hai-kich-afganistan-chung-ta-hoc-duoc-gi/
https://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2021/09/afganistan-map.jpg?w=551
Hình 1: Bản đồ A
Phú Hãn và 7 nước láng giềng
Có độc giả yêu cầu chúng tôi viết một bài phân tích
tường tận về lịch sử A Phú Hãn (Afganistan). Đề tài này rất hay nhưng cũng khá
phức tạp, chúng tôi chưa phân công được người nào sẽ phụ trách. Thay vào đó, vì
tính thời sự còn nóng hổi, xin ghi lại và thử phân tích vài mốc lịch sử quan trọng
để quí độc giả tham khảo, hy vọng cũng lý giải được phần nào nguyên ủy của những
biến động vừa qua. Một vài ý ở phần kết có thể tham khảo thêm để chiêm nghiệm về
những chuyện liên quan đến Việt Nam.
***
Ngày hôm nay, khi nói đến A Phú Hãn là chúng
ta liên tưởng đến những từ quen thuộc như Taliban, Al Qaida, ISIS với hình ảnh
người phụ nữ trùm đầu bằng Burqa khi ra đường. Nhìn đất nước A Phú Hãn tan
hoang hiện nay, nhiều người còn nghĩ rằng, họ chỉ là giống dân lạc hậu với
phong tục bộ lạc, khó lòng ngóc đầu lên. Có phải như thế chăng? Không hẳn là
đúng! Nhìn đời sống xã hội an bình và hiện đại của A Phú Hãn trong những thập
niên 1960, 1970 chúng ta sẽ thấy một bức tranh hoàn toàn khác.
A Phú Hãn nằm ở một vị trí chiến lược của
Trung Á, là đầu mối giao thông giữa Ấn Độ Dương với ba vùng Trung Á, Trung Đông
và Tân Cương của Trung Quốc. Từ thời trung cổ sơ kỳ, A Phú Hãn đã là một đầu mối
quan trọng trên con đường tơ lụa từ Đông sang Tây. Vì thế, nơi đây cũng là nơi
giao lưu của nhiều nền văn hóa khác nhau rất đa dạng.
Về địa lý, A Phú Hãn không có đường biên giới
ra biển, mà bị bao bọc bởi sáu quốc gia thuộc bốn đại cường của thời trung cổ.
Với vị trí đó, tự ngàn xưa A Phú Hãn đã là vùng đất tranh chấp quyền lợi giữa
các đế chế. Trong thời trung cổ là tranh chấp giữa Nga, Ba Tư, Ottoman (nay là
Thổ Nhĩ Kỳ) và Ấn Độ. Trong thời cận đại kể từ thế kỷ 18 chủ yếu là tranh chấp
giữa Nga và Anh. Trong thời kỳ đó, mặc dù Anh có vũ khí mạnh hơn nhiều, nhưng
cũng đã nhiều lần thất trận trước sức kháng cự mãnh liệt của dân quân các bộ lạc,
mà nhục nhã nhất là trận chiến đẫm máu đầu năm 1842 ở đường đèo Khurd-Kabul và
Khaiber. Cả đoàn quân và dân hơn 16.000 người bao gồm 4.500 liên quân hỗn hợp
Anh-Ấn Độ và 12.000 thân nhân liên hệ, chỉ còn 95 người sống sót chạy về
Jalalabad, trong đó chỉ có một người Anh duy nhất, bác sĩ William Brydon [xem
B. Seewald]. Sự kiện đó đã để lại chấn thương lâu dài trong ký ức ngoại
giao của Anh, chi phối chính sách thuộc địa của họ ở vùng Trung Á.
Sau 40 năm giằng co với ba cuộc chiến tranh đẫm
máu, cuối cùng Anh đã thắng và đặt nền thống trị tại đây kể từ 1880, thi hành
những biện pháp trả thù vô cùng dã man, đốt luôn cả vài khu phố ở Kabul. Anh giữ
nguyên chế độ quân chủ ở A Phú Hãn, lập hoàng thân Abdul Rahman lên làm vua, thực
chất là một vị vua bù nhìn để thực thi chính sách thuộc địa của Anh. Đọc lại lịch
sử Việt Nam dưới triều đại nhà Nguyễn, chúng ta cũng có thể thấy chút nào tương
đồng với A Phú Hãn nhưng điều rất khác biệt là, trong lúc Việt Nam phải kinh
qua những trận chiến khốc liệt mới có độc lập, thì người A Phú Hãn ở đầu thế kỷ
20 chọn chiến lược khác khôn ngoan hơn, ít tốn xương máu trong cuộc đấu tranh
giải phóng.
Sau Thế chiến I, nhờ chiến thuật ngoại giao
khôn khéo được lãnh đạo bởi Amanullah Khan (1892-1960), A Phú Hãn đã ép buộc
Anh phải trao trả độc lập vào cuối năm 1919. Sau nửa thế kỷ cai trị, Anh đã để
lại cho A Phú Hãn một đất nước tan hoang, dân trí đại đa số còn mù chữ, các bộ
lạc sống rời rạc nhau, phân liệt vì chính sách chia để trị của Anh. Tuy nhiên kể
từ ngày độc lập, Vua Amanullah Khan – vốn đã được giáo dục theo truyền thống
dân chủ – cố gắng hiện đại hóa đất nước theo mô hình một xã hội tự do. Nhà vua
tiến hành nhiều cải tổ về chính trị, xã hội và tôn giáo, ban hành hiến pháp mới
năm 1923 qui định việc tách rời tôn giáo ra khỏi chính trị và thiết lập nghị viện,
cải tổ hệ thống hành chính, giáo dục cưỡng bách cho cả nam lẫn nữ, hiện đại hóa
guồng máy nhà nước với nhiều biện pháp vô cùng tiến bộ như cấm đa thê, cấm phụ
nữ che mặt, cấm nô lệ [xem S. Massing].
Những cải tổ đó tất nhiên gặp sự chống đối của
những bộ lạc bảo thủ về mặt tôn giáo, nhưng A Phú Hãn đã từng bước thành công
trong nỗ lực xây dựng đất nước của họ trên chính sức lực của mình. Cuộc cải tổ
kinh tế sâu rộng kể từ 1929 dưới triều đại Mohammed Nadir Schah đã đặt nền móng
cho những phát triển nhanh chóng sau này. Dưới chế độ mới, A Phú Hãn một mặt mở
rộng quan hệ ngoại giao, mặt khác cũng rất dè dặt với sự „giúp đỡ“ của các cường
quốc, thường ngụy trang ý đồ thống trị bằng thuật ngữ „đồng minh“. Thái độ dè dặt
này từ lâu đã trở thành truyền thống văn hóa mà các cường quốc sau này trước
sau vẫn không chịu hiểu khi can thiệp vào quốc gia này, cho nên cuối cùng đều
phải rút lui. A Phú Hãn bước vào giai đoạn độc lập hoàn toàn kể từ 1919. Sau 15
năm cải tổ hành chính và ổn định đời sống, họ bắt đầu phát triển phồn vinh kể từ
1933, năm lên ngôi của Vua Mohammed Zahir Schah, người con của Nadir Schah.
Nửa thế kỷ độc lập
và phát triển phồn vinh
Mohammed Zahir Schah (1914-2007) ngay từ năm
lên 10 tuổi đã tiếp cận với văn hóa phương Tây khi cha ông, Mohammed Nadir
Schah, được cử làm đại diện A Phú Hãn tại Paris. Ở đó ông theo học chương trình
Pháp suốt bốn năm cho đến 1929 thì trở về nước. Cùng năm đó, cha ông được lên
làm vua kéo dài đến 1933, tức là năm ông bị ám sát. Mohammed Zahir Schah được hội
đồng bộ tộc cử làm người kế vị ngai vàng lúc vừa 19 tuổi. Trong thời gian 20
năm đầu, quyền lực nhà nước chủ yếu vẫn nằm trong tay hai người cậu thay phiên
nhau làm Thủ tướng A Phú Hãn [xem Wikipedia].
Ngay sau khi lên nắm quyền, nhà vua tiến hành
chính sách củng cố quốc gia. Các cuộc cải tổ từ trước vẫn được tiếp tục triển
khai và quan hệ ngoại giao được mở rộng. Đặc biệt đối với Đức, Ý và Nhật, A Phú
Hãn xây dựng quan hệ kinh tế sâu rộng. Tuy nhiên, khi Thế chiến II bùng nổ, nhà
vua chính thức chọn lựa thái độ trung lập cho A Phú Hãn [xem S. Massing].
Chỉ trong một thời gian ngắn vài thập niên, A
Phú Hãn đã thay da đổi thịt, từ tình trạng lạc hậu do Anh để lại sang đời sống
hiện đại phồn vinh, người dân được hưởng các quyền tự do, phụ nữ bình đẳng, tự
do thành lập đảng phái, tự do bầu cử và ứng cử (về mặt này, Việt Nam trong thế
kỷ 21 vẫn còn thua xa). Vài hình ảnh dưới đây từ truyền thông quốc tế là minh
chứng cho một đời sống hiện đại, nam nữ bình quyền, cho dù các tiến bộ đó chỉ mới
được thấy ở thành thị, chứ chưa thâm nhập được vào các vùng thôn quê núi non.
https://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2021/09/afganistan-1960-1970.jpg?w=551
Hình 2: Vài hình ảnh
về nếp sống thành thị A Phú Hãn trong những thập niên 1960, 1970
Điều làm cho Vua Mohammed Zahir Schah có danh
tiếng tốt xuyên suốt nhiều thế hệ có lẽ là, ông lên nắm quyền sau cái chết của
cha mình vào năm 1933 với phong cách chín chắn và ôn hòa. Trong 40 năm kể từ
khi nắm quyền, người dân A Phú Hãn không những được sống trong hòa bình, mà đất
nước còn đạt được nhiều tiến bộ trên mặt trận ngoại giao, bảo vệ nhân quyền và
quyền bình đẳng của phụ nữ. Vào năm 1964, nhà vua – vốn trước đó đã tiếp cận nền
dân chủ ở Pháp – ban hành hiến pháp mới, thiết lập nền quân chủ lập hiến với cơ
chế kiểm soát của nghị viện [xem FAZ], cấm hoàng thân quốc thích tham
chính, thành lập Nghị viện Nhân dân (House of People) và Viện Bô lão (House
of Elders), một cơ cấu dân chủ gần giống hạ viện và thượng viện trong các
chế độ dân chủ. Ông thường được người dân gọi một cách trìu mến là „vị quân
vương của hòa bình“, là „biểu tượng của đoàn kết quốc gia“, là „người cha của
dân tộc“.
Một sai lầm lớn lao của Mohammed Zahir Schah
là đã chần chờ không phê duyệt sớm đạo luật tự do thành lập đảng phái, cho nên
các đảng chính trị vẫn phải hoạt động bất hợp pháp và họ cảm thấy không bị ràng
buộc bởi hiến pháp. Từ đó, họ trở thành những tổ chức cực đoan vào cuối thập
niên 1960, hoạt động nửa kín nửa công khai. Nổi bật hơn hết là các đảng cộng sản
và các đảng Hồi giáo cực đoan, mà sử gia cho rằng đó là những tác nhân chính
làm phát sinh nội chiến đẫm máu sau này [xem C. Schetter].
Vua Mohammed Zahir Shah thực hiện nhiều dự án
phát triển kinh tế, bao gồm việc xây dựng hệ thống thủy lợi và đường cao tốc,
được hỗ trợ bởi viện trợ nước ngoài, phần lớn từ Hoa Kỳ và Liên Xô. Ông có đủ
khôn khéo để duy trì vị trí trung lập trên chính trường quốc tế [xem
Britanica]. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1969, nhà vua phát biểu không úp mở:
„Tôi không phải là nhà tư bản, cũng không muốn xã hội chủ nghĩa, vốn là một chế
độ có thể mang lại điều tương tự như Tiệp Khắc [ND: cuộc đàn áp năm 1968].
Tôi không muốn đất nước này trở thành chư hầu của Liên Xô, Trung Quốc hay của một
nước nào khác trên thế giới“ [xem Wikipedia]. Nhưng cũng vì chính sách
trung lập này mà nhà vua đã mở rộng cửa cho phong trào thiên tả nảy nở trong giới
thanh niên trí thức, nhất là kể từ thập niên 1950. Lúc đó, sự tranh chấp với
Pakistan về vùng đất của bộ tộc Pashtun ở phía Đông Nam không được phương Tây
giúp đỡ nhiệt tình, cho nên A Phú Hãn phải dựa nhiều hơn vào Liên Xô để có thêm
liên minh trong Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế khác. Cuộc đấu tranh ý thức
hệ bắt đầu nảy mầm trong giới thanh niên trí thức kể từ khi chiến tranh lạnh bắt
đầu, với hai tác nhân chính đầy tham vọng là Mỹ và Liên Xô.
Dưới triều đại Mohammed Zahir Shah, kinh tế
tăng trưởng không ngừng, khoa học kỹ thuật trở thành kỹ năng phổ biến trong giới
trẻ, lợi tức đầu người tăng lên nhanh chóng. Trong thời gian 18 năm từ 1960 đến
1978, lợi tức đầu người A Phú Hãn tăng bình quân 9% mỗi năm. Đó là một sự tăng
trưởng mà các nước thế giới thứ ba chỉ có thể thấy trong giấc mơ.
Hình 3: Mức tăng trưởng lợi tức đầu người 1960-2020
Để có một hình dung thực tế, chúng ta thử so
sánh lợi tức đầu người của A Phú Hãn với Việt Nam năm 1970: Lúc ấy, A Phú Hãn đạt
160 US$, miền Bắc (VNDCCH) 59 US$, miền Nam (VNCH) 82 US$. Ở một thời điểm
khác, năm 1967 khi chiến tranh Việt Nam chưa khốc liệt: A Phú Hãn 160 US$, miền
Bắc 58 US$, miền Nam 90 US$. Nếu không có các đế quốc can thiệp và đất nước cứ
tiếp tục phát triển với tốc độ như thế, thì hôm nay lợi tức đầu người A Phú Hãn
có thể lên đến 9.000 US$, gần bằng Argentina, hơn hẳn Ba Tư và gấp ba lần Việt
Nam. Tiếc cho A Phú Hãn, chữ „nếu“ không trở thành hiện thực.
Trong các thập niên 1950 và 1960, A Phú Hãn đã
xây dựng được một nhà nước hiện đại với nền giáo dục cởi mở. Rõ ràng họ đang tiến
dần đến một xã hội văn minh, tự do và phồn vinh. Một giới tinh hoa trẻ trung có
nền học vấn cao được thành hình, một tầng lớp trên giàu có ngày càng đông,
nhưng vì thế khoảng cách giữa họ với dân cư vùng núi và nông thôn ngày càng xa,
tạo nên sự chênh lệch giàu nghèo rất lớn. Bất mãn với tình trạng bất bình đẳng,
giới tinh hoa thành thị tham gia ngày càng đông vào các tổ chức chính trị cực
đoan đủ mọi màu sắc, từ ý thức hệ cộng sản đến trào lưu Hồi giáo chính thống cực
đoan [xem S. Massing]. Đạo luật thành lập đảng phái và tự do báo chí tạo
cơ hội cho các nhóm thiên tả, Marxist, Hồi giáo cực đoan có cơ hội cất cao tiếng
nói, làm cho các trào lưu chính trị ngày càng bị phân cực, dần dần mất khả năng
thỏa hiệp.
Chủ nghĩa cộng sản
và sự xâm lược của Liên Xô
Đầu thập niên 1970, hạn hán xảy ra ở A Phú
Hãn, mùa màng thất thu, thêm khủng hoảng kinh tế thế giới ảnh hưởng đến tình trạng
thất nghiệp, nghèo đói, khủng hoảng xã hội và hỗn loạn chính trị. Vào năm 1973,
trong lúc nhà vua còn dưỡng bệnh tại Ý, với sự hỗ trợ chính trị bởi một phân
nhánh của đảng cộng sản, Partcham, vị cựu Thủ tướng Mohammed Daoud
(1909-1978) tiến hành một cuộc đảo chính để cướp chính quyền. Sau ba năm ổn định,
Mohammed Daoud công bố nền cộng hòa và tự phong mình làm Tổng thống. Cũng bắt đầu
từ đây, Mohammed Daoud sa thải dần dần các thành viên thiên tả trong nội các,
xoay hướng quyền lực về phía bảo thủ Hồi giáo, đồng thời tìm cách thoát ra khỏi
vùng ảnh hưởng của Liên Xô cũng như Mỹ để hướng về cộng đồng Hồi giáo Trung
Đông.
Điều đó làm Liên Xô và đảng cộng sản A Phú Hãn
lo ngại. Hai phân nhánh Partcham và Chalk vốn dĩ kình chống nhau,
nay tạm thời đoàn kết và liên minh với nhau tiến hành cuộc đảo chính vào tháng
4 năm 1978, sau đó chia nhau quyền lực và công bố chương trình thực thi „chủ
nghĩa xã hội khoa học“. Kể từ đây, đảng cộng sản, có tên là Đảng Dân chủ
Nhân dân lên nắm quyền, thực thi các cải tổ nông nghiệp và giáo dục theo mô
hình Marxist-Leninist, đồng thời thẳng tay đàn áp đối lập [xem BPB].
Liên Xô tăng cường viện trợ máy móc, vũ khí, tài chính và cố vấn quân sự. Tuy
nhiên, ý thức hệ cộng sản chưa thể ăn sâu bám rễ trong dân, trong lúc chính quyền
cộng sản vẫn quyết tâm đạt đến mục tiêu là, biến một quốc gia cực kỳ phân liệt
về tôn giáo và bộ tộc, thành một quốc gia có cơ cấu chính trị trung ương tập
quyền theo mô hình Liên Xô. Truyền thống văn hóa và cấu trúc xã hội A Phú Hãn
có nguy cơ sẽ bị phá hủy, thêm vào đó chính sách tàn bạo và đàn áp hà khắc của
nhà nước cộng sản làm cho các phong trào chống đối xảy ra khắp nơi chống lại
chính quyền trung ương. Sắc tộc Paschtun ở vùng Đông Nam A Phú Hãn, vốn dĩ chiếm
hơn 40% dân số, kêu gọi Thánh chiến (Jihad) chống lại Kabul và dần dần được các
bộ tộc khác khắp nơi ủng hộ. Sự bất lực của quân đội đã dẫn đến một quyết định
sai lầm lịch sử của Tổng thống Hafizullah Amin, là ông đã yêu cầu Liên Xô can
thiệp bằng vũ lực kể từ cuối năm 1979, ngay trong thời kỳ cao điểm của chiến
tranh lạnh.
Với sự xâm lược của Liên Xô, lịch sử A Phú Hãn
sang trang kể từ năm 1979, chấm dứt thời đại độc lập tự chủ kéo dài 60 năm, để
bắt đầu thời kỳ xâu xé của các đại cường đi kèm với tranh giành quyền lực nội bộ,
kéo dài 40 năm đến ngày nay. Các cuộc đảo chính đẫm máu, sự xâm lược của Liên
Xô, rồi nội chiến và sự xâm lược của Mỹ năm 2001 đã làm đảo ngược hầu hết các
thành quả mà A Phú Hãn đạt được từ quá trình hiện đại hóa trong các thập niên
1950 và 1960.
Ngay từ ngày đầu khi xua quân vào Kabul, quân
đội Liên Xô đã giết luôn Tổng thống Amin, người đã chính thức yêu cầu Liên Xô
can thiệp. Vị trí đó được thay bằng Babrak Karmals (cho đến 1986), rồi Mohammed
Najibullah (cho đến 1992), thực chất là những Tổng thống bù nhìn. Liên Xô đã thực
sự chi phối hoàn toàn nền chính trị A Phú Hãn, nhưng những cuộc chống đối liên
tục của dân quân đã làm cho Liên Xô sa lầy ở đó gần 10 năm. Lúc cao điểm, quân
đội Liên Xô có mặt ở A Phú Hãn đến hơn 100.000 binh lính. Cuộc chiến 10 năm đã
làm 15.000 lính Liên Xô thiệt mạng (đó là con số chính thức từ Liên Xô, thực tế
có thể cao hơn 25.000). Phía A Phú Hãn thì không có thống kê rõ rệt, có thể khoảng
từ 100.000 đến một triệu dân quân tử vong, 7 triệu thường dân phải rời quê
hương lánh nạn đến các nước chung quanh [xem BPB].
Ngày 15.2 năm 1989, Liên Xô rút người lính cuối
cùng về nước, để lại cho A Phú Hãn một đất nước bị cày nát, hàng ngàn thôn xã bị
thiêu rụi, cấu trúc xã hội truyền thống bị tan vỡ, các nhóm dân quân rời rạc khắp
nơi trở thành hàng chục xu hướng chính trị khác nhau, đối địch cấu xé lẫn nhau.
Cuộc nội chiến bắt đầu với sự tiếp tay của các đại cường, không riêng gì Mỹ và
Liên Xô, mà cả Pakistan, Saudi Arabia và Ba Tư cũng muốn tranh giành ảnh hưởng ở
A Phú Hãn.
Nội chiến và sự
vươn dậy của Taliban
Trong thời gian Liên Xô chiếm đóng, sức kháng
cự của người dân A Phú Hãn nổi lên mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo chủ yếu bởi các học
giả tôn giáo (những Mullah) ở các địa phương. Họ kêu gọi „Thánh Chiến“ chống lại
chính quyền Kabul và tự gọi phong trào này là Mudschahidin (có nghĩa là những
người theo Thánh chiến). Lực lượng tác chiến nòng cốt của họ lúc đó được phỏng
đoán là 40.000 người, bao gồm các bộ tộc ở biên giới A Phú Hãn – Pakistan cộng
thêm quân tình nguyện từ các nước Ả Rập. Ở thế giới phương Tây, ít người có cảm
tình với Muschahidin và có thành kiến rằng đó là những chiến binh khủng bố. Ít
người biết rằng, nếu không có sự hỗ trợ của Mỹ, phong trào này đã chết từ lâu.
Vũ khí và tiền bạc cho phong trào Mudschahidin do Mỹ, thông qua Pakistan và
Saudi-Arabia, cung cấp ngay từ trong thời kỳ chưa bị Liên Xô xâm lược. Người ta
phỏng đoán rằng, Mỹ đã bỏ ra hơn 3 tỷ US$ cho Mudschahidin vì dù sao, A Phú Hãn
vẫn là một trong những địa đầu quan trọng nhất của chiến tranh lạnh [xem BPB].
Về mặt trang bị, Mudschahidin còn hưởng một kho vũ khí khổng lồ của Liên Xô để
lại: 650 xe bọc thép trong đó có 100 xe tăng, 76 máy bay trong đó có 15 chiến đấu
cơ, 5 trực thăng, súng phóng lựu, hỏa tiễn, cà-nông v.v… [xem S. Massing-2].
Điều nghịch lý trong câu chuyện A Phú Hãn là,
trong thời kỳ Liên Xô còn chiếm đóng, chính Mỹ cùng Pakistan đã giúp cho
Mudschahidin về trang bị, tin tức tình báo, huấn luyện tâm lý chiến và cả kỹ
năng sử dụng bạo lực trong chiến tranh, trên chiến trường cũng như ở hậu
phương. Mỹ đã đầu tư rất nhiều tiền để xuất bản hàng triệu sách giáo khoa cho học
sinh trẻ, chứa đầy những hình ảnh bạo lực, ý thức hệ Hồi giáo cực đoan, đối thoại
chung quanh Jihad với hình ảnh về súng ống, đạn dược, bom mìn v.v…, mục đích là
gây cảm xúc hận thù chống Liên Xô để xây dựng tinh thần kháng chiến. Những sách
giáo khoa đó được CIA tổ chức từ Pakistan để tuồn vào A Phú Hãn cũng như phục vụ
cho trường học ở các trại tị nạn. Đến năm 2002, sau khi đánh bạt Taliban, Mỹ ra
lệnh thu hồi các sách giáo khoa ấy, đếm được trên 4 triệu cuốn. Khi vụ tai tiếng
này bị truyền thông phát hiện, Mỹ gấp rút in 10 triệu sách giáo khoa khác cho A
Phú Hãn. Tổng thống Bush và phu nhân Laura phải nhiều lần lên truyền hình để
đánh bóng trở lại bộ mặt nhân đạo của Mỹ bằng cách quảng cáo sách giáo khoa mới
với nội dung mà như vợ chồng Tổng thống Bush nói là „tôn trọng phẩm giá con người,
thay vì gây ý thức hệ trong học sinh bằng chủ nghĩa cực đoan và sự mù quáng“ [xem
J. Stefens]. Tóm lại, Mudschahidin và Taliban đều từng được Mỹ đào tạo về kỹ
năng quân sự và tâm lý chiến. Cả kỹ năng sử dụng ý thức hệ Hồi giáo cực đoan
trong đấu tranh cũng được Mỹ và Pakistan huấn luyện cho dân quân từ lúc còn là
học sinh nhỏ tuổi. Cũng không đến nổi bất công, khi nói rằng, Mỹ và Pakistan là
những bà mụ đỡ đẻ cho đứa trẻ sơ sinh Taliban.
Sau khi Liên Xô rút quân năm 1989 và ngưng mọi
viện trợ tài chính và quân sự vào năm 1992, chính phủ cộng sản Najibullah cũng
nhanh chóng sụp đổ. Phong trào Mudschahidin nhanh chóng chiếm thượng phong, đồng
thời mâu thuẫn nội bộ – trước đây bị ép xuống vì họ có kẻ thù chung là Liên Xô
– nay bộc lộ ngày càng rõ. Taliban ra đời trong bối cảnh đó.
Thực ra, Taliban có nguồn gốc lâu đời hơn là
nhóm thánh chiến của thập niên 1990: Cuộc xâm lược của Anh cuối thế kỷ 19 với
những biện pháp đàn áp dân bản xứ vô cùng dã man đã để lại ý thức chống ngoại
xâm rất cao trong dân chúng theo xu hướng cực đoan, được lãnh đạo bởi những trưởng
lão Hồi giáo địa phương, tạo thành một cộng đồng trí thức Hồi giáo (viết tắt là
JUI) và một mạng lưới các trường học giáo lý khắp nơi ở Pakistan và dày đặc nhất
là khu vực thuộc sắc tộc Paschtun ở đông nam A Phú Hãn. Các trường học giáo lý
vùng Paschtun chính là tiền thân của phong trào Taliban sau này [xem G.
Steinberg]. Theo ngôn ngữ Paschtun, Taliban (Talib + an) là số nhiều của
Talib, tiếng Ả Rập có nghĩa là người đi học.
Ngoài ra, sự thành lập Taliban cũng có bàn tay
trực tiếp của Pakistan, lúc đó là đồng minh gần gũi của Mỹ. Họ muốn có một
chính phủ thân Pakistan ở Kabul. Nhưng khi nội chiến xảy ra và những nhóm
Mudschahidin có thế lực dường như không còn muốn làm vai trò đối tác, Pakistan
phải tìm đồng minh mới. Vì thế, cơ quan tình báo Pakistan, ISI chiêu dụ những
người di tản gốc Paschtun xuất thân từ những trường giáo lý để xây dựng những đội
dân quân giỏi chiến đấu. Taliban trở thành một con cờ của chính sách ngoại giao
Pakistan [xem Steinberg], và cũng là con cờ của Mỹ trong thập niên 1990.
Cả hai nước này trước sau vẫn muốn sử dụng các thành phần cực đoan A Phú Hãn để
thực hiện toan tính chính trị của mình trong khu vực.
Vào mùa thu năm 1994, một Mullah nổi tiếng
vùng Kandahar và cũng là một vị chỉ huy của Mudschahidin tên là Mohammed Omar
(1960-2013) tự nhận là mình đã nhận lệnh từ trong một giấc mơ, là phải phục hồi
„trật tự nghiêm khắc của Hồi giáo“ ở A Phú Hãn. Dưới mắt nhìn của Omar, ông bất
bình vì sự phản bội giáo lý Hồi giáo của những nhóm Mudschahidin khác, cho nên
họp với 33 người cùng chí hướng, vốn đã từng theo những khóa học từ các trường
giáo lý, họp nhau tại Maiwand gần Kandahar và thành lập nên „Phong trào Hồi
giáo Taliban“ [xem S. Massing-2]. Tôn chỉ ưu tiên của phong trào này là
trước hết chấm dứt tình trạng tùy tiện và bạo lực tàn ác của các lãnh chúa để
sau đó thiết lập một quốc gia Hồi giáo nghiêm khắc. Chỉ trong vòng hai năm,
Taliban đã tiến vào Kabul năm 1996, lên nắm chính quyền, đặt tên nước là Quốc
gia Hồi giáo A Phú Hãn (Islamic Emirate of Afganistan) và lấy Kandahar
làm thủ đô. Người ta so sánh sự thành công nhanh chóng của Omar cũng giống như
sự thành công của đấng tiên tri Muhammad ở Mekka trong thế kỷ VII. Và thuộc hạ
Taliban cũng xem như Omar đang mang trọng trách thiêng liêng đối với A Phú Hãn,
không khác gì Muhammad đối với Hồi giáo.
Sau khi nắm quyền, Taliban xây dựng một quốc
gia Hồi giáo cực kỳ hà khắc, phụ nữ bị ngược đãi, thành quả về các quyền tự do
con người trước đây không còn tồn tại, đấy là chưa kể sự trả thù man rợ đối với
những người thuộc chế độ cũ. Thế nhưng, Pakistan và Saudi Arabia vẫn tiếp tục ủng
hộ Taliban về vật chất để gây ảnh hưởng. Ngay cả Mỹ cũng tuyên bố muốn liên hệ
với Taliban, với ý định ủng hộ các công ty Mỹ và Saudi Arabia để thực hiện đường
ống dẫn dầu và khí đốt từ Turkmenistan, xuyên qua A Phú Hãn để dẫn vào Pakistan
[xem C. Schetter]. Kế hoạch đó đã được thực hiện từ 1994, cho nên các nước
liên hệ không thể cắt quan hệ với Taliban khi muốn tiếp tục. Ngoài ra, Mỹ vẫn
còn các quyền lợi kinh tế khác, đặc biệt là nguồn khoáng sản phong phú nằm ở những
vùng núi hẻo lánh của A Phú Hãn.
Trong vòng 22 năm, từ lúc Liên Xô xâm lược năm
1979 đến lúc Taliban sụp đổ năm 2001, lợi tức đầu người A Phú Hãn giảm xuống đều
đặn mỗi năm 3%. Chế độ hà khắc của Taliban, việc dung dưỡng cho các hoạt động
khủng bố và sự cô lập của hầu hết các nước trên thế giới đã làm cho A Phú Hãn mất
khả năng phát triển.
Những chuyện xảy ra sau 2001 thì đã có nhiều
sách báo nói đến, chắc mọi người đã biết, thiết tưởng khỏi cần nói thêm.
Giờ đây, Mỹ đã rút quân, Taliban lên nắm lại
chính quyền. Chuyện gì sẽ xảy ra thời gian tới? Taliban có thay đổi chính sách
cực đoan từ trước hay không? Không ai dám có một lời phỏng đoán, nhưng chính
sách tự cô lập như trước đây thì có vẻ đang trên đường tiến đến một sự thay đổi.
Dù vẫn còn ý thức hệ cực đoan, nhưng có lẽ Taliban đã học bài học ngoại giao
trong quá khứ, cần dung hòa tư tưởng cực đoan với xu hướng Hồi giáo ôn hòa của
các nước Trung Đông, cần thỏa hiệp giữa chủ nghĩa quốc gia và hợp tác quốc tế.
Có lẽ Taliban sẽ tách rời A Phú Hãn khỏi ảnh hưởng của Mỹ, Nga và mở rộng quan
hệ với cộng đồng Hồi giáo Trung Đông, như các vị vua trước đây đã có lần thử
nghiệm trong thập niên 1970.
Nếu các đại cường không nhòm ngó cấu xé A Phú Hãn
và nếu Taliban sẵn sàng xây dựng một chính quyền hòa hợp nhiều thành phần, thì
khả năng phát triển phồn vinh sẽ nằm trong lòng bàn tay như The Diplomat
đã viết đầu năm 2020: „Tài nguyên khoáng sản phong phú của Afghanistan, nếu được
khai thác hiệu quả, có thể xem là nguồn thay thế tốt nhất cho viện trợ nước
ngoài và giảm sự phụ thuộc vào các quốc gia tài trợ. Những tài nguyên này, nếu
được quản lý đúng cách, sẽ tạo cơ hội cho Afghanistan tự mình viết nên lịch sử
thành công kinh tế của riêng họ. Chính sách nhất quán, tổ chức thể chế vững mạnh
cùng với phương hướng chính trị rõ ràng sẽ mở đường để thu hút nhà đầu tư trong
và ngoài nước. Quản lý tốt các tài nguyên khoáng sản có thể mang đến kết cục của
tăng trưởng kinh tế bền vững và mở đường cho một nền hòa bình lâu dài“ [xem
Katawazai]. Chúng ta chỉ biết chúc cho hai chữ „nếu“ ở trên lần này có thể
trở thành hiện thực.
Hoa kỳ muốn gì ở A
Phú Hãn?
Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp vào A Phú Hãn sau vụ
đánh bom ngày 11.9.2001 tại New York làm hơn 3.000 người Mỹ thiệt mạng. Thời
gian đó, Tổng thống Hoa Kỳ là George W. Bush vốn nổi danh là người thích biểu
dương quyền lực, được hỗ trợ bởi một Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld thuộc
cánh diều hâu và thêm Phó tổng thống bảo thủ cực hữu Dick Cheney. Trong vòng
vài tuần, bộ ba này nhanh chóng hoàn tất kế hoạch cho chiến dịch đổ bộ vào A
Phú Hãn, có tên là Operation Enduring Freedom, đồng thời khởi động bộ
máy truyền thông để thuyết phục đồng minh phương Tây cùng tham gia chiến dịch để
„phá hủy căn cứ địa của quân khủng bố“, sau đó sẽ giao A Phú Hãn lại cho người
A Phú Hãn. Sự thật có phải như thế hay không, hay việc chống khủng bố chỉ là
bình phong che đậy những mưu đồ khác? Chúng ta thử xem hai vấn đề nổi bật nhất:
Bàn cờ chính trị Trung Đông: Chỉ trong vòng chưa đầy ba tháng, hỏa lực không quân của Mỹ và đồng
minh đã đẩy chính phủ và quân đội Taliban của A Phú Hãn ra khỏi ngoài biên giới,
thiệt hại nhân mạng của đồng minh xem như không đáng kể. Đó là chiến thắng quân
sự nhanh chóng có một không hai trong lịch sử cận đại. Chẳng thế mà hội nghị A
Phú Hãn tại Petersberg ở Đức đầu tháng 12.2001 đã có thể dễ dàng đưa đến sự đồng
thuận về một chính phủ lâm thời, và hội nghị viện trợ A Phú Hãn một tháng sau
đó tại Tokyo đã dễ dàng thông qua 4,5 tỉ US$ để chính phủ lâm thời giải quyết
các vấn đề trước mắt.
Say sưa với chiến thắng vừa đạt được, TT Bush
ra lệnh Ngũ giác đài hoàn tất kế hoạch tấn công Iraq vốn đã được Nhà trắng
thông qua từ tháng giêng 2001. Lý do Mỹ đưa ra để thuyết phục Liên Hiệp Quốc ủng
hộ là để tìm và phá hủy vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq, một bình phong được
chứng minh sau đó là tin giả (Fake news) và thuyết âm mưu, vì mãi cho đến bây
giờ, chưa ai tìm thấy một loại vũ khí như thế ở Iraq. Khác với chiến tranh A
Phú Hãn, lần này chỉ có liên quân Mỹ-Anh và một vài đồng minh không đáng kể tấn
công Iraq và chiếm Bagdah trong vòng vài tháng. Pháp phản đối Mỹ-Anh đã gây chiến
một cách bất hợp pháp vì không được Liên Hiệp Quốc đồng ý, Đức thì từ chối tham
gia với lời giải thích của bộ trưởng ngoại giao Joschka Fischer rằng, họ không
đồng ý gây chiến chỉ để chiếm hữu các mỏ dầu, Ý và Tây Ban Nha cũng đứng ngoài.
Cuộc tấn công vào Iraq có thể xem như màn độc diễn của hai cường quốc Mỹ-Anh.
Năm 2011, Mỹ rút quân sau 8 năm chiếm đóng, tiêu tốn 700 tỉ US$, để lại cho
Iraq một đất nước tan hoang, một nền chính trị bất ổn định và một phong trào khủng
bố ISIS ngày càng mạnh.
Hai cuộc chiến A Phú Hãn và Iraq xảy ra trong
vòng hai năm liên tục chứng tỏ một điều: Lý do khai chiến mà Mỹ đưa ra ở A Phú
Hãn cũng như Iraq chỉ là những bình phong không đủ kín để che dấu mục đích thực
sự, đó là việc Mỹ muốn củng cố quyền lực và ảnh hưởng chính trị ở Trung Đông vốn
dĩ ngày càng bị xói mòn với tác động của Ba Tư và Nga. Chưa kể những quan tâm
khác về kinh tế.
Nguồn khoáng sản phong phú của A Phú Hãn: Trước hết, chúng ta thử làm một tổng kết nhỏ về cuộc chiến 20 năm:
“Tin chính thức của Ngũ giác đài cho biết, Mỹ đã chi 825 tỉ US$ cho cuộc chiến.
Theo một nghiên cứu của Đại học Brown ở Rhode Island liên quan đến chi phí chiến
tranh ở Afghanistan và Pakistan, Mỹ thậm chí đã chi 978 tỉ US$. Nếu kể thêm cả
viện trợ dân sự cho khu vực đó, thì phí tổn tổng cộng có thể lên đến 2.000 tỉ
US$” [xem Weimer]. Đó là một con số khổng lồ, tính ra đổ đồng mỗi người
dân Mỹ đã trả 6.000 US$ cho cuộc chiến tranh. Làm sao cử tri Mỹ có thể chấp nhận
sự hy sinh đó, nếu chính phủ không có một viễn tượng nào để lấy lại vốn? Viễn
tượng đó có thể là đây, như Reuters đã viết: Afghanistan rất giàu tài nguyên như đồng, vàng, dầu,
khí đốt, urani, bauxite, than đá, quặng sắt, đất hiếm, lithium, crom, chì, kẽm,
đá quý, đá mịn, lưu huỳnh, đá hoa vôi, thạch cao và đá cẩm thạch. Trị
giá khoáng sản đó có thể là 3.000 tỉ US$, như cựu bộ trưởng khoáng chất A Phú
Hãn ước tính vào năm 2010. Đến bây giờ, trị giá đó còn tăng gấp bội vì còn nhiều
khoáng sản mới tìm thêm, và giá cả khoáng sản trong 10 năm qua đã tăng lên nhiều
lần, nhất là sau đại dịch Corona [xem Reuters].
Vậy thì để hợp pháp hóa việc khởi động chiến
tranh, có phải việc „phá hủy căn cứ địa của quân khủng bố“ cũng chỉ là bình
phong để che giấu mưu đồ kiếm lợi nhuận từ nguồn khoáng sản phong phú của A Phú
Hãn?
Việt Nam nên nhìn
bi hài kịch A Phú Hãn như thế nào?
Trong những ngày qua, Phó tổng thống Mỹ Kamala
Harris đến thăm Việt Nam với thái độ vô cùng thân thiện. Điều đó làm dấy lên niềm
hy vọng rất lớn vào sự hỗ trợ của Mỹ cho Việt Nam trong cuộc đối đầu với Trung
Quốc. Tìm kiếm đồng minh bao giờ cũng cần thiết, nhưng nếu đặt cược vào sự
trung thành lâu dài của đồng minh có thể dẫn đến hậu quả khó lường. Với Mỹ, điều
đó càng phải cẩn trọng hơn nhiều. Bi kịch A Phú Hãn cho chúng ta bài học gì?
Trước
hết, Mỹ can thiệp vào một nước nào không vì có cảm
tình với ai, mà việc can thiệp đó phải phù hợp với toan tính riêng của họ, hoặc
là vì địa chính trị, hoặc vì quyền lợi kinh tế sau này, hoặc vì đó là một thị
trường béo bở cho các công ty của họ, hoặc vì những điều tương tự. Cho nên khi
những yếu tố đó không còn nữa, hoặc Mỹ thấy việc can thiệp đó là một phi vụ lỗ
vốn, họ sẽ ra đi không chần chừ, bất chấp mọi thiệt hại có thể xảy đến cho dân
bản địa và đồng minh. Đó là tính thực dụng quen thuộc của người Mỹ.
Thứ
hai, cách đối xử với Mỹ như là một đối tác cần được
xem xét lại, như nhận xét của Tổng thư ký NATO, Jens Stoltenberg trong buổi họp
báo mới đây về A Phú Hãn. Sự mất tin tưởng vào Mỹ trước kia chỉ có trong giới
nghiên cứu hoặc ký giả khi quan sát cách hành xử của Donald Trump về các hiệp ước
quốc tế. Bây giờ, người ta không giấu giếm nhận xét đó ngay trong các phát biểu
của chính trị gia. Trong kế hoạch rút quân khỏi A Phú Hãn, TT Biden không hề
tham vấn đồng minh về lịch trình và phương cách, tạo nên một cuộc tháo chạy hỗn
loạn, điều đã làm cho các quốc gia châu Âu ê mặt và uy tín Mỹ giảm sút nặng nề.
Năm 2001, châu Âu đã hăng hái ủng hộ Mỹ sau cú đánh bom ở New York, nhưng giờ
đây, trước bi kịch A Phú Hãn, châu Âu đã hết tin vào Mỹ, và họ đang tìm lời giải
cho câu hỏi, làm thế nào để có thể đứng vững trong tương lai mà không cần đến Mỹ?
Thứ
ba, để giữ chân Mỹ hợp tác lâu dài, quốc gia đối
tác phải có thực lực, phải có gì để cống hiến, trao đổi. Mỹ đã rời Nam Việt Nam
năm 1975 cũng như tháo chạy khỏi A Phú Hãn năm 2021, cả hai trường hợp đều có một
điểm giống nhau: vì đấy là những phi vụ lỗ vốn. Khác với châu Âu, quan hệ ngoại
giao xuyên Đại Tây Dương dù đã sứt mẻ, nhưng không ai có thể bỏ ai mà cả hai
bên phải tiếp tục hợp tác để cộng sinh. Nếu Việt Nam muốn làm đồng minh với Mỹ
trong cuộc tranh đấu chống Trung Quốc, thì việc đầu tiên cần làm là tự mình phải
vững mạnh. Nếu vũ khí quân sự có yếu thì Mỹ cũng có thể cung cấp, nhưng về kinh
tế, chính trị, an ninh xã hội và ngoại giao thì phải vững mạnh để có gì trao đổi
với Mỹ, như thế mới mong có hợp tác lâu dài.
Thứ
tư, A Phú Hãn và Việt Nam có ít nhiều điểm tương
đồng. A Phú Hãn là vị trí chiến lược ở Trung Á, Việt Nam thì ở địa đầu sóng gió
của Biển Đông. Một cuộc xung đột quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ là thảm họa
cho Việt Nam. Nếu có chiến tranh ở Biển Đông, Việt Nam sẽ trở thành bãi chiến
trường dữ dội nhất với những thảm họa khó lường: nhân mạng, vật chất, xã hội,
văn hóa. Mọi tiến bộ đạt được sẽ bị ném lùi vài thập niên. Vả lại, nếu chiến
tranh xảy ra, đảng CSVN khó lòng huy động cuộc chiến tranh nhân dân như trong
quá khứ, mất nước là điều có thể xảy ra. Sau 50 năm cầm quyền, niềm tin của dân
chúng vào bản chất người cộng sản đã sứt mẻ trầm trọng. Cho nên vấn đề chính là
làm sao để chiến tranh không xảy ra. Giải pháp ngoại giao luôn luôn là phương
tiện tốt nhất để xử lý tranh chấp.
./.
Tôn Thất Thông, tháng chín 2021.
----------------------
Tham khảo:
BPB – Bundeszentrale für Politische Bildung: 1989 – Sowjetischer Abzug aus Afganistan (1989 – Liên Xô rút quân khỏi
A Phú Hãn).
Britanica Encyclopedia: Mohammad Zahir Schah – King of Afganistan (Vua của A Phú Hãn).
https://www.britannica.com/biography/Mohammad-Zahir-Shah
FAZ – Frankfurter Allgemeine Zeitung: Zahir Schah regiert 40 Jahre lang (Vua Zahir Schah trị vì 40 năm).
https://www.faz.net/aktuell/politik/afghanistan-zahir-schah-regierte-40-jahre-lang-157945.html
Hielscher, Hans:
Sowjetische Invasion in Afganistan – Das Vietnam der Russen (Cuộc xâm lược của
Liên Xô vào A Phú Hãn – Vietnam phiên bản Liên Xô. https://www.spiegel.de/geschichte/sowjetische-invasion-in-afghanistan-1979-das-vietnam-der-russen-a-1301765.html
Katawazai,
Ahmad Shah – The Diplomat: Afghanistan’s Mineral
Resources Are a Lost Opportunity and a Threat (Nguồn khoáng sản A Phú Hãn là cơ
hội đã mất và cũng là sự đe dọa.
https://thediplomat.com/2020/02/afghanistans-mineral-resources-are-a-lost-opportunity-and-a-threat/
Massing, Stephan – Suedasien: Afganistan – Geschichte seit 1747 (Lịch sử A Phú Hãn từ 1747).
http://www.suedasien.info/laenderinfos/254.html
Massing-2, Stephan – Suedasien: Die Taliban. http://www.suedasien.info/laenderinfos/255.html
Reuters 19.8.2021:
Factbox: What are Afghanistan’s untapped minerals and resources? (Dữ liệu: Những
nguồn khoáng sản chưa được khai thác). https://www.reuters.com/world/asia-pacific/what-are-afghanistans-untapped-minerals-resources-2021-08-19/
Ruttig, Thomas –
Bundeszentrale für Politische Bildung: Afghanistan. https://www.bpb.de/internationales/weltweit/innerstaatliche-konflikte/155323/afghanistan
Schetter, Conrad – Bundeszentrale für Politische
Bildung: Afghanistan im 19. und 20. Jahrhundert (A
Phú Hãn trong thế kỷ 19 và 20). https://www.bpb.de/internationales/asien/afghanistan/138381/afghanistan-im-19-und-20-jahrhundert
Seewald, Berthold:
Nur einer überlebte. Englands schwerste Niederlage (Chỉ một người sống sót. Thất
bại nặng nề nhất của nước Anh). https://www.welt.de/geschichte/article161130837/Nur-einer-ueberlebte-Englands-schwerste-Niederlage.html
Stephens, Joe & Ottaway, David B. – Global
Issues: From US, ABC’s of Jihad (Từ Mỹ, nhập môn của
thánh chiến).
https://www.globalissues.org/article/430/from-us-the-abcs-of-jihad (đăng lại từ Washington Post, March 23, 2002, Page A01)
Steinberg, Guido –
Bundeszentrale für Politische Bildung: Taliban. https://www.bpb.de/politik/extremismus/islamismus/36377/taliban
Weimer, Wolfram – FOCUS Online 13.8.2021: 20 Jahre Afghanistan-Mission: Westliche Truppen ziehen ab wie
gedemütigte Verlierer (20 năm sứ mệnh A Phú Hãn: Quân phương Tây rút lui như một
người thua trận bị hạ nhục). https://www.focus.de/politik/ausland/kommentar-von-wolfram-weimer-20-jahre-afghanistan-mission-die-bilanz-ist-ein-desaster_id_14213913.html
Wikipedia: Mohammed Zahir Schah. https://en.wikipedia.org/wiki/Mohammed_Zahir_Shah
Wikipedia-2: Mudschahid.
https://de.wikipedia.org/wiki/Mudschahid
No comments:
Post a Comment