Tom Glenn’s Q&A with George
J. Veith on Black April
Trịnh
Bình An dịch
Posted on April
11, 2019 by editor
Trịnh Bình An: Tháng Tư 1975, khi Tom
Glenn một cựu nhân viên mật vụ rời khỏi Việt Nam thì George J. Veith chỉ mới tốt
nghiệp trung học Hoa Kỳ.
Khi “Jay” Veith rời quân ngũ với cấp bậc Đại Úy binh
chủng Thiết Giáp đóng quân tại Đức thì Tom Glenn dành nhiều thì giờ với những bệnh
nhân AIDS vì đó là cách giúp ông quên đi những ám ảnh đớn đau từ Việt Nam. Một
người già, một người trẻ, cách nhau cả một thế hệ nhưng cả hai có cùng một điểm
chung: Việt Nam.
Đối với Tom đó là mảnh đất ông đã để lại một phần
thân thể — tai ông bị điếc vì tiếng bom nổ. Đối với Jay đó là mảnh đất chưa bao
giờ đặt chân tới nhưng chất chứa quá nhiều thứ bị che giấu. Sau nhiều năm ròng
rã tìm hiểu, Jay đã khám phá ra nhiều điều đáng kinh ngạc. Những sự thật lịch sử
trong 2 năm cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa được ông trưng ra trong tác phẩm
dày trên 600 trang: Black
April: The Fall of South Vietnam, 1973-1975 – Tháng Tư Đen: Những Ngày Tháng Cuối
Cùng Của Miền Nam Việt Nam, 1973-1975.
Dưới đây, là cuộc phỏng vấn tác giả “Black April”
– George J. Veith do Tom Glenn, tác giả “Last of The
Annamese”, thực hiện.
“Tháng Tư Đen” | Trò chuyện giữa một cựu mật
vụ Hoa Kỳ với tác giả cuốn sách đưa ra Sự Thật về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Hai tác phẩm khác về Việt Nam của Jay Veith:
Code-Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the
Vietnam War – 1998, và, Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for
American POW/MIAs from the Vietnam War – 2004. Nguồn: https://www.thriftbooks.com/a/george-j-veith/337261/
Hình :
George J. Veith, tác giả ba cuốn sách về Việt
Nam, đã hai lần ra điều trần trước Quốc Hội về vấn đề Tù Binh/Quân Nhân Mất
Tích. Nguyên
văn cuộc trò chuyện giữa Tom Glenn và George J. Veith đăng ngày
10 tháng Năm, 2012 trên trang điểm sách Washington Independent Review of Book
(Tom Glenn’s Q&A with George J. Veith on Black April.)
Tom
Glenn: Anh đã có 3 cuốn sách viết về [chiến tranh]
Việt Nam, thế nhưng anh lại lớn lên khi cuộc chiến đã tàn. Lý do gì anh đam mê
đề tài này đến thế?
Jay
Veith: Ngay khi tôi chỉ mới là đứa trẻ, tôi đã rất
thích thú với hai điều trong lịch sử: những biến cố quân sự và những bí ẩn lịch
sử. Do đó tôi trở nên mê hoặc với vấn đề Tù Binh/Quân Nhân Mất Tích, một
vấn đề đáp ứng cả hai sở thích của tôi từ lúc nhỏ. Khoảng 20 năm trước, một người
bạn biết tôi có khả năng biên khảo đã nhờ tôi giúp ông ấy tìm một số tài liệu tại
căn cứ quân sự Carlisle Barracks tại tiểu bang Pennsylvania. Trong khi lục lạo
các hồ sơ trong “Vietnam Room”, tôi phát giác ra các bản sao những báo cáo gốc
của cơ quan Joint Personnel Recovery Center, một đơn vị, thành lập tại Việt
Nam, có nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu tù binh Hoa Kỳ. Vậy mà hầu như chưa có
tài liệu nào được công bố về đơn vị này, theo như tôi được biết. Và vì luôn bị
thôi thúc phải viết, nên tôi đã nhận ra ngay là cuối cùng thì dịp may đã đến với
tôi!
Tom
Glenn: Những cuốn sách của anh được viết với cung cách của
người có kinh nghiệm trực tiếp. Anh đã từng đến Việt Nam chưa? Anh có nói được
tiếng Việt không?
Jay
Veith: Tôi chưa bao giờ đến Việt Nam – mặc dù tôi
luôn muốn đến thăm nơi ấy. Sau khi dành rất nhiều thì giờ nghiên cứu về chiến
tranh [Việt Nam], tôi cảm thấy như đó là quê hương thứ hai của mình! Tôi không
nói được tiếng Việt. Tuy nhiên, tôi có một người bạn tốt, ông Merle Pribbenow,
là người đã dịch tất cả các tài liệu này. Ông Merle từng phục vụ tại Tòa Đại Sứ
Hoa Kỳ ở Sài Gòn từ tháng Tư, 1970 cho đến ngày 29 Tháng Tư, 1975. Thật may mắn
cho tôi vì Merle, cũng như tôi, có một mối quan tâm sâu sắc, trong việc đưa ra
ánh sáng những gì đã thực sự xảy ra trong cuộc chiến. Đối với ông ấy, cũng giống
như đối với ông, đó là chuyện cá nhân. Còn đối với tôi, đó là chỉ là một bí ẩn
lịch sử lớn khác cần được điều tra.
Tom
Glenn: Nếu anh không nói được tiếng Việt, vậy làm
thế nào anh có thể phỏng vấn những người Việt đã trải qua cuộc biến động tại Việt
Nam? Anh đã phỏng vấn bao nhiêu người Việt?
Jay
Veith: Phỏng vấn những người Việt Nam là một công việc
đầy tế nhị, khác hẳn phỏng vấn những người Mỹ. Một khi đã xác định được một sĩ
quan người Việt nào tôi muốn nói chuyện, cách tốt nhất là được sự giới thiệu
chính thức từ một người hoặc là trong gia đình ruột thịt, hay thuộc “đại gia
đình quân đội” (cùng khoá, cùng đơn vị, cùng binh chủng, v.v. ) hoặc từ người
đã từng là sếp trực tiếp hoặc từng có cấp bậc cao hơn. Nếu như họ đồng ý cho phỏng
vấn, người phỏng vấn phải chuẩn bị giải thích mình là ai, đang tìm kiếm thông
tin gì, và dự định làm gì với tài liệu đó. Thường thì tôi bắt đầu bằng
cách hỏi họ sinh ra ở đâu, họ vào quân đội như thế nào, v.v.. Sau khi chúng tôi
cảm thấy khá thoải mái với nhau, và cũng còn tùy thuộc vào tính khí và khả năng
nói tiếng Anh của người ấy, chúng tôi mới có thể đi vào các khía cạnh cụ thể của
một trận chiến.
Nếu người được phỏng vấn có trở ngại về tiếng Anh,
tôi sẽ yêu cầu họ viết những kinh nghiệm của họ bằng tiếng Việt và sau đó tôi
nhờ người dịch lại. Cách làm này đạt kết quả rất tốt. Tôi đã phỏng vấn khá nhiều,
có lẽ khoảng 45 sĩ quan, từ Đại Tướng Cao Văn Viên – vị Tổng Tham Mưu Trưởng
quân đội miền Nam Việt Nam, đến các tiểu đoàn trưởng. Nhiều người rất cởi mở, họ
không chỉ ngạc nhiên khi thấy một người Mỹ quan tâm đến câu chuyện của họ mà
còn vui mừng khi tôi muốn tìm hiểu về kinh nghiệm chiến tranh của họ. Tuy nhiên
cũng có một số người rất đắn đo trong lời nói. Một số khác thì không thể thuật
lại một cách chi tiết vì bị bệnh tật hoặc tinh thần chưa ổn định, hậu quả của
nhiều năm tù đày. Còn một số ít, phần nhiều là các sĩ quan cao cấp, đã từ chối
nói chuyện.
Đối với tất cả những sĩ quan tôi có dịp tiếp xúc, cuộc
phỏng vấn bắt họ phải trải qua những thời khắc vô cùng đau đớn. Tôi không thể
nào thể hiện đầy đủ lòng biết ơn với những người ấy. Thật không dễ dàng [khi phải]
chứng kiến những người đàn ông luống tuổi — những người từng dạn dày trong chiến
đấu, từng khổ nhọc trong tù đày — đã bật khóc khi nói đến sự mất mát đồng đội
hoặc sự kết thúc chiến tranh.
Tom
Glenn: Tôi được biết có hai sĩ quan QLVNCH đã tự
sát khi Miền Nam thất thủ. Trường hợp tuẫn tiết như thế có nhiều không?
Jay
Veith: Tôi lại biết có tới năm vị tướng đã tự sát. Rất
nhiều sĩ quan cấp thấp hơn cũng đã tuẫn tiết.
Một câu chuyện không được ghi lại trong sách (Black
April) nhưng luôn ám ảnh tôi. Tôi đang phỏng vấn một tiểu đoàn trưởng một tiểu
đoàn Nhảy Dù, lúc ấy là khoảng 1 giờ sáng, và chúng tôi đang ngồi trên bậc thềm
trước nhà ông ấy. Chúng tôi gần xong câu chuyện thì anh chợt bắt đầu kể về ngày
cuối cùng [của cuộc chiến]. Ông ấy cho biết vào đêm 29 tháng Tư, vị lữ đoàn trưởng
của ông đã ra lệnh cho đơn vị của ông phải yểm trợ để bảo vệ căn cứ không quân
Tân Sơn Nhứt. Vị lữ đoàn trưởng đã năn nỉ đừng bỏ rơi ông ấy. Vì vậy, khi ông
tiểu đoàn trưởng này bắt đầu rời khỏi căn cứ để phòng thủ bên ngoài vành đai, ông
ấy đã hết sức phân vân giữa hai lựa chọn: Hoặc khi ra khỏi cổng căn cứ thì rẽ
phải để đi đến các vị trí được chỉ định. Hoặc rẽ trái và đi về phía bến tầu, tại
đó anh hy vọng gặp được một tàu Hải Quân đang thoát chạy ra khơi. Và người sĩ
quan ấy đã chọn… rẽ phải, chọn ở lại với nhiệm vụ được giao phó.
Cuối ngày hôm sau, sau khi nghe lệnh đầu hàng, ông
nhận được tin qua máy truyền tin từ một đồng đội cho biết họ đang rút lui đến một
tòa nhà trong căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt. Do dự vài phút, nhưng rồi ông
cũng lái xe jeep đến nơi tập họp. Nhưng đúng lúc anh vừa tới nơi thì nghe thấy
một tiếng nổ khủng khiếp làm rung chuyển cả tòa nhà. Rất nhiều đồng đội của ông
đã tự sát trong đó. Ông chấm dứt câu chuyện, mắt ông đẫm lệ. Còn tôi, lặng im
mà xúc động đến run cả người.
Nghe xong câu chuyện ấy chúng ta còn điều gì để nói
nữa? Và điều tệ nhất ở đây là, do hậu quả của việc rẽ phải thay vì rẽ trái — để
làm tròn nhiệm vụ và không bỏ rơi những người lính cũng như người chỉ huy – vị
sĩ quan ấy đã phải ngồi tù 10 năm!
Tom
Glenn: “Tháng Tư Đen” đưa ra những câu trả lời thỏa
đáng cho rất nhiều câu hỏi của tôi về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam. Vậy, còn
có những câu hỏi nào anh cảm thấy vẫn cần có câu trả lời?
Jay
Veith: Câu hỏi chính sẽ xoay quanh những gì Bộ Chính
Trị [Bắc Việt] đã thực sự toan tính ngay trước và ngay sau khi ký kết Hiệp Định
Hòa Bình Paris(1). Vẫn còn một lỗ hổng khá lớn trong sách vở Việt Nam về
khoảng thời gian này. Đối với số câu hỏi khác, ông sẽ phải đợi cho đến
khi tập thứ hai của tôi ra đời! Cuốn sách này sẽ đề cập đến
các mưu đồ chính trị và ngoại giao.
Tom
Glenn: Vì lý do nghề nghiệp, tôi chú ý tới vai trò
của sự lừa bịp về mặt tình báo truyền tin và truyền thông trong trận chiến cuối
cùng. Theo anh, tầm quan trọng của mỗi yếu tố như thế nào?
Jay
Veith: Chiến lược của Cộng Sản cho mỗi chiến dịch gồm
các kế hoạch lừa dối công phu. Hầu hết các kế hoạch này là nhằm đánh lừa tình
báo truyền tin của Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) mà trong chiến
tranh có lẽ là nguồn tin tình báo tốt nhất của chúng ta. Tuy nhiên, có những ý
kiến khác nhau về việc Cộng Sản có thành công hay không. Tại Ban Mê Thuột, chắc
hẳn nó đã đóng một vai trò quan trọng, ít ra trong việc khiến cho Thiếu Tướng
Phạm Văn Phú tin rằng quân đội Bắc Việt sẽ tấn công vào Pleiku chứ không phải
vào Ban Mê Thuột. Với Quân Đoàn I, tôi nghĩ đó là một thất bại hoàn toàn. Câu hỏi
lớn hơn, hy vọng một ngày nào đó Cơ Quan An Ninh Quốc Gia (National Security
Agency — NSA) sẽ trả lời, là họ và tình báo tuyền tin của miền Nam thực sự đã
biết tới mức nào. Tôi cho rằng điều đó phù hợp với câu hỏi của ông về những gì
vẫn còn cần câu trả lời.
Tom
Glenn: Trong số rất nhiều câu chuyện buồn về những
người phải cam chịu thất bại, câu chuyện nào khiến anh xúc động nhất?
Jay
Veith: Những chuyện xúc động thì quá nhiều. Câu chuyện
người sĩ quan mà tôi vừa kể là buồn nhất. Sau đó, anh ấy nói với tôi là khi còn
ở trong trại tù Cộng sản, anh đã phải ăn gián để sống. Một nguồn protein tốt,
anh còn nói thế. Tôi hỏi anh đã ăn bao nhiêu con gián? Chắc cỡ 10 ngàn con, anh
trả lời. Hãy thử tưởng tượng mình phải bỏ con gián vào miệng! Tôi còn nhớ tới một
vị chỉ huy tiểu đoàn khác, lần này là một sĩ quan Biệt Động Quân, anh nói với
tôi rằng cha mẹ anh đã phải trông chừng anh liên tục từ ngày có lệnh đầu hàng
cho đến khi anh phải trình diện đi tù. Họ sợ anh sẽ tự tử vì quá tuyệt vọng.
Tom
Glenn: Tôi thấy nhiều điểm tương đồng giữa Việt
Nam và Iraq và đặc biệt là Afghanistan. Có đúng thế không?
Jay
Veith: Không hẳn vậy. Kẻ thù hoàn toàn khác, trật tự
chính trị thế giới đã được định hình lại hoàn toàn, và người ta không thấy thái
độ chống chiến tranh gay gắt xảy ra trong chiến tranh [Iraq]. Nếu nhìn rộng hơn
ra, tôi cho rằng người ta có thể rút ra sự tương đồng về một cuộc chiến bất khả
chiến thắng, v.v., nhưng tôi không cho rằng các cách nhìn lịch sử là tương tự
nhau.
Tom
Glenn: Tháng Tư Đen là cuốn sách đầu tiên của một
bộ hai tập. Vậy, chủ đề của cuốn sách thứ hai là gì? Bao giờ thì sách được xuất
bản?
Jay
Veith: Cuốn thứ hai sẽ đề cập tới các vấn đề chính trị,
ngoại giao và kinh tế làm Nam Việt Nam sụp đổ. Cụ thể, sách sẽ thảo luận về các
mưu mô ngoại giao trong những ngày cuối khi các quốc gia cố gắng dàn xếp một lệnh
ngừng bắn. Ngoài ra, sách sẽ nói tới một câu chuyện có lẽ là bí mật lớn cuối
cùng của Chiến Tranh Việt Nam. Còn khi nào nó sẽ được xuất bản thì xin để cho
tôi thêm vài năm. Việc nghiên cứu coi như đã xong, tôi chỉ cần tìm thời gian để
viết. (Ghi chú: Jay Veith quyết định nghỉ việc vào tháng Năm 2018 để dành
toàn thời gian cho sách – TBA)(2)
Tom
Glenn: Trong tất cả các yếu tố dẫn đến sự sụp đổ của
Nam Việt Nam, điều gì nghiêm trọng nhất? Chúng ta có thể tránh được điều ấy
không?
Jay
Veith: Đúng, chúng ta có thể tránh đươc. Nhưng nó đòi
hỏi một nỗ lực bền bỉ về ý chí và sự tham gia của người Mỹ, đó là những yếu tố
mà chúng ta đã không thể để giữ được.
Tom
Glenn: Nếu tất cả hỏa lực, nhân lực và tài nguyên
mà Hoa Kỳ mang đến không thể chiến thắng cuộc chiến chống lại Bắc Việt, tại sao
chúng ta nghĩ rằng chỉ riêng Nam Việt Nam có thể làm nổi điều đó? Kế hoạch Việt
Nam Hóa (đào tạo và trang bị cho Nam Việt Nam tiếp tục chiến đấu mà không có sự
hiện diện của quân đội Hoa Kỳ trên chiến trường) có tác dụng gì không?
Jay
Veith: “Việt Nam Hóa” đã có tác dụng. Tuy nhiên,
không có tướng lãnh Hoa Kỳ hay Nam Việt Nam nào tin rằng đất nước này có thể đứng
vững nếu không có đầy đủ sự yểm trợ của Không Quân Mỹ. Lý do đơn giản là vì địa
hình Việt Nam, chứ không phải vì sự thiếu ý chí của Nam Việt Nam. Tôi sẽ trình
bày chính xác hơn trong cuốn sách tiếp theo của tôi. Nhìn bên ngoài, tình hình
tiếp tế của Bắc Quân có vẻ rất tốt. Nhưng có điều ít ai biết hay hiểu ra, đó
không phải là do Trung Cộng và Nga Xô chi viện ào ạt mà là do Bắc Việt đã dốc tất
cả kho vũ khí của họ ra. Nói một cách khác, họ đánh xả láng cú chót để giành
chiến thắng. Thật không may, lần này họ đã đoán đúng. Tôi chỉ mới phát giác ra
điều này trong khi xem xét một số ấn phẩm mới của Cộng Sản. Cho ông biết trước
một chút xíu thôi đấy nhé.
Tom
Glenn: Một số người tin rằng nỗ lực chống cộng ở
Việt Nam đã bất khả thi ngay từ đầu. Chiến thắng của Bắc Việt [có phải] là
đương nhiên không?
Jay
Veith: Không đúng. Nếu chúng ta quyết định cắt đường
mòn Hồ Chí Minh bằng quân đội Hoa Kỳ, tôi tin rằng chúng ra đã có thể thắng cuộc
chiến. Sau khi Hải Quân cắt đứt nguồn tiếp tế trên biển, và nếu chúng ta phong
tỏa hải cảng Sihanoukville (Cambodia), thì “cách mạng” tại Nam Việt Nam không
còn nguồn cung cấp nữa, do đó, về căn bản, chiến tranh quy ước sẽ thoái hóa
thành một cuộc chiến tranh du kích lẻ tẻ, một cuộc chiến mà người miền Nam có
thể cáng đáng được.
Tom
Glenn: Vậy thì với những điều bây giờ chúng ta đã
biết, liệu Hoa Kỳ khi đó có nên nhúng tay vào Việt Nam không? Một câu hỏi cực kỳ
tế nhị cho anh trả lời đấy.
Jay
Veith: Tôi sẽ phải tránh né câu hỏi nầy bằng cách yêu
cầu ông suy nghĩ như sau. Một trăm năm nữa, khi các học giả viết lịch sử của nước
Mỹ và thế giới trong thế kỷ 20, chẳng biết họ sẽ định nghĩa cuộc sống Mỹ vào thời
đại đó như thế nào? Họ sẽ nhập chung thời kỳ hậu Đệ Nhị Thế Chiến với một khoảng
thời gian dài hơn sau đó, và mô tả thời kỳ đó là một cuộc chiến dài chống lại
chủ nghĩa Cộng Sản chăng? Nếu vậy, ai đã thắng cuộc chiến đó? Nếu nhìn từ góc độ
lịch sử lâu dài hơn, tôi nghĩ mọi người cuối cùng sẽ đánh giá Việt Nam một cách
vô tư hơn.
Về
tác giả Tom
Glenn:
Một trong những tác phẩm về Việt Nam của ông là “Last of the Annamese“, kể câu chuyện của một sĩ quan Quân Lực VNCH và người vợ tận tụy. Cả hai đã cùng tuẫn tiết tháng Tư 1975. Xoay quanh họ là hình ảnh đau thương của một Nam Việt Nam bị bức tử.
Một trong những tác phẩm về Việt Nam của ông là “Last of the Annamese“, kể câu chuyện của một sĩ quan Quân Lực VNCH và người vợ tận tụy. Cả hai đã cùng tuẫn tiết tháng Tư 1975. Xoay quanh họ là hình ảnh đau thương của một Nam Việt Nam bị bức tử.
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
*
Nguồn: Bài do người dịch gởi. DCVOnline biên tập, minh họa và phụ chú.
(1) Đọc thêm “Extended
Interview- Scholar Lien-Hang T. Nguyen: Hanoi’s Secrets” và Hanoi’s War (The
University of North Carolina Press) của Lien-Hang T. Nguyen,
(2) Theo, trang Law and Liberty thì
George J. Veith hiện đang làm luận án Tiến sĩ và nghiên cứu về sự nghiệp của Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông sống ở Delaware.
No comments:
Post a Comment