03/04/2019
Thứ Năm ngày 4 tháng Tư này đánh dấu 70 năm thành lập
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), nền tảng an ninh và ngoại giao từ
sau Thế Chiến II.
70 năm là thời gian dài với bao biến đổi về tình
hình an ninh khu vực Âu châu và toàn cầu, cũng như sự thay đổi sâu rộng về tình
hình chính trị quốc tế. Sau khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ đầu thập niên 1990,
người ta tưởng chừng vai trò của NATO không còn cần thiết nữa và do đó có thể bị
giải tán. Nhưng gần ba thập niên qua, mặc dầu có những lúc khủng hoảng về chức
năng và lãnh đạo, NATO không những tiếp tục tồn tại mà còn phát triển. Từ 12 quốc
gia thành viên lúc thành lập, NATO trở thành tổ chức với 29 thành viên, nước
thành viên mới nhất là Montenegro tham gia vào ngày 5 tháng Sáu năm 2017. Lý do
cho sự tồn tại và phát triển của NATO là vì các nước thành viên đều cảm thấy rằng
mối đe doạ, tuy giảm hẳn so với thời Chiến tranh Lạnh, nhưng vẫn hiện hữu. Liên
Xô trước đây, và Nga bây giờ, vẫn luôn là một cảm giác bất an đối với họ.
70 năm của NATO có thể chia thành ba giai đoạn khác
nhau: tiền Chiến tranh Lạnh (hay hậu Thế Chiến II); Chiến tranh Lạnh (năm
1947/1948 đến 1990/1991); và hậu Chiến tranh Lạnh cho đến nay. Các diễn giải về
lý do hình thành NATO nói riêng và nguyên do đưa đến Chiến tranh Lạnh nói chung
là vô cùng đa dạng, tùy theo cách nhìn nhận, phân tích và xu hướng chính trị của
mỗi người. Theo chuyên gia Strobe Talbott thuộc viện Brooklings thì giai
đoạn mộtlà lúc mà Joseph Stalin là người chính thức bắt đầu Chiến tranh Lạnh
trước khi tiếng súng của Thế Chiến II im lặng [1]. Nói cách khác, nếu Liên Xô
không có những chính sách thù nghịch và hung hãn đối với Hoa Kỳ và Âu châu thì
sẽ không có nhu cầu hình thành NATO.
Có thể nói một cách tóm tắc rằng sự hiện hữu của
NATO có tỷ lệ thuận với sự hung hãn của Liên Xô trước đây, và Nga ngày nay. Nga
càng độc tài, hung hãn thì vai trò và trách nhiệm của NATO càng chính đáng, cần
thiết. Nếu Nga, một ngày nào đó và một cách kỳ diệu nào đó, trở thành một quốc
gia có thể chế chính trị dân chủ thật sự, thì nhiệm vụ của NATO sẽ phải chuyển
đổi, trừ phi có mối đe dọa khác trổi lên.
Cách đây đúng 20 năm, ba quốc gia hậu cộng sản thuộc
khối Liên Bang Xô Viết cũ là Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi và Ba Lan đã chính thức trở
thành thành viên của NATO. Nhưng họ phải đến mất gần một thập niên để vận động
chứ nó không hề là một tiến trình vô chướng ngại. Bài viết mới đây trên tạp chí
Foreign Affairs của giáo sư sử học Mary
Elise Sarotte thuộc trường đại học John Hopkins SAIS GS đã soi sáng điều
này [2]. Gs Sarotte đã nghiên cứu các tài liệu được giải mật từ Thư viện Tổng
thống George H W Bush và gần nhất là từ Thư viện Tổng thống Bill Clinton. Bà
cho biết các bằng chứng tìm thấy khẳng định rằng từ đầu cho đến giữa thập niên
1990, người Tiệp, người Hung và nhất là người Ba Lan đã vận động để được vào
làm thành viên, đặc biệt từ khi Bill Clinton lên làm tổng thống.
Theo Gs Sarotte thì thật ra các nước trung và đông
Âu đều muốn trở thành thành viên của cộng đồng tây Âu và các định chế của nó,
thay vì cứ tiếp tục hiện hữu trong vùng xám giữa tây Âu và Nga. Họ vẫn lo ngại
sự trổi dậy trở lại của Nga ngay cả khi Liên Xô đang sụp đổ. Mà cái họ lo ngại
là đúng, như đã thấy qua các hành động của Nga dưới thời Vladimir Putin, đặc biệt
năm năm qua. Sống gần Nga, cũng như Việt Nam sống gần Trung Quốc, người dân tại
các quốc gia này hiểu Nga hơn ai hết.
Tài liệu mà giáo sư Sarotte điều nghiên cho biết vào
tháng Hai năm 1990, Ngoại trưởng Tây Đức Hans-Dietrich Géncher cho Ngoại trưởng
Anh biết rằng để Moscow chấp nhận cho nước Đức thống nhất, Liên Xô cần sự bảo đảm
rằng Hung Gia Lợi sẽ không trở thành thành viên của NATO. Tóm gọn, chủ trương của
Liên Xô là không muốn NATO phát triển về hướng đông. Mặc dầu Ngoại trưởng Hoa Kỳ
James Baker lúc đó biết rõ nhiều quốc gia muốn gia nhập NATO nhưng, một lần nữa,
Hoa Kỳ vẫn có thái độ thận trọng trong việc quá can thiệp vào chuyện nội bộ Âu
châu. Nên nhớ, đối với Thế Chiến I, Thế Chiến II, và ngay cả việc hình thành
NATO, thái độ của Hoa Kỳ ban đầu là vẫn do dự, bởi phần lớn người dân Hoa Kỳ và
ngay cả giới lãnh đạo quốc gia vẫn chủ hòa chứ không chủ chiến. Ưu tiên của Hoa
Kỳ vào lúc đó là thống nhất đông và tây Đức càng nhanh càng tốt. Thế nhưng lãnh
đạo các quốc gia trung và đông Âu vẫn tìm mọi cách để vận động vào NATO. Nhưng
rồi cuộc chiến vùng vịnh với Iraq tại Kuwait đã đình trệ các nỗ lực này. Sau
khi Clinton lên cầm quyền, các lãnh đạo này tiếp tục tìm mọi cách mang lại sự
chú ý đối với chính quyền Hoa Kỳ mới. Tổng thống Tiệp Khắc Vaclav Havel and Ba
Lan Lech Walesa đã gặp riêng Clinton và thuyết phục Clinton cứu họ từ sự sống
trong khoảng trống rổng (living in a vacuum) trong khi họ đều thấy họ là người
Âu châu thể hiện giá trị và tinh thần Âu châu. Tiến trình mất nhiều năm này đã
cuối cùng kết thúc, và ba nước Tiệp, Hung và Ba Lan đã chính thức gia nhập năm
1999.
Với bao thăng trầm và bao giai đoạn thách thức mục
đích tồn tại của NATO trong gần 7 thập niên qua, có lẽ không có thử thách nào
làm lung lây liên minh này như Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã làm từ khi nhậm
chức cho đến nay. Đầu năm nay, một tường trình từ báo New York Times cho hay
ông Trump đã thảo
luận riêng về việc rút khỏi NATO bởi ông không thấy nhu cầu cho một
liên minh quân sự [3]. Theo các nhà làm luật và các chuyên gia pháp lý hàng đầu
tại Hoa Kỳ thì nếu ông Trump cuối cùng quyết định rút khỏi NATO thì phía lập
pháp cũng không
thể ngăn cản ông làm chuyện này [4]. Quyền hành của một tổng thống về
mặt chính sách ngoại giao là rất lớn trong khi lập pháp thường im lặng, và các
rào cản ngăn chặn quyền lực của tổng thống thường là truyền thống và chuẩn mực
chứ không phải là luật thực tế.
Tin đồn về ý định rút khỏi NATO của Trump đã làm cho
các nhà lập pháp, giới chuyên gia về ngoại giao cũng như quốc phòng tại Hoa Kỳ,
Canada và liên hiệp Âu Châu lo lắng.
Theo một số chuyên gia thì việc rút ra khỏi NATO là
một trong những điều tai hại nhất mà một tổng thống có thể làm đối với quyền lợi
của Hoa Kỳ. Có người cho rằng đây là một liên minh có lợi nhất và quyền lực nhất
được tạo ra trong một lịch sử kiên trì và đau thương kéo dài 70 năm, do đó quyết
định rút khỏi NATO là một thành công ngoạn mục nhất mà Vladimir Putin có thể mơ
tưởng tới. Còn cựu Đề Đốc James G. Stavridis, từng nắm vai tư lệnh đồng minh tối
cao của NATO, cho rằng ý tưởng rút khỏi NATO, khoan nói đến hành động, đã là
món quà thế kỷ cho Putin; còn nếu thật sự rút khỏi thì đó là “sai lầm địa chính
trị có tỷ lệ khủng khiếp”.
Tuy nhiên chỉ vài ngày sau bài tường trình trên, ông
Trump tuyên bố tại Lầu Năm Góc vào ngày 17 tháng Giêng năm nay rằng Hoa Kỳ sẽ ủng
hộ NATO một
trăm phần trăm, nhưng ông nói với các nước thành viên (Âu châu) rằng họ cần
tiến lên và cần phải trả tiền [5].
Việc yêu cầu các quốc gia thành viên đóng phần của
mình là đúng đắn và cần thiết. Trong thời gian qua, trong khi trung bình đa số
các thành viên Âu châu chỉ đóng góp tài chánh dưới hai phần trăm tổng sản lượng
quốc gia (GDP) thì Hoa Kỳ trung bình đóng trên
ba phần trăm GDP, và cao nhất là dưới thời của Tổng thống Barack Obama, trên bốn
phần trăm [6]. Nhưng hai hoặc bốn phần trăm GDP của Hoa Kỳ mang lại sự khác biệt
chênh lệch so với sự đóng góp của tất cả các quốc gia thành viên còn lại. Theo
bài báo trên Washington
Post năm 2012 thì Hoa Kỳ đã tài khoản cho 75 phần trăm tổng chi của NATO,
tăng từ 50 phần trăm trong thời Chiến tranh Lạnh [7].
Cũng cần nên biết rằng không chỉ chính quyền Trump mới
nhắc nhở và tạo áp lực lên các thành viên Âu châu phải đóng góp vào việc duy
trì thế liên minh với Bắc Mỹ qua tổ chức NATO. Chính quyền Obama đã nhiều lần cảnh
báo các thành viên Âu châu của NATO là không thể tiếp tục mong đợi Hoa Kỳ hứng
chịu khoản chi lớn lao này mà không góp phần tương xứng của mình. Bộ trưởng Quốc
phòng Donald Rumsfeld vào năm 2004 cũng dự tính cắt từ bốn xuống còn hai lữ
đoàn quân đội Hoa Kỳ đang đóng quân tại các mặt trận Âu châu để giảm phí tổn
nhưng vì sự phản đối của các tướng lãnh nên ý định này không thành công.
Sự cắt giảm ngân sách của nhiều quốc gia thành viên
tại Âu châu là một phần do sự trì trệ kinh tế do ảnh hưởng của vụ khủng hoảng
tài chánh toàn cầu vào năm 2008. Tuy nhiên một phần lý do khác là vì một số quốc
gia thành viên cũng không tán thành các nhiệm vụ và mục tiêu của NATO mà họ xem
là đã bị Hoa Kỳ áp đảo chủ trương và hành động trong khi họ không có tiếng nói
đáng kể nào. Chẳng hạn, phần lớn các hoạt động của NATO kể từ biến cố 11 tháng
9 là chống khủng bố tại Afghanistan và Iraq, mà họ không thấy sự liên hệ trực
tiếp đến an ninh và ngoại giao tại Âu châu. Tuy nhiên sau một số vụ khủng bố tại
Âu châu, và sự kiện Nga thôn tính vịnh Crimea từ nước Ukraine vào tháng Hai/Ba
năm 2014, các quốc gia thành viên lại cảm thấy lo ngại về một nước Nga của
Putin. Họ lo ngại là vì từ đó trở đi Nga tiếp tục xâm chiếm phía đông của
Ukraine, ủng hộ chế độ độc tài hà khắc Assad tại Syria, bắn rớt máy bay của
hãng hàng không Malaysia, can thiệp vào bầu cử tại Hoa Kỳ, và gần đây nhất là
dùng chất độc Novichok tấn công thần kinh để ám sát cựu tình báo Nga là Sergei
Skripal và người con gái là Yulia ngay trên lãnh thổ Anh quốc.
Ngay sau sự kiện Nga thôn tính Crimea, Tổng Thư ký của
NATO là Anders
Fogh Rasmussen cảnh báo là Âu châu bây giờ khác so với Âu châu của
tháng trước, và do đó cần phải đóng góp nhiều hơn nữa [8]. Các thành viên NATO
sau đó đồng ý là sẽ gia tăng ngân sách quốc phòng lên 2 phần trăm. Nhưng từ khi
lên cầm quyền vào đầu năm 2017, Trump dùng mọi cơ hội để áp lực lên các nước
thành viên, tuyên bố rằng Hoa Kỳ có thể sẽ không bảo vệ đồng minh Âu châu nếu họ
không chịu thanh toán hóa đơn [9].
Với áp lực này, NATO sẽ phải cải tổ hoặc chuyển hóa
để tồn tại. Cung cách hành xử của Nga làm cho vai trò của NATO càng cần thiết
và ý nghĩa hơn. Nhưng bị đe dọa bên hướng đông, và bị áp lực bên hướng Tây, các
quốc gia thành viên NATO tại Âu châu cần nỗ lực hơn nữa trong việc tìm đồng thuận
để nhận lãnh trách nhiệm của mình, chủ động vai trò lãnh đạo như một cộng sự
viên (partner) thay vì phụ thuộc quá nhiều vào Hoa Kỳ như đã và đang hiện nay.
Mặc dầu quốc hội Hoa Kỳ đứng về phía Âu châu coi trọng thế liên minh này, và mời
Tổng Thư ký NATO Jens Stoltenberg phát biểu tại quốc hội vào ngày 3 tháng Tư
này đánh dấu kỷ niệm 70 năm, đây là lúc cần phải suy xét lại mối quan hệ một
cách thấu đáo. Cách cư xử của Trump đối với NATO trong thời gian qua, và việc
khen ngợi tài lãnh đạo của Vladamir Putin nhưng coi thường các thành viên Âu
châu, là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với bất cứ một quốc gia nào mong đợi rằng
quốc gia khác sẽ chiến đấu hay bảo vệ mình miễn phí. Nó cũng nhắc nhở chúng ta
rằng một quan hệ bất cân xứng, trong đó quyền lực nghiêng hẳn về một phía, là một
quan hệ không bền vững bởi vì trước sau gì phe mạnh cũng có thể, và có những kẻ,
lạm dụng và ngược đãi phe yếu.
(Úc Châu, 02/04/2019)
---------------
Tài liệu tham khảo:
1. Strobe Talbott, “A
brief history of NATO, from Truman to Trump”, Brookings, 27 March 2019.
2. M. E. Sarotte, “The
Convincing Call From Central Europe: Let Us Into NATO”, Foreign Affairs, 12
March 2019.
3. Julian E. Barnes and Helene Cooper, “Trump
Discussed Pulling U.S. From NATO, Aides Say Amid New Concerns Over Russia”,
The New York Times, 14 January 2019.
4. Robbie Gramer, “Trump
Can’t Do That. Can He?”, Foreign Policy, 16 January 2019.
5. Rebecca Morin, “Trump:
We will be with NATO ‘100 percent’”, Politico, 17 January 2019.
6. Mohib Iqbal, “Burdens
and threats at NATO summit”, Lowy Institute,
7. Craig Whitlock, “NATO
allies grapple with shrinking defense budgets”, The Washington Post, 29
January 2012.
8. Steven Erlanger, “Europe
Begins to Rethink Cuts to Military Spending”, The New York Times, 26 March
2014.
9. Philip H. Gordon and Jeremy Shapiro, “How
Trump Killed the Atlantic Alliance”, Foreign Affairs, 26 February 2019.
No comments:
Post a Comment