15/04/2019
Có
54 sắc tộc (bao gồm cả người Kinh) cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng
ngày giỗ tổ của người Kinh lại biến thành ngày lễ quốc gia và tạo ra ấn tượng rằng
Hùng Vương là thuỷ tổ của tất cả các tộc người.
Hùng Vương là tổ người Kinh hay tổ của tất cả các sắc
tộc? Ảnh gốc: CafeBiz.
Người Kinh, hay còn gọi là người Việt, sắc tộc chiếm
đến gần 90% dân số Việt Nam, với ngôn ngữ là tiếng Việt, đã quá quen với việc
được xem là “cái rốn” của Việt Nam, là những “kẻ thừa kế” hợp pháp, chính thống
và toàn diện đối với mảnh đất hình chữ S này.
Có thể bạn đọc sẽ gọi tôi là kẻ xét nét, so đo chuyện
không đâu. Nhưng khi người Kinh vẫn đang lên án cách mà người Mỹ phân biệt chủng
tộc, chiếm đất và quên lãng các thổ dân da đỏ; khi mà người Kinh vẫn căm thù
người Hoa vì lịch sử và các nỗ lực đồng hóa trong giai đoạn ngàn năm Bắc thuộc,
nhân dịp giỗ “tổ” Hùng Vương, có lẽ cũng phải tìm hiểu về cách mà người Kinh đã
và đang biến lịch sử và nhà nước Việt Nam trở thành một sản phẩm độc quyền của
sắc tộc mình.
Cần lưu ý rằng, từ “dân tộc” (nation) ngày nay hay
được dùng lẫn với từ “sắc tộc” (ethnicity). Trong bài viết này, tác giả chọn từ
“sắc tộc” để chỉ người Kinh, người Chăm, người Mường và các sắc tộc khác, thay
vì dùng từ “dân tộc”.
Không chỉ có Hùng Vương hay Lạc Long Quân –
Âu Cơ
Trước tiên, cần khẳng định rằng, sắc tộc nào ở Việt
Nam cũng có huyền thoại về nguồn gốc của tộc người mình. Song do không được xem
là chính sử, chúng chỉ được phép xuất hiện trong sách văn học thay vì sách lịch
sử; chỉ có thể được chào mừng trong các “lễ hội văn hóa dân gian” chứ không được
trở thành quốc lễ.
Như với người Mường, sử thi Đẻ
đất – Đẻ nước có kể chuyện đôi chim Tùng – Tót đẻ ra quả trứng thần kỳ, từ
đó nở ra tộc người Mường.
Hay với sắc tộc Chăm, Nữ
thần xứ sở Po Inur Nugar, mới là vị tổ thiêng liêng nhất. Bà
được tôn thờ dưới nhiều tên gọi khác nhau như Po yang Inư Nưgar Taha (thần Mẹ lớn
xứ sở), Muk Juk (Bà Đen), Pataw Kamei (Vua của đàn bà), Bahagavati vari (Nữ thần
Mẹ lớn Linga – Shiva). Bà là vị thần tối cao sinh ra mọi thứ từ vũ trụ đến đất
đai, cây cối, lúa gạo và cả người Chăm, trao cho người Chăm những sản vật quý
và chỉ dạy họ cách trồng trọt, các nghề thủ công.
Hay trong truyền
thuyết các tộc người tại Việt Nam của sắc tộc Khơ – Mú qua câu chuyện Quả Bầu
Mẹ: người Kinh chỉ là em út trong các tộc người. Người Khơ – Mú, người Thái,
người Tày nhanh nhảu bước ra trước khỏi Bầu Mẹ nên bị dính lọ, đen nhẻm. Em út
là người Kinh, người Hoa ra sau nên trắng trẻo hơn các anh của mình.
Lễ hội Mbang Kate của người Chăm ở Bình Thuận để tưởng
nhớ tổ tiên và các anh hùng dân tộc của họ. Ảnh: pandanusresort.com.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể kể đến hàng loạt các
câu chuyện về nguồn gốc của nhiều sắc tộc khác như truyện kể về Ông Đùng – Bà
Đà, truyện về Ông Thu Tha – Bà Thu Thiên của người Mường; truyện về Tráng Lô Cô
của người Dao; truyện về Ải Lậc Cậc của người Thái; truyện về Pụt Luông của
người Tày, .v.v. Những câu chuyện này, dù mang bản chất huyền thoại tương tự
như truyền thuyết về Hùng Vương và “trăm trứng nở trăm con”, lại ít được phổ biến
và quảng bá như câu chuyện của người Kinh, và đại chúng thì gần như chưa bao giờ
nghe nói tới chúng.
Lạc Long Quân – Âu Cơ và sự hình thành nên kỷ Hồng
Bàng của các Vua Hùng, do đó, chắc chắn không phải câu chuyện duy nhất, và lại
càng không phải là câu chuyện đầu tiên về lịch sử – nguồn gốc của các sắc tộc
đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Cũng cần phải nhắc lại lịch sử rằng, trên dải đất
hình chữ S của Việt Nam ngày nay, xưa kia có nhiều vương quốc khác nhau do các
tộc người khác nhau cai trị. Theo sử gia Philippe Papin trong cuốn “Việt Nam,
hành trình một dân tộc”, người Chăm của vương quốc Chămpa từng thống trị trên
1/3 lãnh thổ Việt Nam ngày nay, kéo từ đèo Ngang (giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình)
cho tới tận Bình Định vào khoảng thế kỷ 11-13. Các cuộc di dân và xâm lược của
người Kinh ở phía Bắc, qua nhiều thế kỷ, cuối cùng cũng xoá sổ được cường quốc
trù phú một thời này vào thế kỷ 17.
Sâu hơn nữa vào phía Nam và về phía Tây (bao gồm cả
Tây Nguyên, thành phố Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ ngày nay) là nơi cư
ngụ của người Khmer của Đế quốc
Khmer lừng lẫy một thời (802-1431).
Họ đều có cách lý giải riêng về nguồn gốc sắc tộc của
mình. Quá trình sáp nhập lãnh thổ đồng nghĩa với sáp nhập các tộc người khác
nhau vào cùng một nước, nhưng không có nghĩa là các tộc người này chia sẻ truyền
thuyết về nguồn gốc Lạc Hồng hay ông tổ Hùng Vương của người Kinh.
Lễ giỗ tổ Hùng Vương tại Đền Hùng luôn có mặt lãnh đạo
cấp cao nhất của nhà nước. Ảnh: Báo Phú Thọ.
Cố ý áp đặt nguồn gốc?
Tư tưởng về nguồn gốc Hùng Vương và con cháu Lạc
Long Quân – Âu Cơ dần được cấy ghép và thể hiện trong các văn bản nhà nước
chính thức và ngôn ngữ báo chí đại chúng.
Ví dụ, dù theo truyền thuyết của người Chăm, họ được
Nữ thần xứ sở sinh ra, nhưng hầu hết các văn bản và báo chí chính thống lại gán
ghép nguồn gốc của họ với người Kinh, với tên gọi “đồng bào Chăm”.
Chị
thị 121 của Hội đồng Bộ trưởng từ những năm 1981 đã đặt sừng sững một tiêu
đề “Về Công tác đối với Đồng bào Chăm”. Ban Tôn giáo Chính phủ thì liên tục chỉ
đạo công tác tôn giáo đối “đồng
bào dân tộc Chăm” ở nhiều tỉnh thành.
“Đồng bào”, theo nghĩa đen là “cùng bào thai”, nghĩa
là cùng một tổ tiên, cùng một cha mẹ. Việc gọi người Chăm là “đồng bào Chăm” ám
chỉ người Chăm có cùng cha mẹ Lạc Long Quân – Âu Cơ và đều là con cháu Vua
Hùng? Đó có lẽ là cách lý giải tốt nhất cho hiện tượng này.
Điều tương tự cũng xảy ra đối với các sắc tộc thiểu
số khác. Chẳng hạn như Vĩnh Long chăm lo đời sống cho “đồng
bào dân tộc Khmer”, còn Việt Nam nói chung thì luôn chăm lo đời sống cho “đồng
bào dân tộc thiểu số”.
Một số nhà quan sát khác có thể còn cho rằng nhà nước
Việt Nam cố tình sử dụng thuật ngữ này để xây dựng và thể hiện sự gắn kết giữa
người Việt và các sắc tộc thiểu số. Song chúng rõ ràng tạo ra ấn tượng rằng người
sắc tộc thiểu số thì phải chấp thuận làm con cháu của ông tổ của… người Kinh,
tiếng Kinh là tiếng của mọi sắc tộc và lịch sử người Kinh là thứ lịch sử trọng
đại nhất của quốc gia.
Cũng cần khẳng định rằng, đây không phải là hiện tượng
chỉ xảy ra trong giai đoạn nắm quyền của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Dù hòa bình hay dù đánh nhau đến thừa sống thiếu chết trong lịch sử thăng
trầm mấy trăm năm qua, người Kinh vẫn chung một lòng xem mình là anh cả của các
sắc tộc và tự xét Hùng Vương là tổ phụ của cả nước Việt Nam.
No comments:
Post a Comment