Thursday, October 11, 2018

TỔNG THỐNG TRUMP ĐANG GIÚP BẮC KINH THẮNG Ở BIỂN ĐÔNG NHƯ THẾ NÀO? (Robert Kaplan - Washington Post)




Robert Kaplan  -  Washington Post
Dịch giả: Song Phan
11/10/2018

Trong nhiều năm qua, Trung Quốc (Trung Quốc) đã chống phá Hoa Kỳ ở biển Đông – ngoại trừ cho tới khi tiến trình này diễn ra thật rõ thì Washington mới nhận thấy. Cách Trung Quốc đánh phá – dựa theo binh pháp của Tôn Tử, triết gia thời xưa – là bất chiến tự nhiên thành (không đánh mà thắng). Do đó Trung Quốc đã tiến hành với các bước đi thật nhỏ: bồi đắp đảo ở chỗ này, xây đường băng ở chỗ kia, lắp đặt pháo tên lửa ở chỗ khác, triển khai giàn khoan thăm dò dầu tạm thời ở vùng biển tranh chấp, lập khu cai quản v.v… Mỗi bước được trù tính để chỉ tạo ra một sự kiện nhỏ mà không châm mồi cho một phản ứng quân sự từ phía bên kia, vì Trung Quốc biết rằng họ có thể còn cách cả một thế hệ mới đọ được với Hải quân và Không quân Hoa Kỳ về khả năng chiến đấu.

Chương mới nhất trong tiến trình này xảy ra hồi đầu tháng này, khi một tàu chiến Trung Quốc chạy tới chỉ cách tàu khu trục USS Decatur, một tàu khu trục tên lửa dẫn đường, trong vòng 45 yard ở vùng biển lân cận đá Gaven.

Trung Quốc không phải là một nước xoàng và khi so với các mục tiêu chính trị địa chính trị của họ thì các chính sách của họ đều hoàn toàn có ý đồ. Cách tiếp cận của Bắc Kinh đối với biển Đông khá giống với cách tiếp cận của Hoa Kỳ đối với vùng biển Caribbean trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi tìm cách thiết lập sự thống trị chiến lược trên vùng biển liền kề mình. Sự thống trị vùng Caribbean đã giúp Hoa Kỳ kiểm soát hiệu quả bán cầu Tây, cho phép nó tạo ảnh hưởng trọng yếu đến sự cân bằng quyền lực ở bán cầu Đông trong suốt thế kỷ 20. Đối với Trung Quốc, việc họ thống trị biển Đông trong thế kỷ 21 sẽ có tác dụng không kém hơn thế.

Việc kiểm soát hiệu quả biển Đông sẽ cho Trung Quốc khả năng tiếp cận tự do với Thái Bình Dương rộng lớn hơn, cho phép Trung Quốc tiếp tục làm Đài Loan – ranh giới phía bắc của biển Đông – suy yếu và, quan trọng nhất, biến Trung Quốc thành một cường quốc hải quân hai đại dương. Quả vậy, biển Đông là cửa ngõ vào Ấn Độ Dương – khu vực biển quan trọng nhất của thế kỷ 21, nó vận hành như là hải lộ năng lượng toàn cầu xuyên quốc gia nối các mỏ dầu khí ở Trung Đông với các khu đô thị trung lưu ở Đông Á. Các hành động quân sự của Trung Quốc ở biển Đông không tách rời với hành động xây dựng đế chế thương mại của họ trên khắp Ấn Độ Dương cho đến kênh đào Suez và vùng Đông Địa Trung Hải.

Tuy nhiên, theo quan điểm của Trung Quốc, Hoa Kỳ là nước bá quyền hung hăng. Xét cho cùng, Hải quân Hoa Kỳ đưa các tàu chiến từ Bắc Mỹ đến biển Đông xa xôi, mà theo điểm quy chiếu địa lý của Trung Quốc, vốn là vùng biển nhà của họ – giống y như biển Caribbean đối với người Mỹ. Thực tế là Tuần duyên Hoa Kỳ cho tàu bâu vào nhau bên trong và xung quanh vùng Caribbean cho thấy, theo một cảm giác tâm lý rất thật là Hoa Kỳ có quyền sở hữu vùng biển này như thế nào. Tin tưởng giống như vậy, Trung Quốc cũng có tàu cảnh sát biển, cũng như đội tàu đánh cá ở khu vực biển Đông.

Hoa Kỳ phải đối mặt với một thực tế quan trọng: Tây Thái Bình Dương không còn là một cái hồ của riêng hải quân Mỹ như trong nhiều thập kỷ sau Thế chiến II. Việc Trung Quốc trở lại vị thế một cường quốc lớn chắc chắn tạo ra một tình huống đa cực phức tạp hơn. Hoa Kỳ phải ít nhất dành ra một khoảng trống nào đó cho không quân và hải quân Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương. Khoảng trống bao lớn là câu hỏi cốt lõi.

Hãy nhớ rằng các đồng minh chính của Hoa Kỳ giáp biển Đông – Việt Nam và Philippines – không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải cầu thân với một Trung Quốc lớn hơn, chi phối về kinh tế và ở gần hơn nhiều. Họ muốn Hoa Kỳ như một đối trọng với Trung Quốc, chứ không phải là một kẻ thù địch thẳng đuột của Trung Quốc. Họ biết rằng Hoa Kỳ có sự hiện diện quân sự mạnh mẽ ở châu Á chủ yếu là do chọn làm như thế – làm cho chính sách của họ không chắc chắn – trong khi Trung Quốc là nguyên tắc tổ chức trung tâm của khu vực.

Tổng thống Trump đã truyền đạt sự không chắc chắn vào óc của các đồng minh châu Á của chúng ta nhiều hơn bất kỳ lãnh đạo Mỹ hiện đại nào trước đây. Điều này có thể buộc họ phải ký kết những thoả thuận không chính thức riêng với Trung Quốc. Một quá trình như vậy sẽ núp lén, hiếm khi được chấp nhận và hầu như không bao giờ xuất hiện trên các trang đầu của báo chí. Tuy nhiên, một ngày nào đó khi thức dậy chúng ta sẽ nhận ra rằng châu Á đã thay đổi không thể đảo ngược lại được.

Thật vậy, chiến lược an ninh của Bộ trưởng Quốc phòng Jim Mattis ở biển Đông đang bị chính sách thương mại của Trump phá hoại. Đừng bao giờ tin rằng Hoa Kỳ có thể sử dụng thương mại như một đòn bẫy chống lại Trung Quốc ở biển Đông, nơi mà Bắc Kinh có một chiến lược lớn dài hạn, rất có nền móng, trái ngược với ý tưởng bất chợt, ngoằn ngoèo của Trump.

Trừ khi Hoa Kỳ muốn xảy ra một cuộc chiến tranh bắn nhau ở biển Đông, biện pháp phòng thủ duy nhất chống lại chính sách xâm lấn dần của Trung Quốc là một hệ thống thương mại tự do và việc xây dựng liên minh dân chủ của Mỹ khiến vị thế quân sự của Mỹ được củng cố và chống lại hệ thống đế quốc của Trung Quốc. Sức mạnh không chỉ là về quân sự và kinh tế, mà còn là về đạo đức nữa. Và với “đạo đức”, trong trường hợp này, tôi không có ý nói là nhân đạo hoặc đức hạnh. Tôi muốn nói một cái gì đó khó hơn: Lời nói nhất quán để các đồng minh có thể trông mong vào bạn. Chỉ với những nước ven biển như Việt Nam và Philippines – chưa nói tới Đài Loan và Hàn Quốc – nhìn nó theo sự quan tâm riêng của họ để giữ khoảng cách an toàn với Trung Quốc.

Tóm lại, có một mâu thuẫn trực tiếp giữa chủ nghĩa dân tộc kinh tế quyết đoán của Trump, với cam kết của chính quyền của ông trong việc bảo vệ biển Đông. Biển Đông không phải là vùng biển nhà của Hoa Kỳ; nó là vùng biển nhà của Trung Quốc. Địa lý vẫn còn dính dáng. Và vì Hoa Kỳ nằm rất xa, hy vọng duy nhất của nó là đưa ra một tầm nhìn khu vực nâng cao, làm nền tảng cho tầm nhìn quân sự của mình.

***
Kaplan là tác giả của “The Return of Marco Polo’s World: War, Strategy, and American Interests in the Twenty-first Century” (Thế giới của Marco Polo quay trở lại: Chiến tranh, Chiến lược và lợi ích của người Mỹ trong Thế kỷ 21). Ông là một thành viên cấp cao của Trung tâm An ninh Mỹ mới và là cố vấn cấp cao của nhóm Eurasia.


------------------------
VOA Tiếng Việt
10/08/2018

Đưa ra những biện pháp trừng phạt đánh vào những cá nhân có liên quan và giới tinh hoa Trung Quốc nói chung, tăng cường sự hiện diện quân sự ở quanh Biển Đông (trong đó có Việt Nam), tiếp tục hỗ trợ các nước nhỏ nâng cao năng lực trên biển, thực thi quyền tự do hàng hải thường xuyên bên ngoài các chiến dịch tuần tra bảo vệ tự do hàng hải (FONOP) và tham gia vào các nỗ lực ngoại giao giải quyết tranh chấp là các giải pháp Mỹ cần xem xét để đối phó với đà bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.

Những đề xuất này được ông Michael Mazza, một nhà nghiên cứu về chính sách đối ngoại và quốc phòng tại Viện American Enterprise Institute (AEI) của Mỹ đưa ra trong một công trình nghiên cứu có tựa đề ‘Chiến lược của Mỹ đối với vùng đông nam Á’ vừa được công bố vào tháng 8 năm 2018.

‘Tam giác chiến lược’

Tác giả Mazza nhìn nhận rằng ‘bước tiến chậm rãi nhưng chắc chắn của Trung Quốc trong việc mở rộng kiểm soát trên Biển Đông đã khiến họ ngày càng có lợi thế hơn trước Mỹ’.
Hiện giờ, Bắc Kinh đã có vị thế tốt hơn để đe dọa quyền tự do lưu thông trên Biển vốn là nền tảng cho lợi ích thương mại và an ninh của Mỹ cũng như để thực thi sức mạnh đối với các nước tranh chấp khác để ép những nước này nhượng bộ bằng các biện pháp đe dọa hay cưỡng ép, theo nhận định của tác giả.

“Tất cả các bên liên quan, kể cả Mỹ, đang nhanh chóng tiến đến ngưỡng mà họ phải có lựa chọn một trong hai khả năng: hoặc là chịu để mặc cho Trung Quốc kiểm soát Biển Đông, hoặc là phải kháng cự mạnh mẽ.”

Mục tiêu kháng cự đầu tiên là phải khiến cho Trung Quốc ngưng việc xây dựng và quân sự hóa các thực thể mà họ kiểm soát trên Biển Đông. Nếu như việc yêu cầu Trung Quốc phải phá bỏ các căn cứ đã xây để trả Biển Đông về nguyên trạng như trước là ‘mục tiêu quá tham vọng’ thì trong giai đoạn hiện nay Mỹ nên dừng lại ở mục tiêu là Bắc Kinh đóng băng mọi hoạt động xây cất thêm.

Vẫn theo phân tích của Mazza thì Bắc Kinh có thể thành công trong việc quân sự hóa Biển Đông vì ‘cho đến giờ này, Bắc Kinh không phải trả một cái giá nào cho hành động của họ’ ngoài việc thanh danh của họ bị tổn hại ‘một cách khiêm tốn’.

Hiện nay, Bắc Kinh đã xây dựng tiền đồn trên đảo Phú Lâm (mà họ gọi là Vĩnh Hưng) thuộc quần đảo Hoàng Sa và trên một số thực thể mà họ kiểm soát thuộc quần đảo Trường Sa. Trung Quốc hiện cũng đang kiểm soát bãi cạn Scarborough mà họ giành được từ tay Philippines hồi năm 2012. Giới quan sát đang dự đoán rằng không sớm thì muộn Bắc Kinh cũng sẽ tiến hành bồi đắp và xây dựng trên bãi cạn này. Điều này, theo Mazza, là ‘đặc biệt đáng quan ngại’.

“Nếu Trung Quốc xây dựng căn cứ ở đó (bãi cạn Scarborough) thì họ sẽ hoàn tất ‘tam giác chiến lược’ (cùng với đảo Phú Lâm và căn cứ ở Trường Sa),” Mazza phân tích, “Trung Quốc sẽ có vị thế có thể kiểm soát hầu hết Biển Đông… và dọn đường cho việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông.”

Nếu điều này trở thành hiện thực thì đó sẽ là ‘thay đổi mang tính căn bản’ đối với môi trường an ninh trên Biển Đông và sẽ giúp cho Bắc Kinh ‘tăng cường thách thức quyền tự do lưu thông trên vùng biển và vùng trời quốc tế’.

Các biện pháp trừng phạt

Để răn đe hành động quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc, ông Mazza đề xuất Mỹ nên áp đặt chế tài đối với các công ty Trung Quốc tham gia bồi đắp đảo và triển khai các máy bay tác chiến điện tử luân phiên đến Philippines để phá sóng lực lượng của Trung Quốc. Trường hợp Trung Quốc triển khai lực lượng ra Đá Vành Khăn mà họ chiếm của Philippines hồi năm 1995 thì Washington cần đáp trả bằng việc triển khai binh lực ra các thực thể mà Manila hiện kiểm soát.

Ngoài ra, ông Mezza còn đề xuất Mỹ nên tạm dừng cấp thị thực du học cho con em các quan chức và các lãnh đạo doanh nghiệp Trung Quốc, treo lại chương trình thị thực đầu tư EB-5 cho các công dân Trung Quốc và cho phép các quan chức chạy trốn chiến dịch truy quét tham nhũng mang tên ‘Săn cáo’ của Chính phủ Trung Quốc được trú ẩn ở Mỹ. “Điều này sẽ gây áp lực trực tiếp lên giới lãnh đạo Trung Quốc,” ông phân tích.

Một biện pháp leo thang đáp trả mà ông Mezza cho rằng Mỹ nên tính tới là tấn công vào những điều mà Bắc Kinh cho là ‘lợi ích cốt lõi’ của họ - tức là những lợi ích mà Bắc Kinh không thể nào nhượng bộ dù chỉ một chút và sẵn sàng dùng tất cả các biện pháp, kể cả quân sự, để bảo vệ. Tấn công vào các ‘lợi ích cốt lõi’, bao gồm Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng, do đó, sẽ khiến Trung Quốc tổn thương nặng và khiến họ đáp trả quyết liệt.

Theo đó, ông đề xuất Bộ Ngoại giao Mỹ nên công bố báo cáo về tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Tạng và Tân Cương và nêu ra những lập trường có thể của Mỹ đối với những tuyên bố chủ quyền này (riêng về Đài Loan, Mỹ đã có lập trường đối với chính sách ‘Một Trung Quốc’ kể từ Thông cáo Thượng Hải năm 1972 cũng như đạo Luật về Quan hệ với Đài Loan năm 1979) và thiết lập Viện Mỹ ở Dharamsala để nâng cấp quan hệ giữa Mỹ và chính phủ lưu vong Tây Tạng.

Tăng cường hiện diện quân sự

Để đảm bảo tự do hàng hải trên Biển Đông, thì bên cạnh các chiến dịch tuần tra bảo vệ tự do hàng hải (FONOP) vốn được các chính quyền Barack Obama và Donald Trump tiến hành nhưng không thường xuyên, ông Mezza còn đề xuất rằng Mỹ cần thực hiện liên tục quyền tự do hàng hải của tàu bè đi lại trên Biển Đông.

Ông cho rằng số liệu hiện nay cho thấy mặc dù mỗi ngày Mỹ ít nhất có từ hai đến ba tàu bè đi lại trên Biển Đông, nhưng con số này là ‘không đủ’ so với thách thức hiện nay từ Trung Quốc, và rằng sự di chuyển của tàu bè thông thường sẽ không mang tính khiêu khích đối với Bắc Kinh như FONOP.

Ngoài ra, theo ông Mezza, Washington cần tăng cường hơn nữa sự hiện diện quân sự, nếu cần có thể thiết lập thêm căn cứ thường trực, trên Biển Đông để gửi tín hiệu đến Bắc Kinh rằng việc họ đang tìm cách kiểm soát vùng biển và vùng trời Biển Đông ‘là vô ích’. Ông Mezza đặc biệt nhắm đến các đối tác Philippines, Singapore và Việt Nam.

Dưới chính sách xoay trục về châu Á của cựu Tổng thống Barack Obama để kiềm chế sự lớn mạnh của Trung Quốc (sau này đã bị Tổng thống Donald Trump bãi bỏ và thay bằng chính sách Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do), Mỹ đã củng cố mối quan hệ an ninh với các đối tác xung quanh Biển Đông.

Đối với Philippines, vốn là một đồng minh có hiệp ước của Mỹ, hai nước đã ký kết Hiệp ước Hợp tác Phòng vệ Tăng cường (EDCA) hồi năm 2014. Nhưng hiệp ước này có nguy cơ bị lung lay dưới thời của Tổng thống Rodrigo Duterte vốn ngày càng xích lại gần Trung Quốc. Tuy nhiên, trong cuộc gặp tại Manila hồi tháng 11 năm 2017, Tổng thống Trump và Tổng thống Duterte đã tái khẳng định mối quan hệ đồng minh có hiệp ước cũng như đảm bảo cam kết với EDCA.

Trong khi đó Singapore ngày càng nổi lên như là một đối tác an ninh đáng tin cậy của Mỹ đến gần mức độ như là ‘đồng minh không chính thức’. Họ đã cho Mỹ triển khai máy bay quân sự Poisedon 8 đến lãnh thổ của họ và cho phép tàu chiến thân cạn (LCS) luân phiên đồn trú.

Còn đối với Việt Nam, chính quyền Obama đã dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương và hỗ trợ tàu tuần tra cho lực lượng cảnh sát biển. Một giới chức Mỹ gần đây cho VOA biết Hà Nội cũng đã thương thảo hợp đồng vũ khí trị giá gần 100 triệu đô la với Washington. Ông Mezza dự báo rằng về lâu dài phía Mỹ có thể bán cho Việt Nam máy bay chiến đấu và trực thăng tấn công.

Tuy nhiên, mục tiêu của Mỹ đối với Việt Nam ‘nên là căn cứ thường trực hoặc được phép cho quân đội ra vào cảng Cam Ranh một cách luân phiên’. Tuy nhiên, chính sách ngoại giao độc lập, tự chủ của Hà Nội, hay còn được biết đến là chính sách ‘3 không’ khiến Washington khó lòng đạt được mục tiêu này.

“Nếu các nước đông nam Á thật lòng muốn có sự hiện diện quân sự của Mỹ để có thể thay đổi tính toán của Trung Quốc thì họ cần phải có bước đi để tạo điều kiện cho sự hiện diện đó,” ông viết.

Nếu Mỹ có thể tăng cường sự hiện diện ở Philippines (đông Biển Đông), thiết lập sự hiện diện ở Việt Nam (tây Biển Đông) và với sự hiện diện sẵn có ở Singapore (nam Biển Đông), thì Mỹ có thể ‘đáp trả nhanh chóng các vụ việc xảy ra trên các chuỗi đảo tranh chấp hay các hành vi Trung Quốc quấy rối và tấn công lực lượng hải quân và không quân của Mỹ cũng như của các nước đồng minh’.

Sự hiện diện dàn trải ở khắp nơi trên Biển Đông như thế, theo ông Mezza, sẽ phức tạp hóa việc hoạch định chính sách quân sự và tính toán chính trị của Bắc Kinh do họ phải ‘tính toán đến việc tấn công vào nhiều quốc gia có chủ quyền’. Ngoài ra, việc rải lực lượng như thế còn có thể giúp các lực lượng Mỹ có thể hỗ trợ lẫn nhau nếu xảy ra khủng hoảng.

Ngoài ra, Mỹ cũng cần tiếp tục tăng cường năng lực cho các nước đối tác này để họ có thể kiểm soát vùng biển chủ quyền và vùng đặc quyền kinh tế của họ một cách hiệu quả, ông đề xuất. Mặc dù năng lực quân sự của những nước này không thể nào bằng được Trung Quốc nhưng việc họ tăng cường khả năng quân sự có thể khiến Bắc Kinh phải suy nghĩ kỹ hơn trước khi có hành động cưỡng chế.

Tham gia giải quyết tranh chấp

Trên mặt trận ngoại giao, ông Mezza đề xuất Mỹ nên tích cực tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp với các bên thay vì giữ lập trường trung lập như lâu nay. “Hóa ra là Mỹ có lợi ích trong việc tranh chấp được giải quyết như thế nào,” ông nhận định.

Theo ông, nếu như tranh chấp được giải quyết theo chiều hướng có lợi cho Trung Quốc thì đó sẽ là hồi chuông báo động đối với Mỹ.

“Hãy tưởng tượng nếu như Trung Quốc có thể đảm bảo chủ quyền với với tất cả các thực thể có tranh chấp trên Biển Đông mà không phải tốn một viên đạn. Do Trung Quốc có thái độ chống lại các chuẩn mực thông thường như tự do hàng hải và tham vọng bá quyền rõ ràng của họ ở châu Á thì một thực tế như thế sẽ là một bước ngoặt không thể nào chấp nhận được đối với Mỹ và các đồng minh,” ông phân tích.

Trước mắt, một trong những hành động ngoại giao mà Mỹ có thể làm là hối thúc các bên nhanh chóng hoàn tất bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC). Kể từ Tuyên bố về Quy tắc Ứng xử (DOC) được đưa ra hồi năm 2002, quá trình đàm phán COC đã kéo dài mãi bất chấp sức ép từ phía Mỹ. Một phần lý do là Trung Quốc không muốn bị ràng buộc bởi các quy định về COC trước khi họ hoàn tất các công việc xây dựng và bố trí lực lượng trên Biển Đông. Một số các nhà quan sát còn cho rằng Bắc Kinh đang cố gắng câu giờ COC cho đến khi họ hoàn tất bố trí lực lượng trên bãi cạn Scarborough.

Ông đề xuất Mỹ và các đối tác bên ngoài nên khuyến khích các bên đàm phán trong ASEAN đặt ra thời hạn chót – tối đa là sáu tháng – để hoàn tất việc đàm phán COC và trong khi đàm phán các bên phải đóng băng việc xây dựng trên các thực thể. Trường hợp Bắc Kinh không đồng ý thì các nước ASEAN sẽ bắt đầu một tiến trình ngoại giao mới để đàm phán về các chuẩn mực ứng xử và tiến tới phân định ranh giới chủ quyền mà không có Bắc Kinh tham gia, theo kiến nghị của tác giả.

“Bắc Kinh có thể chọn lựa tham gia vào đàm phán hay chứng kiến các tranh chấp được giải quyết mà không có ý kiến của họ,” ông viết.

“Các nước có tranh chấp sẽ không có bước đi này nếu như họ không tin vào sự hậu thuẫn của Mỹ. Mỹ nên nói rõ ràng họ sẽ ủng hộ và bảo vệ các thỏa thuận đạt được miễn là chúng tôn trọng luật pháp quốc tế và xâm phạm lợi ích của Mỹ.”

*

----------------------------------

Hà Tường Cát  -  Người Việt
January 26, 2018

Trong một chuyến hải hành được gọi là “để xác định quyền tự do hàng hải” FONOP (Freedom of Navigation Operation), hôm 17 Tháng Giêng, khu trục hạm USS Hopper trang bị hỏa tiễn đã đi vào vùng biển Trường Sa và đến cách bãi san hô Scarborough Shoal 12 hải lý.

Phát ngôn viên Lu Kang, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, nói rằng chiến hạm Mỹ vi phạm vùng biển 12 hải lý của đảo Huangyan và “Hải Quân Trung Quốc sau khi thi hành các thủ tục định dạng theo luật quốc tế, đã phái một chiến hạm đến yêu cầu tàu Mỹ phải ra khỏi vùng biển.”
Huangyan theo cách gọi của Trung Quốc là bãi san hô Scarborough Shoal được Philippines xác nhận chủ quyền và đặt tên là Panatag, nhưng bị Trung Quốc chiếm đoạt năm 2012.

Phát ngôn viên Lu Kang tuyên bố: “Trung Quốc rất bất mãn với hành động của Mỹ và sẽ sử dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền của mình.”

Trong thời chính quyền của Tổng Thống Obama, Trung Quốc đã nhiều lần mạnh mẽ phản đối các chuyến FONOPs diễn ra từ 2015 đến Tháng Mười, 2016, nhưng lúc đó Hải Quân Trung Quốc chỉ theo dõi canh chừng không tỏ ra muốn có hành động trực tiếp can thiệp.

Trong mấy tháng đầu thời Tổng Thống Trump, Mỹ ngưng các chuyến FONOPs để tránh va chạm Trung Quốc nhằm hy vọng Bắc Kinh tăng áp lực với Bắc Hàn. Hải Quân Mỹ tiếp tục trở lại những chuyến hải hành FONOPs, từ Tháng Năm, 2017, chuyến đầu tiên với khu trục hạm USS Dewey đi vào vùng biển 12 hải lý cách Mischief Reef (đá Vành Khăn) do Trung Quốc bồi đắp thành đảo nhân tạo.

Cuối Tháng Bảy, khu trục hạm USS Stethem đi vào vùng biển quần đảo Hoàng Sa do Trung Quốc chiếm của Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 và đến cách đảo Tri Tôn 12 hải lý.

Tới Tháng Tám, khu trục hạm USS John McCain một lần nữa đi ngang đá Vành Khăn, chỉ cách xa 6 hải lý. Hải Quân Trung Quốc 10 lần phát tín hiệu cảnh cáo nhưng không phái chiến hạm đến nghênh cản.

Bây giờ sang năm 2018, phản ứng của phía Trung Quốc có vẻ mạnh mẽ hơn và gia tăng sự thách thức Mỹ. Tờ Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng Cộng Sản, gọi Washington là kẻ gây rối, và hành động vừa qua của Mỹ chỉ khiến cho Trung Quốc buộc phải tăng cường triển khai lực lượng trên hải lộ tranh chấp. Theo tờ báo, trong tình hình đang được cải thiện ở khu vực, rõ ràng Mỹ muốn quân sự hóa Biển Đông; “Phản lại nền tảng hòa bình và hợp tác, chiến hạm Mỹ ngang ngược gây rắc rối đến mức táo bạo liều lĩnh.”

Tờ báo hăm dọa: “Nếu bên hữu quan một lần nữa vô cớ gây thêm rắc rối và tạo căng thẳng thì Trung Quốc phải đi đến kết luận rằng: Để bảo vệ hòa bình ở Biển Đông, Trung Quốc cần tăng cường và đẩy nhanh việc tạo dựng những khả năng ở đây.”

Hoàn Cầu Thời Báo, tờ lá cải do Nhân Dân Nhật Báo phát hành, trong một bài xã luận nói rằng: “Lực lượng và khả năng quân sự của Trung Quốc đã gia tăng cùng với việc kiểm soát Biển Đông. Bây giờ Trung Quốc nên đưa thêm chiến hạm đến đây để ổn định tình thế và có thể thực hiện việc quân sự hóa các đảo.”

Năm ngoái ở Biển Đông, Trung Quốc đã bồi đắp các đảo nhân tạo và xây dựng cơ sở vật chất trên diện tích tổng cộng 290,000 m2, tương đương 72 mẫu (acres).

Về phía Mỹ, Bộ Quốc Phòng không bình luận về chuyền đi của chiến hạm Hopper, nhưng Hải Quân Mỹ khẳng định rằng có quyền thực hiện những chuyến hải hành gọi là FONOP nhằm “thể hiện sự thách thức với tuyên bố chủ quyền hàng hải quá mức” của Trung Quốc ở Biển Đông. Các giới chức Mỹ xác định rằng theo luật quốc tế đây là “chuyến đi ngang vô tư” của một chiến hạm nhận biết rõ lãnh hải đã đi qua nhanh chóng không dừng lại.

Hôm Thứ Sáu, Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ James Mattis nói rằng không phải khủng bố, mà tranh chấp với các cường quốc như Nga và Trung Quốc, mới là trọng tâm cho an ninh quốc gia của nước Mỹ.

Hải Quân Trung Quốc phát triển rất nhanh từ đầu thế kỷ 21 và khả năng hoạt động của hạm đội từ cận duyên đã tiến tới viễn duyên. Các chuyên gia quốc phòng phương Tây cũng thường nói đến tham vọng của Hải Quân Trung Quốc tiến tới ngang bằng Hải Quân Mỹ trong sự tranh quyền bá chủ các đại dương. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế không còn tốt đẹp như thời gian những năm trước, Trung Quốc sẽ buộc phải cắt giảm ngân sách quốc phòng và dự án 500 chiến hạm của hải quân không dễ đạt tới. Vả lại Trung Quốc biết rằng trong cuộc chạy đua vũ trang thời Chiến Tranh Lạnh, Tổng Thống Ronald Reagan đã đánh bại Liên Xô bằng chi tiêu quốc phòng, và bây giờ Tổng Thống Donald Trump vẫn còn tiềm năng thắng Trung Quốc như thế.

Tổng Thống Trump hiện nay muốn tăng số chiến hạm chủ lực của Hải Quân Mỹ từ 272 chiếc lên 350; Mỹ có 11 hàng không mẫu hạm chiến lược trong khi Trung Quốc mới chỉ có một và ít nhất tới 2019 hay 2020 mới có thêm chiếc mới. Nhưng Liêu Ninh hiện tại hay Sơn Đông tương lai thì cũng không thể so sánh được với USS Gerald Ford trị giá $13 tỷ. Hơn nữa Trung Quốc hiểu rõ là hải quân của họ không những còn thua Mỹ về lực lượng mà còn kém xa về khả năng và kinh nghiệm chiến đấu.

Do đó chiến tranh hay đụng độ lớn ngoài Thái Bình Dương giữa Hải Quân Mỹ-Trung Quốc sẽ chưa xảy ra ít nhất là cho đến giữa thế kỷ. Hoạt động của Hải Quân Trung Quốc trong tương lai gần sẽ chỉ giới hạn ở Biển Đông nhắm phục vụ cho kế hoạch lâu dài khống chế toàn bộ Biển Đông, nơi họ có ưu thế tuyệt đối về sức mạnh so với tất cả mọi nước trong khu vực.

Chiến lược lấn tới dần dần
Trung Quốc vẫn công khai tuyên bố chủ quyền trên gần như toàn bộ Biển Đông, bất chấp nguyên tắc và không tuân hành những thỏa thuận quốc tế. Bồi đắp những đảo nhân tạo là việc làm bất hợp pháp và công pháp quốc tế về luật biển đã xác đinh rằng đảo nhân tạo không có lãnh hải cũng như vùng đặc quyền kinh tế. Nhưng đảo nhân tạo của Trung Quốc có hai mục đích chính: (1) dùng làm đầu cầu để, hợp pháp hay không hợp pháp, lấn dần chủ quyền trong vùng biển, (2) xây dựng thành căn cứ quân sự tiền tiêu. Những căn cứ nhỏ bé và cô lập này sẽ không thể nào phòng thủ được nếu chiến tranh với Mỹ, nhưng rất có hiệu quả trong các chiến dịch xâm lăng ở khu vực.

Phản ứng của Trung Quốc đối với Mỹ ở từng thời điểm, leo thang hay xuống thang, chẳng qua chỉ là để thích ứng với từng tình huống, nhưng không ra ngoài chiến lược lấn tới dần dần của Trung Quốc. Vì vậy, không có gì nghi ngờ về đường lối của Trung Quốc, thắc mắc mà người ta đặt ra là về chủ trương của Mỹ. Trong chính sách đối ngoại của Tổng Thống Donald Trump năm 2018 liệu ông có quả thật chú trọng đến Biển Đông như từng hứa hay không. Một số quan sát viên cho rằng ông Trump vẫn nói không muốn nước Mỹ can dự nhiều vào các vấn đề quốc tế, nhưng ông đã vội vã quyết định cho chuyển tòa Đại Sứ Mỹ về Jerusalem. Vậy thì Biển Đông có lợi ích gì để ông phải quan tâm đến mức như Israel hay không?

Ngoài những lời lẽ phê phán Trung Quốc, chủ yếu về kinh tế, trong thời gian tranh cử, và rồi sau đó Tổng Thống Trump có lý do để nương nhẹ Trung Quốc; cho đến nay chưa có điều gì chứng tỏ ông thật sự quan tâm đến vấn đề Biển Đông. Những hoạt động như FONOP là do Bộ Quốc Phòng và Hải Quân tiếp tục thi hành và không một quan sát viên nào ghi nhận Biển Đông là ưu tiên của Tòa Bạch Ốc.

Chiến Lược An Ninh Quốc Gia của chính quyền Tổng Thống Trump được công bố hồi Tháng Mười Hai nói rằng: “Những cố gắng của Trung Quốc để xây dựng và quân sự hóa các tiền đồn trong vùng Biển Đông là sự đe dọa tự do lưu thông thương mại, đe dọa chủ quyền các quốc gia khác, và tạo bất ổn khu vực.”

Cho tới nay, chính sách của chính quyền Tổng Thống Donald Trump ở Biển Đông chỉ giới hạn trong việc thực hiện Quyền Tự Do Hải Hành (FONOPs), mà chính quyền Tổng Thống Barack Obama bắt đầu thực hiện hồi năm 2015.

Vả lại FONOPs không phải là chiến lược toàn diện, nó không đủ để ngăn chặn Trung Quốc dưới thời Barack Obama và nó cũng sẽ không đủ như vậy dưới thời Donald Trump.

Người ta không tin là Tổng Thống Trump có thể có một quyết định gì mạnh mẽ hơn, và trong tình thế ấy mọi diễn tiến sẽ là có lợi cho Trung Quốc ở Biển Đông. Trung Quốc sẽ tìm mọi cách tránh va chạm lớn với Mỹ ở khu vực này và không gây khó khăn cho những nước nào muốn ngả về phía Mỹ. Nhưng Việt Nam và Philippines, căn cứ trên kinh nghiệm dĩ vãng cũng như tình hình hiện tại, hiểu rằng không thể nào trông cậy hoàn toàn vào Mỹ, và do đó buộc phải tìm thỏa hiệp với Trung Quốc tới một chừng mực đủ khôn ngoan để tồn tại và bảo vệ lợi ích của dân tộc mình. (Hà Tường Cát)

—————-
Liên lạc tác giả: ha.cat@nguoi-viet.com





No comments: