Tom Le
Trà
Mi dịch
Posted
on October
12, 2017 by editor — 0
Comments
Những toan tính chiến lược có thể khác
nhau, nhưng sự cam kết với đồng minh phải trước sau như một.
Một
hạ sĩ quan nhảy dù Hoa Kỳ đã bồng một em nhỏ mà ông đã tìm thấy
trong cuộc hành quân ngay sau khi ngừng bắn vaof dịp Tết, ở phía tây nam
Đà Nẵng, Việt Nam. Nguồn ảnh: Keystone Pictures / Newscom/
Mẹ
tôi là một thiếu nữ trong cuộc hành trình nguy hiểm đến Mỹ như là một “thuyền
nhân”. Chắc chắn là bà đã giấu tôi rất nhiều về thực tế xấu xí của Chiến
tranh Việt Nam, nhưng bà lại rất thích kể cho tôi nghe câu chuyện về người
lính Mỹ đã cho ông tôi hai con chó. Cụ đã trở nên gắn bó với chúng đến nỗi sau
khi một trong hai con chết vì bảo vệ cho mẹ tôi khỏi bị rắn cắn, ông tôi đã
dùng số tiền nhỏ dành dụm được để chôn cất nó.
Đối
với nhiều người Nam Việt Nam, những câu chuyện như thế này cho thấy cảm xúc của
họ về chiến tranh. Mỹ là một người bạn, vì nhiều lý do khác nhau, đã không thể
ngăn cản việc miền Nam Việt Nam mất cơ hội có tự do thực sự. Người miền Nam
tiếc những gì đáng lý có thể đã đến, nhưng đánh giá cao người Mỹ vì họ đã làm
đúng nghĩa vụ của một đồng minh.
Tập
phim Chiến
tranh Việt Nam của Ken Burns và Lynn Novick đã là một món quà bởi
vì việc vô tư kể lại cuộc chiến đã tạo ra những thảo luận mới về một bước ngoặt
trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên, phản ứng trong giới hàn lâm và báo chí dòng
chính đã làm nản lòng vì thiếu sự đa dạng trong số những ý kiến, và hầu như
không có ý kiến [bày tỏ bằng tiếng Anh] từ phía người Việt Nam. Một loại ý kiến
điển hình như của Andrew Bacevich, là lập luận rằng bất chấp những ưu điểm, bộ phim Chiến
tranh Việt Nam thiếu sự sẵn lòng giải thích và đưa ra những đánh giá đạo
đức về một cuộc chiến “vượt ra khỏi mọi lý do”.
Bacevich
cho rằng cuốn phim tài liệu không đi khỏi những điều hiển nhiên rằng chiến
tranh là một bi kịch lớn. Những người khác cho rằng can thiệp của Hoa Kỳ là lừa
đảo (Newsweek) hoặc một tội phạm (The
Intercept).
Chắc
chắn, sự hiển nhiên thường làm lệch hướng suy nghĩ phê bình và giả định quá
nhiều. Cũng có thể nói về một sự thật hiển nhiên khác về chiến tranh ở Việt Nam
là Hoa Kỳ không có lý do gì đến Việt Nam vì quốc gia này không nằm trong lợi
ích của Mỹ.
Sự
thật là Chiến tranh Việt Nam rõ ràng thuộc về lợi ích của Hoa
Kỳ. Nếu không chiến đấu bên cạnh miền Nam Việt Nam thì uy tín của Hoa Kỳ sẽ bị
tổn hại nghiêm trọng. Trong khu vực, Hàn Quốc và Nhật Bản cần có sự bảo đảm
rằng Hoa Kỳ là một đồng minh đáng tin cậy, đặc biệt là do tốn kém cao của liên
minh đối với họ. Các đồng minh châu Âu cũng cần thấy các dấu hiệu mạnh mẽ rằng
Hoa Kỳ có thể là người bảo đảm an ninh trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Chắc
chắn, thất bại trong một cuộc chiến gây tổn hại đến sự tín nhiệm vào sức mạnh,
nhưng không muốn yểm trợ một đồng minh sẽ làm thương tổn đến uy tín của lòng
tin.
Mỹ
sẽ được hưởng lợi rất lớn nếu có một nền dân chủ mạnh ở Đông Nam Á, đặc biệt là
một quốc gia có biên giới ngay phía nam của Trung Quốc. Trung Quốc ngày càng
thách thức Hoa Kỳ ở Biển Đông, đặc biệt là trong việc xây dựng các hòn đảo nhân
tạo trong vùng biển đang có tranh chấp. Sự hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực
là điều cần thiết để duy trì tự do hàng hải, thương mại, an ninh và bảo đảm cho
các nước đồng minh. Do quan hệ với Philippines ngày càng xấu đi, Việt Nam ngày
càng trở thành một nươc có tầm quan trọng địa chiến lược. Tăng cường hợp tác
giữa các quốc gia trong những năm gần đây để cân bằng với sức mạnh của Trung
Quốc cho thấy mối quan hệ này nằm trong lợi ích an ninh của Hoa Kỳ.
Cam
kết làm đồng minh của miền Nam sau khi đát nước chia đôi vào năm 1954, Hoa Kỳ
gắn chặt mình với số phận của người dân miền Nam Việt Nam. Hơn nữa, Hiệp định
Geneva đã được những quyền lực đế quốc dàn xếp và Bắc Việt đã nhận được sự viện
trợ khổng lồ từ Trung Quốc và Liên bang Xô viết trong suốt cuộc chiến. Số phận
của Việt Nam không bao giờ hoàn toàn trong tay của người dân Việt Nam. Những kẻ
gièm pha đã tin vào huyền thoại rằng bàn quyền lực của phương Tây phương sẽ
‘không bẩn’ nếu họ để các quốc gia thuộc địa cũ tự “giải quyết với nhau”.
Những
người bác bỏ sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với miền Nam Việt Nam nói rằng chế độ hẹp
hòi của Ngô Đình Diệm trong những năm 50 và 60 là bằng chứng về lợi ích chính
trị của Hoa Kỳ và thiếu sự ủng hộ cho một nền dân chủ “thực sự”. Tuy nhiên,
nhiều cuộc phản kháng chống lại chế độ Diệm cho thấy người dân Việt Nam hiểu
dân chủ là gì và sẵn sàng chiến đấu và chết vì nó. Những nền dân chủ mạnh ở
châu Á không xuất hiện qua đêm. Nam Hàn, Đài Loan và Nhật Bản, với những nền
dân chủ rất quan trọng đối với sự ổn định trong khu vực ngày nay đã phải mất
hàng chục năm để trở thành ngững quốc gia hoàn toàn tự do. Nam Hàn chí có cuộc
bầu cử tự do đầu tiên 38 năm sau chiến tranh.
Vì
Việt Nam thiếu những hình ảnh thực sự về miền Bắc, nên nhiều người Mỹ đã tự mãn
với suy nghĩ rằng người cộng sản rất tồi. Trong một bài phê bình gay gắt về tập
phim Chiến tranh Việt Nam, Jerry Lembcke lập luận xấc xược rằng bộ
phim này được xây dựng xung quanh “luận điệu cho rằng Cộng sản đã làm điều này,
Cộng sản đã làm điều đó – sự xâm lược của Cộng sản, những vụ ám sát của Cộng
sản, và Cộng sản giết chết kẻ thù bị thương” làm như những chuyện đó đã không
xảy ra. Những tình cảm đó dựa vào những cách mô tả chuyện đâu đâu về cuộc chiến
để che giấu những bất công thô bạo, như vụ thảm sát ở Huế và vụ tổng tấn công
trong dịp Tết Mậu Thân.
Ý
tưởng cho rằng Chiến tranh Việt Nam không nằm trong mối quan tâm của Hoa Kỳ có
thể bị buộc chặt với việc bại trận, điều mà nhiều người Mỹ không hiểu được.
Những lý do địa chiến lược địa để Mỹ tham chiến ở Đại Hàn và bảo vệ Nhật Bản
cũng tương tự (như lý do tại sao Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam), nhưng chúng
được coi là những can thiệp chính đáng bởi vì đó là những câu chuyện thành
công. Những toan tính chiến lược có thể khác nhau, nhưng sự cam kết với một
đồng minh phải trước sau như một.
Bộ
phim chiếu trên đài PBS đã bị chỉ trích vì kết luận rằng
“cuộc
chiến bắt đầu bằng lời cam kết tốt của những người lương thiện, vì sự hiểu lầm
tiền định, sự quá tự tin của Mỹ và những tính toán sai lầm của Chiến tranh
Lạnh. Và chiến tranh đã kéo dài bởi vì loay hoay thoát ra khỏi cuộc chiến dễ
hơn là thừa nhận rằng nó đã xẩy ra vì những quyết định thê lương.”
Việc
sử dụng hoa chất “da cam” và các hành động tàn ác khác trong chiến tranh đòi
chúng ta phải chỉ trích Mỹ, nhưng cũng đòi hỏi chúng ta phải xét đến những mục
đích tốt trong thực tiễn. Kết luận của Burns cho rằng chúng ta đã đi vào cuộc
chiến và lạc lối là một đánh giá công bằng. Những người hoài nghi xem kết luận
này và nghĩ rằng ông đang cố tình tẩy trắng những hành động tàn bạo của Mỹ,
nhưng tôi nghĩ điểm có ý nghĩa hơn là chiến tranh có cách để huỷ hoại những
người tốt và chúng ta phải thận trọng không cho phép điều đó xảy ra, bằng cách
hiểu rõ lợi ích của mình và không chạy trốn trước những xung đột trên khắp thế
giới.
Chiến
tranh Việt Nam ngày nay có những hệ luận sâu sắc. Những người chống đối cuộc
xung đột ngày xưa này tin rằng Hoa Kỳ đang mắc phải sai lầm tương tự ở
Afghanistan và Iraq, đồng thời lo lắng rằng Tổng thống Trump làm suy yếu khối
đồng minh bằng những tu từ của ông và muốn Hoa Kỳ làm nhiều hơn để bảo vệ nhân
quyền ở nước ngoài. Bộ phim Chiến tranh Việt Nam không đưa ra
câu trả lời rõ ràng về đường lối mà Mỹ nên làm, nhưng chúng ta không thể hoài
nghi khi tin rằng những cam kết tốt không nằm trong lợi ích của chúng ta.
Tom
Le là một giáo sư phụ tá về chính trị tại trường Cao đẳng Pomona.
©
2017 DCVOnline
Nếu
đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net
*
Nguồn: What
it Means to Be an Ally: A Vietnamese-American’s View on the US in the Vietnam
WarBy Tom Le, the Diplomat, October 11, 2017.
No comments:
Post a Comment