Từ
1979 đến nay là gần nửa thế kỷ. Trong khoảng thời gian này đã có hai
đợt di dân tập thể từ Việt Nam: thuyền nhân cũ và những thuyền nhân
mới - ancient boat people and nouveaux boat people. Giữa hai lớp
người này có nhiều điểm dị biệt nhưng chính sách của nhà đương cuộc
Hà Nội thì trước sau như một, hoàn toàn xuyên suốt và nhất quán: “Họ
có đầu óc lạnh lùng tính toán, không hề biết động lòng với chính đồng bào mình,
nhưng làm phép tính giữa chi phí và lời lãi thu về thì rất nhanh.” Nói cho nó
gọn thì đây là một hình thức buôn dân của giới lãnh đạo Việt Nam
hiện nay. Nước họ còn dám bán thì buôn dân, tất nhiên, chỉ là chuyện
nhỏ...
*
đều
mang gốc gác Việt
liều
lĩnh bỏ quê nhà
bằng
đường dây người lậu
đi cầu
thực phương xa
những
con người khốn khó
tâm
hồn rách tả tơi
xuất
xứ từ nghèo đói
mang
giấc mơ đổi đời
Bắc
Phong - “Những Người Rơm”
Cuối
năm, blogger Hoàng
Giang gửi đến độc giả một câu chuyện rất “nhẹ nhàng” và
“đáng yêu” ngăn ngắn:
“Tôi
mới đọc được mẩu tin nho nhỏ, mà chắc chả mấy ai bận tâm, mẩu tin cũng nhẹ
nhàng tình “củm” có tựa đề là “How did this Swedish cat turn up in south
France?”. Tức là có một chú mèo tên là Glitter sống ở Bromolla, miền nam Thụy
Điển mất tích đã 8 tuần. Anh chủ Sammy Karlsson tưởng chừng như sẽ không có hy
vọng tìm lại được Glitter nữa thì bỗng dưng vào đúng tuần lễ Thanksgiving, anh
nhận được một cuộc gọi từ vùng Nimes tại miền nam nước Pháp hỏi anh về chú mèo
lông xù này.
Sammy
ngạc nhiên tới mức anh tưởng người ta đang đùa cợt mình, nhưng khi bức hình được
gửi đến, thì chú mèo đó chính xác là Glitter của anh. Trong một bài phỏng vẫn,
anh nói đùa rằng “Có lẽ Glitter đã phải lòng một cô gái Pháp nào đó, và chàng
quyết định đội chiếc mũ bê rê.” Hiện chàng mèo đang được tiêm phòng và làm quốc
tịch Pháp sau đó sẽ được gửi trả về với chủ tại Thụy Điển.
Câu
chuyện mới đáng yêu làm sao, cứ tưởng tượng một chú mèo thong dong trên khắp nẻo
phố châu Âu, chu du hơn 1,700km, mà tự dưng cũng muốn mình được như thế, vô lo
vô nghĩ...
Ước
muốn được “thong dong trên khắp nẻo phố châu Âu” của Hoàng Giang tuy không
có gì là viển vông nhưng vẫn rất xa vời, và mỗi lúc một thêm xa,
nếu chúng ta (chả may) sinh ra là... người Việt Nam – cái xứ sở mà
nhiều người dân phải cầm cố nhà cửa/ruộng vườn mới đủ chi trả cho
con cái một chuyến đi ra khỏi nước.
Dù
giá quá đắt nhưng không phải ai đi (rồi) cũng đến. Hãy nghe qua một
mẩu đối thoại giữa một cô gái Việt, và người bạn trai (đồng cảnh)
từ hai phòng giam sát cạnh nhau - trong một nhà tù nào đó ở Âu
Châu:
Tuyết
ho, tôi xót ruột. Ho xong, nó nói:
“Em
mơ còn nằm trong cái xe thùng chở em sang đây. Ðứa con gái nằm ngay bên cạnh em
chết ngạt.”
“Chết!?”
“Chết.
Bị nhốt trong thùng xe hai ngày hai đêm. Khi bọn đầu gấu mở cửa xe ra, thấy bốn
người chết từ bao giờ. Con ấy thân với em nhất. Chúng em đã từng chia phiên
nhau kề mũi vào cái lỗ nhỏ để thở.
The
Vietnamese girl, believed to be 16, had been crammed into a tiny
space behind the dashboard of a car stopped at Dover. Ảnh & chú
thích: dailymail.co.uk
Thương
hại nó hay nhường cho em thở lâu hơn. Dọc đường nó cứ đòi về, không muốn đi nữa.
Nhưng em biết về thế nào được với bọn đường dây. Nó mà sống sót cũng bị đường
dây hành tới chết về cái tội đòi về... Anh có nghe không đấy?”
“Nghe
rõ cả.”
“Nó
nói khổ đều quanh năm chịu được, dồn vào một ngày thì chết. Anh nghĩ có đúng
không?”
“Chắc
đúng.”
“Mẹ
nó bán ruộng, bán vườn để chung tiền cho nó đi, cứ mong nó mang đôla về chuộc đất,
xây nhà như những người có thân nhân Việt kiều. Bây giờ nó chết, chưa kịp nhìn
thấy tờ đôla xanh. Trước khi chết nó tựa vai em lầm bầm 'Mẹ ơi! Con không muốn
làm Việt kiều. Con muốn về nhà. Con muốn cơ cực ở nhà với mẹ suốt đời.' Giọng
nó như đứa trẻ con ba tuổi.” (Tâm Thanh - “Người Rơm”).
Người
rơm còn có một tên gọi khác, dễ nghe hơn, theo ngoại ngữ: nouveaux
boat people - những thuyền nhân mới. Khác với lớp người tị
nạn từ Việt Nam vào cuối thế kỷ trước, những kẻ đến sau không còn
được thế giới chào đón nữa.
Nhân
loại, xem chừng, đã oải. Không ai còn đủ kiên nhẫn và bao dung với
những kẻ khốn cùng, (không vốn liếng, không ngoại ngữ, không nghề
nghiệp, không cả một mảnh giấy tùy thân) cứ tiếp tục đến mãi từ
một xứ sở… Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc!
Thêm
một điều khác biệt nữa là tuy được gọi tên "những thuyền nhân
mới" nhưng họ không vượt biên bằng thuyền.
“Trong
cuộc hành trình dài bằng phần nửa vòng trái đất, họ thường bám trên các xe vận
tải hạng nặng xuyên qua Châu Âu. Trốn trong những thùng chứa hàng trong xe, họ
phải ép xác, có khi chịu đựng không ăn uống trong nhiều ngày...”(PhươngVũ Võ Tam Anh, “Người
Việt Khốn Khổ Tại Paris”).
Sau khi
đặt chân được đến miền đất hứa (Anh Quốc) có một hiện tượng lạ xẩy
ra là lớp người rơm, ở tuổi vị thành niên, đều mất biến - theo bài
tường thuật (Missing Kids
UK) của Sam Judah, qua Tạp Chí Thời Sự BBC:
"Người
ta tin rằng hầu hết các trường hợp đều được các băng đảng đưa lậu vào Anh, bị
cảnh sát phát hiện và đưa vào các trung tâm chăm sóc.
Các
em rõ ràng là không bỏ trốn khỏi những kẻ bắt giữ mình, mà còn thường trốn khỏi
các gia đình nhận nuôi dưỡng mình và các trung tâm chăm sóc để trở lại với những
kẻ đó, nhằm tìm cách trả các khoản nợ lớn và nhằm để gia đình ở Việt Nam khỏi
bị trả thù.
Văn,
một cậu bé người Việt 15 tuổi, mà dường như được đăng tải trên trang mạng trẻ
mất tích dưới một cái tên khác, đã được đưa lậu vào Anh bằng xe tải và đã bị
buộc phải giúp việc nhà cho những kẻ đã đưa cậu vào. Sau đó, cậu được đưa
vào làm ‘thợ vườn’ ở một số trại trồng cần sa trên cả nước...
Hồi
năm ngoái, 96 thiếu niên người Việt đã được chuyển tới cho cơ quan quản lý
tình trạng buôn bán người của chính phủ, khiến Việt Nam trở thành quốc gia có
nhiều đối tượng được cho là nạn nhân ở tuổi vị thành niên nhất tại Anh. BBC,
nghe được hôm 18 tháng 2 năm 2014, còn cho biết thêm một khía cạnh tồi
tệ khác: “Số liệu từ Cơ quan Tội phạm Quốc gia Anh Quốc (NCA) cho thấy trẻ em
từ Việt Nam nằm đầu bảng danh sách bị đưa lậu vào Anh vì mục đích lạm dụng tình
dục.”
Người
rơm ở rừng Calais, Pháp Quốc. Ảnh: radiochantroimoi
Cập
nhật hơn, The
Guardian, số ra ngày 23 tháng 5 năm 2015, có bài tường thuật (“3,000
children enslaved in Britain after being trafficked from Vietnam”) của hai
ký giả Annie Kelly và Mei-Ling McNamara. Xin ghi lại vài đoạn ngắn, theo
bản dịch (“3.000 trẻ em bị buôn bán từ ‘đất nước Hồ Chí Minh’ sang Anh làm
nô lệ”) của blogger Nguyễn
Công Huân:
Giống
như nhiều trẻ em Việt Nam khác, Hiền đã được đưa đến Anh để sống một cuộc đời
nô lệ hiện đại. Em cuối cùng phải vào tù về tội trồng cần sa...
Chuyến
đi của Hiền tới Anh Quốc bắt đầu khi em bị bắt cóc khỏi làng lúc 5 tuổi bởi một
người nói rằng ông ta là chú của em. Như một đứa trẻ mồ côi, em không còn lựa
chọn nào khác ngoài làm theo những mệnh lệnh của người khác. Em đã mất năm năm
đi qua nhiều quốc gia bằng đường bộ, hoàn toàn không biết mình đã đi qua những
đâu, từ Việt Nam qua biên giới giữa Pháp và Anh để tới một căn nhà ở London. Ở
đây em phải làm nô lệ trong nhà trong 3 năm, nấu ăn và dọn dẹp cho nhóm những
người Việt đi ra vào ngôi nhà em bị giam giữ...
Trong
lời khai với cảnh sát, Hiền nói rằng em vẫn không hiểu chính xác loại cây em trồng
là cây gì, mặc dù em hiểu rằng nó rất có giá trị. Em chăm sóc đám cây, sử dụng
thuốc trừ sâu khiến em bị ốm, và chỉ rời căn hộ khi em giúp chuyển các cây cần
sa này tới nơi khác để sấy khô. Em bị khóa trong nhà, bị đe dọa, bị đánh đập và
bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài.
Ảnh: theguardian
Ước mơ
của đám trẻ con Việt Nam đang bị giam giữ trong những trang trại trồng
cần sa, hay những nơi mua bán tình dục - nếu có - hẳn không phải là
được "thong dong trên khắp nẻo phố châu Âu" (như chú mèo Glitter
trong câu chuyện của Hoàng Giang) mà là được trở lại quê hương. Được
“cơ cực ở nhà với mẹ suốt đời,” như nguyên văn tâm sự của một nhân
vật (dẫn thượng) của nhà văn Tâm Thanh.
Chuyện
hồi hương, buồn thay, cũng không dễ dàng chi - theo tường trình của
thông tín viên Lê
Hải, từ Luân Đôn:
"Khi
đã vào đến nước Anh rồi thì tùy thuộc vào chính quyền Việt Nam có chịu
nhận những người này về hay không. Thường thì số lượng người bị trục xuất
về Việt Nam gia tăng khi giữa hai nước có các đoàn công tác cấp cao, và
chính phủ Anh có thể đề nghị tăng viện trợ để đổi lại bằng chuyện Việt
Nam nhận người về."
Cách
ứng xử của những người lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay (Luân Đôn phải
tăng viện trợ Hà Nội mới chịu nhận người về) dễ làm người ta liên
tưởng đến lời lẽ cứng rắn trong bức thư mà ông Lý
Quang Diệu gửi cho bà Thủ Tướng Anh, về vấn đề thuyền nhân
Việt Nam, vào ngày 5 tháng 6 năm 1979. Xin được trích dẫn đôi dòng,
theo bản Việt Ngữ của nhà văn Phạm
Thị Hoài:
“Phải
nói, phải nhắc đi nhắc lại, cho nhân dân và các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới
biết rằng chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính là kẻ tích
cực xúc tiến cuộc di tản ồ ạt này, gây thiệt hại nặng nề cho các nước Đông Nam
Á...
Họ có
đầu óc lạnh lùng tính toán, không hề biết động lòng với chính đồng bào mình,
nhưng làm phép tính giữa chi phí và lời thu về thì rất nhanh.”
(People
and leadears throughout the world must be told, again and again, that this is
the government of the Socialist Republic of Vietnam which has actively promoted
this massive migration, causing havoc to the countries of Southeast
Asia...
They
have cold, calculating minds, which, whilst incapable of compassion to their
own people, are nevertheless most acute in computing cost-benefits.)
Nguồn: Margaret Thatcher
Foundation
Từ
1979 đến nay là gần nửa thế kỷ. Trong khoảng thời gian này đã có hai
đợt di dân tập thể từ Việt Nam: thuyền nhân cũ và những thuyền nhân
mới - ancient boat people and nouveaux boat people.
Giữa hai
lớp người này có nhiều điểm dị biệt nhưng chính sách của nhà đương
cuộc Hà Nội thì trước sau như một, hoàn toàn xuyên suốt và nhất
quán: “Họ có đầu óc lạnh lùng tính toán, không hề biết động lòng với chính đồng
bào mình, nhưng làm phép tính giữa chi phí và lời lãi thu về thì rất
nhanh.”
Nói
cho nó gọn thì đây là một hình thức buôn dân của giới lãnh đạo Việt
Nam hiện nay. Nước họ còn dám bán thì buôn dân, tất nhiên, chỉ là
chuyện nhỏ.
No comments:
Post a Comment