Hôm qua, tôi có đếm số thành viên trong Bộ chính trị
(BCT) và chỉ ra rằng 3/4 là đến từ miền Bắc, và hơn phân nửa có bằng tiến sĩ.
Hôm nay, một bạn đọc gửi một dữ liệu trong excel cho tôi gồm danh sách 180 uỷ
viên trung ương đảng, và hỏi tôi "Chú thử phân tích xem có cho ra câu chuyện
gì hay không?" Để đáp lại thịnh tình và sự tin tưởng của bạn đọc, tôi lại
đếm và tìm ra câu chuyện để chia sẻ cùng các bạn.
Ban chấp hành (BCH) đảng có 180 uỷ viên chính thức.
Thông tin mà bạn đọc thu thập cho từng uỷ viên là tên, năm sinh, vùng, và học vị.
Vùng bao gồm Bắc bộ, Bắc Trung bộ, Trung bộ, và Nam bộ. Học vị có 3 bậc chính:
cử nhân (BS), thạc sĩ (MS), và tiến sĩ (PhD). Với dữ liệu như thế này thì thú
thật cũng khó làm cho ra câu chuyện, nhưng tôi cũng cố gắng đặt vài câu hỏi hết
sức căn bản:
• Có sự khác biệt về sự phân bố uỷ viên BCH theo vùng;
• Tuổi tác của các uỷ viên BCH
• Trình độ học vấn của BCH ra sao;
• Uỷ viên vùng nào có tỉ lệ với bằng tiến sĩ cao nhất.
Cũng như phân bố trong Bộ chính trị, phần đông uỷ
viên BCH Khoá XII cũng là người miền Bắc (Biểu đồ 1). Trong số 180 người, 81
(45%) là từ miền Bắc. Con số uỷ viên miền Bắc cao gần gấp 2 lần con số ủy viên
miền Nam (42 người, hay 23%). Miền Nam Trung Bộ có 29 người, tương đương với số
uỷ viên Bắc Trung Bộ (28 người).
Về độ tuổi, Biểu đồ 2 cho thấy khá lệch về phía
trái. Nhưng điều này dễ hiểu vì qui định của đảng về độ tuổi để tham gia BCH.
Nhưng có một giá trị "ngoại vi" (trên tuổi 70), và người đó chẳng ai
khác hơn là ông Nguyễn Phú Trọng. Tính chung, tuổi trung bình là 54, với tuổi
trẻ nhất là 39 (Nguyễn Xuân Anh và Nguyễn Thanh Nghị). 75% thành viên có tuổi
dưới 57.
Biểu đổ 3 cho thấy ngoại trừ vài giá trị có vẻ như
"ngoại vi", không có sự khác biệt về tuổi tác giữa các vùng. Tuổi trung
bình (median) của 3 vùng Bắc, Trung, và Nam đều là 55; chỉ có vùng Bắc Trung bộ
có tuổi trung bình là 56. Tuy nhiên, sự khác biệt này có lẽ chỉ là "ngẫu
nhiên", (vì không có ý nghĩa thống kê).
Về trình độ học vấn, một điều kinh ngạc là khá nhiều
uỷ viên có học vị tiến sĩ! Thật vậy, 61 người (34%) có bằng tiến sĩ, và con số
này cao hơn con số uỷ viên có bằng thạc sĩ (49 người, 27%) hay số có bằng cử
nhân (50, 28%). Có 20 người không rõ bằng cấp là gì, và phần lớn những người
này là trong quân đội.
Tuy nhiên, trình độ học vấn có vẻ khác biệt giữa các
vùng. Nếu lấy tỉ lệ uỷ viên có bằng tiến sĩ, thì miền Trung là vùng có học cao
nhất. Thật vậy, 46% (hay 13/28) uỷ viên miền Bắc Trung Bộ, và 41% (12/29) uỷ
viên miền Nam Trung bộ có bằng tiến sĩ. Tỉ lệ uỷ viên BCH miền Bắc là 33%
(27/81). Miền Nam có học vấn thấp nhất, với 21% (9/42) người có bằng tiến sĩ
(Biểu đồ 4).
Thấy gì qua những con số trên? Phải nói rằng phân bố
về trình độ học vấn ở BCH rất quái đản. Thông thường, chúng ta biết rằng phân bố
trình độ học vấn theo hình tháp: số tiến sĩ là ít nhất, số thạc sĩ cao hơn tiến
sĩ, và số cử nhân cao hơn thạc sĩ. Nhưng trong 180 người uỷ viên BCH thì nó ngược
lại: số người có bằng tiến sĩ cao hơn số người có bằng cử nhân và thạc sĩ! Đó
là một hiện tượng kì quái, rất hiếm thấy ở các xã hội tiên tiến và có nền giáo
dục đàng hoàng.
Con số hơn 1/3 uỷ viên TƯ đảng có bằng tiến sĩ có thể,
tuỳ theo cá nhân, hiểu nhiều cách khác nhau, nhưng tôi nghĩ nó phản ảnh một sự
thành công bước đầu trong chủ trương “tiến sĩ hoá” guồng máy đảng và chính quyền.
Chúng ta còn nhớ một vị quan chức Hà Nội tuyên bố rằng đến năm 2012 sẽ có 50%
công chức khối chính quyền Hà Nội có bằng tiến sĩ, và đến năm 2020, 100% những
người quản lí sẽ có bằng tiến sĩ. Ông này còn tuyên bố rằng phải có bằng tiến
sĩ mới “đột phá tư duy”. Do đó, tôi nghĩ con số 1/3 uỷ viên TƯ đảng có bằng tiến
sĩ chính là một “thành tựu” của chủ trương này.
Con số trên cũng có thể nói lên rằng văn bằng tiến
sĩ chỉ là tấm giấy thông hành đế thăng quan tiến chức. Thật vậy, có thời (và
cho đến nay), VN có qui định làm quan chức cỡ nào thì cần phải có bằng tiến sĩ.
Tôi đoán là trong đảng cũng thế, cái bằng tiến sĩ là một “leverage” để đương sự
có một thế cạnh tranh tốt hơn đồng môn. Giữa hai người có cùng các phẩm chất
khác, thì người có bằng tiến sĩ thường được đánh giá cao hơn người không có bằng
tiến sĩ. Có lẽ chính vì thế mà sự hiện diện của các tiến sĩ trong uỷ viên trung
ương đảng cao đến bất thường như thế.
Tóm lại, các uỷ viên miền Bắc chiếm ưu thế trong BCH
đảng CSVN Khoá XII, với tỉ trọng cao gần gấp 2 lần so với con số uỷ viên miền
Nam. Một điều đáng kinh ngạc là một phần ba uỷ viên BCH có bằng tiến sĩ, nhưng
tỉ lệ này cao nhất ở các uỷ viên miền Trung. Con số tiến sĩ trong TƯ đảng cũng
nói lên một sự khủng hoảng và mất định hướng về học vị tiến sĩ ở Việt Nam.
====
PS: Xin chân thành cám ơn VHB đã gửi dữ liệu cho tôi. Tôi hiểu để có dữ liệu
này, em ấy phải bỏ ra hàng giờ để sưu tầm. Tôi phải “clean” vài chỗ để có thể
phân tích thành một câu chuyện.
----------------------------------
Tôi lại sắp làm phiền một số bạn khi trả lời câu hỏi
trên, vì sẽ có một câu trả lời ... nhạy cảm. Thật tình, dù không muốn bị tẩy não,
nhưng vẫn khó mà tránh được những bàn luận chung quanh những kết cục của đại hội
XII của Đảng CSVN. Một trong những kết cục đó là thành phần trong Bộ chính trị.
Khi so sánh với BCT XI, tôi thấy BCT XII có hai cái mới liên quan đến phân bố
vùng miền và trình độ học vấn.
BCT Khoá XII có 19 người, tăng 3 người so với BCT
Khoá XI. Nhưng điểm đáng chú ý là nhìn vào danh sách thấy rất nhiều người miền
Bắc. Thật vậy, trong số 19 người thì có đến 14 người (tức gần 3/4) là từ miền
ngoài. Trong khi đó, BCT XI, có 9/16 (hay 56%) là người miền Bắc. Nói cách
khác, tỉ lệ uỷ viên BCT XII từ miền Bắc tăng 31% so với BCT XI. Thật ra, sự
phân bố trên cũng khá phù hợp với thực tế là 70% đảng viên là người miền Bắc(1).
Một dữ liệu khác cũng thú vị không kém là trình độ học
vấn. Năm nay, BCT XII có đến 10 người (tức hơn phân nửa) có bằng Tiến sĩ. Nhưng
BCT XI chỉ có 7/16 là Tiến sĩ. Như vậy, tỉ lệ uỷ viên Tiến sĩ tăng 20%. Sẽ rất
thú vị nếu có được con số uỷ viên TƯ đảng có bằng Tiến sĩ, nhưng chưa biết con
số này sẽ lấy từ đâu.
Càng ngạc nhiên hơn khi biết rằng ngay cả BCT bên
Tàu, nơi mà VN bắt chước, cũng có ít Tiến sĩ hơn VN. Trong số 25 người trong
BCT Tàu, chỉ có 5 người có bằng Tiến sĩ(2).
Chẳng những số Tiến sĩ áp đảo, mà con số Giáo sư và
Phó giáo sư trong BCT XII cũng rất đáng nể. Có đến 6 người mang hàm GS/PGS: Trần
Đại Quang, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Thiện Nhân, Phạm Minh Chính, Vương Đình Huệ,
và Tô Lâm. Chưa thấy nơi nào mà giới cầm quyền tối cao lại có nhiều người mang
hàm Giáo sư như ở VN.
Nếu người nước ngoài nhìn vào danh sách uỷ viên BCT
và biết được trình độ học vấn của họ thì sẽ rất nể phục VN. Nếu nghĩ rằng trình
độ học vấn có tương quan với phát triển kinh tế, thì có thể họ sẽ suy luận rằng
VN là nước rất phát triển. Nhưng trong thực tế, VN là một nước nghèo và hay
"ăn xin". Ăn xin nhiều đến nỗi giới ngoại giao nước ngoài hỏi chừng
nào VN hết ăn xin(3). Thật ra, (nói vui một chút), ở VN có một sự tương quan
cao giữa số quan chức có bằng Tiến sĩ và vay/xin ODA: theo thời gian, con số Tiến
sĩ càng nhiều thì số tiền vay/xin ODA càng cao!
Nói tóm lại, BCT XII năm nay có đến 3/4 là người miền
Bắc; và hơn phân nửa có bằng Tiến sĩ, và trong số đó có 6 người mang hàm Giáo
sư.
N.
T.
(3) Theo ông Lê Đăng Doanh thuật lại trong một buổi
báo cáo cho trung ương đảng với cách nói thẳng và không màu mè: "[…] Tôi
xin báo cáo rất chân thành với các anh là ra đấy chỉ khổ tâm thôi. Nhiều thằng
nó nói với tôi là chúng mày định ngửa tay đi ăn xin đến bao giờ nữa? Chúng mày
là người thông minh, có học, về mặt nào đấy chúng mày không kém gì chúng tao cả...
Tại sao chúng mày cứ ăn xin miết thế. Chúng mày giỏi thế mà chúng mày nghèo lâu
đến như thế là thế nào? Chúng mày cứ đề ra cái mục tiêu là đến bao giờ chúng
mày đừng có đi ăn xin nữa được không? Nó nói với tôi trắng trợn và thẳng lắm chứ,
y nguyên như tôi nói với các anh chị" (http://www.wright.edu/~tdung/LeDangDoanh_02_11_2004.htm).
-------------------------------
TÀI LIỆU :
Dân
Trí - Thứ Năm, 28/01/2016
- 21:00
No comments:
Post a Comment